BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TPHCM
******
WANG JIA
ẢNH HƯỞNG CỦA TIỂU THUYẾT
MINH THANH ĐỐI VỚI TIỂU THUYẾT NAM
BỘ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1900-1930
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
TP. Hồ Chí Minh, Năm 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TPHCM
******
WANG JIA
ẢNH HƯỞNG CỦA TIỂU THUYẾT
MINH THANH ĐỐI VỚI TIỂU THUYẾT NAM
BỘ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1900-1930
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 62 22 34 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học:
GS. TS. Huỳnh Như Phương
TP. Hồ Chí Minh, Năm 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ
công trình nào khác.
Tác giả luận án
Wang Jia
Mục lục
M
Mở đầu… ….………
……………
……………
……………
……………
……………
………...1
……………
……………
………….1
1. Lý do chọn đđề tài, mục đích nghhiên cứu…
……………
……………
……………
……………
………….22
2. Lịcch sử vấn đề………
3. Đốii tượng, nhiệm
n
vu, phạm vi nghiên
n
cứu…………
……………
………….99
4. Phư
ương phápp nghiên cứu
c
.…… ………………………………………100
5. Ý nghĩa
n
khoaa học và thực
t
tiễn của
c đề tài…
……………
……………
………..11
6. Cấuu trúc củaa luận án…
……………
……………
……………
……………
………..122
C
Chương 1 Tình hình
h dịch thu
uật và xuấất bản tiểu
u thuyết Minh
M
Thanh Trungg
Q
Quốc ở Việt
V
Nam đầu thếế kỷ XX (1900-19930) ……
……………
………..144
1.1. Kh
hái quát về
v tiểu thuuyết Minh Thanh ……..………
…
……………
………..144
1.2. Tìnnh hình truuyền bá củaa tiểu thuyyết Minh Thhanh tại Việt Nam trư
ước thế kỷỷ
XX…………………………………………………28
1.3. Tình hình dịch
d
tiểu thuyết
t
Minnh Thanh ở Việt Naam giai đooạn 1900-1930…………………………………………………………32
t
dịch tiiểu thuyết Minh Thannh tại Việtt
1.4. Ngguyên nhânn hình thànnh phong trào
Nam
N
vào đầu thế kỷ XX…
……………
……………
………… ……...344
1.5. Đặặc điểm củủa phong trrào dịch tiiểu thuyết Minh Than
nh tại Việtt Nam giaii
đ oạ n 190 0 - 1 9 3 0 … … … … … … … … … … … … … … … … … … . 43
1.6. Một
M số vấn đề
đ đáng chhú ý về hiệện tượng sáách dịch Chung
C
Vô Diệm,
D
Mann
hoang
h
kiếếm hiệp, Tiểu
T
hồngg bào hảii thuỵ.……
………… ….......700
Tiểu kết
k ………
……………
……………
……………
………… ………… ………73
Chương 2 Ảnh hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh đối với tiểu thuyết Nam Bộ
đầu thế kỷ XX về mặt nội dung…………………………………………74
2.1. Ảnh hưởng về quan niệm tiểu thuyết …………………………........74
2.2. Ảnh hưởng về quan điểm sáng tác ………………………………....78
2.3. Ảnh hưởng về quan niệm diễn giải lịch sử…………………………83
2.4. Ảnh hưởng về quan niệm giáo dục………………………………..103
2.5. Ảnh hưởng về quan niệm nhân vật..................................................109
Tiểu kết ………………………………………………………………..112
Chương 3 Ảnh hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh đối với tiểu thuyết Nam Bộ
đầu thế kỷ XX về mặt nghệ thuật…………………………………..….113
3.1. Kết cấu chương hồi ……………………………………………….113
3.2. Nghệ thuật kể chuyện……………………………………………..126
3.3. Ngôn ngữ ..………………………………………………………..144
3.4. Thơ ca trong tiểu thuyết …………………………………………154
3.5. Nghệ thuật sáng tác và phóng tác: trường hợp tiểu thuyết Người bán
ngọc ……………………………………………………………162
Tiểu kết ………………………………………………………………..177
Kết luận …………………………………………………………………….179
Danh mục công trình của tác giả liên quan đến luận án………………....183
Tài liệu tham khảo………………………………………………………….184
Phụ lục 1…………………………………………………………………….200
Phụ lục 2…………………………………………………………………….203
Phụ lục 3…………………………………………………………………….205
Phụ lục 4…………………………………………………………………….221
Phụ lục 5…………………………………………………………………….241
1
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu
Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng hữu nghị, có lịch sử giao lưu
văn hóa lâu đời. Trong ba nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa lớn là Nhật
Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, thì Việt Nam, có thể nói, là nước chịu ảnh hưởng của
văn hóa Trung Hoa sâu sắc nhất. Ảnh hưởng này đã thâm nhập vào mọi mặt của đời
sống xã hội của Việt Nam, như ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, các chuẩn mực đạo
đức v.v..
Văn học Việt Nam cũng đã chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc rất nhiều,
từ Kinh thi, thơ Đường, đến tiểu thuyết Minh Thanh. Từ xưa đến nay, trong văn học
Việt Nam từ các bài thơ chữ Hán, những tác phẩm vĩ đại chữ Nôm đến các tiểu
thuyết hiện đại, đều có thể thấy được sự ảnh hưởng của văn học Trung Quốc.
Đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam từng xuất hiện phong trào dịch tiểu thuyết cổ điển
Trung Quốc ra Quốc ngữ. Trong đó, phần lớn là tiểu thuyết Minh Thanh. Mặc dù đã
có nhiều công trình nhắc đến phong trào dịch thuật đó, nhưng hầu như chưa có công
trình nào đi sâu so sánh bản dịch với nguyên văn. Vậy các bản dịch từ đâu ra, thể tài
nào của tiểu thuyết Minh Thanh được dịch nhiều nhất, và các bản dịch có chính xác
không? Khảo sát những bản dịch đó là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa quan trọng
đối với chúng tôi để làm rõ tình hình phiên dịch và truyền bá tiểu thuyết Minh
Thanh Trung Quốc đầu thế kỷ XX tại Việt Nam, đặc biệt là Nam Bộ Việt Nam.
Những tác phẩm dịch trên đã đóng vai trò quan trọng đối với tiến trình hiện
đại hóa văn học Việt Nam, đặc biệt là buổi đầu của tiến trình. Điều này cũng được
thể hiện rõ trong tiểu thuyết Nam Bộ giai đoạn 1900-1930. Những tiểu thuyết Minh
Thanh đã có ảnh hưởng lớn đối với hoạt động sáng tác của các tác giả Nam Bộ giai
đoạn đó. Do đó, khảo sát quan hệ giữa phong trào dịch tiểu thuyết Minh Thanh và
tiểu thuyết Nam Bộ Việt Nam đầu thế kỷ XX sẽ giúp chúng tôi tìm hiểu thêm về
tình hình các nhà văn Việt Nam tiếp nhận tiểu thuyết Minh Thanh đầu thế kỷ XX.
2
Ở Trung Quốc, cũng có nhiều học giả nghiên cứu về văn học trung đại Việt
Nam, nhưng văn học giao thời ít khi được quan tâm. Và phần lớn nhà nghiên cứu
Trung Quốc đều tập trung nghiên cứu văn học miền Bắc, ít khi quan tâm đến văn
học Nam Bộ Việt Nam. Nhưng trong kho tàng văn học Việt Nam, văn học Nam Bộ
lại là một phần quan trọng và không thể thiếu được.
Chọn đề tài này, chúng tôi hy vọng thông qua nghiên cứu những tác phẩm văn
học Nam Bộ 1900-1930 thấy được những quan hệ giữa tiểu thuyết Minh Thanh và
văn học Nam Bộ giai đoạn đó; đồng thời thấy được những đặc điểm ảnh hưởng của
tiểu thuyết Minh Thanh ở giai đoạn này. Ngoài ra, người viết cũng hy vọng thông
qua nghiên cứu có thể giới thiệu những tiểu thuyết Nam Bộ Việt Nam với Trung
Quốc, để người ta hiểu biết thêm về văn học Nam Bộ.
2. Lịch sử vấn đề
Do hạn chế về tư liệu, trước đây trong giới nghiên cứu ít khi có người đi sâu
nghiên cứu về vấn đề ảnh hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh đối với tiểu thuyết
Nam Bộ giai đoạn 1900-1930. Mấy năm nay, ngày càng đông nhà nghiên cứu bắt
đầu để ý đến vấn đề phiên dịch tiểu thuyết Minh thanh tại Việt Nam đầu thế kỷ XX
và những ảnh hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh đối với sự hình thành của tiểu
thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ XX.
Có thể chia lịch sử nghiên cứu vấn đề ảnh hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh
đối với tiểu thuyết Nam Bộ giai đoạn 1900-1930 thành hai hướng: phong trào dịch
truyện Tàu tại Việt Nam đầu thế kỷ XX; ảnh hưởng của truyện Tàu đối với tiểu
thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ XX.
2.1. Những công trình nghiên cứu của Trung Quốc
Trước thế kỷ XX, tiểu thuyết Minh Thanh đã truyền vào Việt Nam, về con
đường truyền bá, sự ảnh hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh đối với văn học trung
đại Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về con đường truyền bá của tiểu
thuyết Minh Thanh vào Việt Nam.
3
Trong bài nghiên cứu Sự truyền bá và ảnh hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh
Trung Quốc tại Việt Nam 中国明清小说在越南的流传与影响, Trần Ích Nguyên
đã nghiên cứu về con đường truyền bá của tiểu thuyết Minh Thanh sang Việt Nam,
và nhấn mạnh vai trò của các sứ giả trong quá trình mang sách Minh Thanh về Việt
Nam. Trong bài nghiên cứu Sứ giả Việt Nam và giao lưu văn học Trung Việt 越南
使臣与中越文学交流, Lưu Ngọc Quân đã đi sâu nghiên cứu về tác dụng của các sứ
giả trong quan hệ giao lưu văn học Trung Việt.
Luận án tiến sĩ Sự truyền bá và ảnh hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh tại Việt
Nam 明清小说在越南的传播与影响 của Hạ Lộ là công trình lần đầu tiên nghiên
cứu lịch sử truyền bá của tiểu thuyết Minh Thanh tại Việt Nam một cách hệ thống
và đã phân tích con đường truyền bá, đặc trưng truyền bá của tiểu thuyết Minh
Thanh cũng như sự tiếp nhận của văn học chữ Hán, chữ Nôm của Việt Nam đối với
tiểu thuyết Minh Thanh. Ngoài ra tác giả còn đi sâu so sánh Tiễn đăng tân thoại và
Truyền kỳ mạn lục, Kim Vân Kiều truyện và Truyện Kiều, Trung hiếu tiết nghĩa nhị
độ mai toàn truyện và Nhị độ mai truyện, Lục Vân Tiên truyện, cũng như Tam Quốc
diễn nghĩa và tiểu thuyết lịch sử Việt Nam v.v.. Nhưng phạm vi nghiên cứu của
luận án này chỉ hạn chế trong văn học trung đại Việt Nam, chưa mở rộng đến thế kỷ
XX.
Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu về quan hệ tiểu thuyết Minh
Thanh và văn học trung đại Việt Nam như Luận về sách chữ Hán Việt Nam 越南汉
籍文献述论 của Trần Ích Nguyên, Nghiên cứu sự truyền bá của tiểu thuyết Minh
Thanh 明清小说传播研究 của Vương Bình, So sánh Hoàng Lê nhất thống chí Việt
Nam và Tam Quốc diễn nghĩa Trung Quốc 越南<皇黎一统志>与中国<三国演义>
之比较 của Từ Kiệt Thuấn và Lục Linh Tiêu v.v..
Bước vào thế kỷ XX, với nhu cầu truyền bá chữ Quốc ngữ của thực dân Pháp,
tiểu thuyết Minh Thanh được dịch ra Quốc ngữ với số lượng khổng lồ và hình thành
một phong trào dịch thuật truyện Tàu (phần lớn là tiểu thuyết Minh Thanh) khởi
đầu từ Nam Bộ. Về phong trào phiên dịch đó ở Trung Quốc chỉ có vài công trình
4
bàn đến. Trong đó, bài nghiên cứu Ảnh hưởng của Tiểu thuyết Trung Quốc đối với
văn học Việt Nam 中国小说对越南文学的影响 của giáo sư Nhan Bảo là bài đầu
tiên nói về vấn đề truyền bá tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc tại Việt Nam đầu thế kỷ
XX. Đóng góp lớn nhất của bài viết này là sưu tầm một thư mục về các tiểu thuyết
cổ điển Trung Quốc được dịch và xuất bản tại Việt Nam từ năm 1901 đến năm
1968, tổng cộng sưu tầm được 316 đầu sách (không tính tái bản). Thư mục đó đã
tạo nền tảng quan trọng để chúng tôi đi sâu nghiên cứu tình hình truyền bá và ảnh
hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh tại Việt Nam đầu thế kỷ XX. Nhưng rất tiếc là
trong thư mục đó chỉ liệt ra tên sách dịch, chứ không có liệt ra tên tiểu thuyết cổ
điển Trung Quốc đã được dịch ra là gì. Bởi vì khi người dịch tiểu thuyết Minh
Thanh ra Quốc ngữ, có khi không dịch theo nguyên tên, cho nên khi chúng tôi làm
nghiên cứu trên thư mục đó cũng phải phân tích thêm những cuốn sách dịch đó dịch
từ đâu ra, là tiểu thuyết Minh Thanh hay không.
Phong trào dịch tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc tại Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX 略论 20 世纪上半叶中国古典小说在越南的翻译热 của Hạ Lộ là bài nghiên
cứu duy nhất chuyên nghiên cứu về phong trào dịch truyện Tàu đầu thế kỷ XX của
Trung Quốc. Trong bài này tác giả đã trình bày khái quát tình hình phiên dịch
truyện Tàu tại Việt Nam đầu thế kỷ XX, và đã phân tích về nguyên nhân hình thành
phong trào dịch tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc tại Việt Nam, nhưng đối với các
bản dịch chưa đi sâu nghiên cứu.
Bài nghiên cứu Tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam 越南文学现代化进
程 của Dư Phú Triệu, Tạ Quần Phương là một bài duy nhất của nhà nghiên cứu
Trung Quốc giới thiệu khái quát về vấn đề tiến trình hiện đại hoá của Việt Nam,
nhưng chưa được đi sâu về vấn đề.
Trong cuốn sách Lịch sử giao lưu văn học Đông Phương 东方文学交流史
của giáo sư Mạnh Chiêu Nghị có một chương nói về lịch sử giao lưu văn học giữa
Trung Quốc và Việt Nam. Công trình nghiên cứu này đã nghiên cứu tỉ mỉ về cuộc
giao lưu văn học giữa hai nước từ văn học trung đại đến cận hiện đại, trong đó cũng
5
có nhắc đến phong trào dịch truyện Tàu đầu thế kỷ XX, nhưng chỉ là nói qua thôi,
chưa đi sâu.
Nói chung, đối với phong trào dịch truyện Tàu của Việt Nam đầu thế kỷ XX,
giới nghiên cứu Trung Quốc vẫn chưa quan tâm nhiều, công trình nghiên cứu về
phong trào dịch đó cũng rất ít.
Cho đến bây giờ, ở Trung Quốc hầu như không thấy được bài nào là nói về
ảnh hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh đối với văn học Việt Nam thế kỷ XX. Còn
về văn học Nam Bộ cũng ít khi có bài nhắc đến. Có thể nói vấn đề truyền bá và tình
hình tiếp nhận tiểu thuyết Minh Thanh tại Việt Nam, đặc biệt là tại Nam Bộ Việt
Nam đầu thế kỷ XX vẫn chưa được giới nghiên cứu Trung Quốc chú ý nhiều.
2.2. Những công trình nghiên cứu của Việt Nam
Khác với tình hình nghiên cứu của Trung Quốc, giới nghiên cứu Việt Nam đã
chú ý đến phong trào dịch truyện Tàu đầu thế kỷ XX, hầu như trong tất cả công
trình nghiên cứu về văn học Việt Nam, đặc biệt là tiểu thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ
XX ở Việt Nam, đều có nội dung trình bày về phong trào dịch truyện Tàu đầu thế
kỷ XX đó cũng như ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc đối với sự hình
thành của tiểu thuyết Nam Bộ giai đoạn giao thời. Trong các công trình đó, về tình
hình phiên dịch, nguyên nhân hình thành phong trào đó đều có phân tích rõ ràng.
Nhưng trong các công trình nghiên cứu ít thấy có công trình đi sâu nghiên cứu nội
dung bản dịch, cũng ít thấy có công trình so sánh bản dịch và bản gốc tiểu thuyết
Minh Thanh Trung Quốc. Đây là một khoảng trống trong hoạt động nghiên cứu về
phong trào dịch thuật văn học thời kỳ đó.
Trong các công trình nghiên cứu đó, Văn học Quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930
của Bằng Giang là một công trình rất quan trọng về văn học Nam Bộ cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX. Trong cuốn sách này tác giả đã đi sâu khảo sát về hiện tượng
phong trào dịch tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc tại Việt Nam và cho rằng dịch đi
trước sáng tác, và phong trào dịch đó đã kích thích nhà văn Việt Nam sáng tác. Và
đóng góp rất lớn của công trình nghiên cứu này là sưu tầm công phu những thư mục
của các tác giả Nam Bộ tiêu biểu ở giai đoạn 1865-1930.
6
Phần Văn học chữ quốc ngữ ở Sài Gòn - Gia Định cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX trong cuốn Địa chí văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh tập II do Trần Văn Giàu,
Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Y viết là một công trình lớn đã cung cấp nhiều tài
liệu về văn học Việt Nam nói chung, tiểu thuyết Nam Bộ nói riêng. Trong công
trình này cũng có nhắc đến hiện tượng tràn lan truyện Tàu tại Nam Bộ đầu thế kỷ
XX và các nhà văn Nam Bộ đã phản ứng lại hiện tượng đó để sáng tác tác phẩm,
đặc biệt là tiểu thuyết lịch sử. Địa chí đã cung cấp một thư mục về truyện Tàu, tiểu
thuyết - truyện ngắn được xuất bản tại Nam Bộ trong giai đoạn 1866-1930. Mặc dù
trong thư mục đó có những sai lầm, nhưng cũng là một tài liệu bổ sung quan trọng
cho thư mục GS. Nhan Bảo.
Còn có một công trình rất đáng chú ý là Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX do nhóm tác giả Nguyễn Kim Anh (chủ biên), Nguyễn Thị Trúc
Bạch, Hà Thanh Vân, Vũ Văn Ngọc, Hoàng Tùng, Huỳnh Vĩnh Phúc biên soạn.
Công trình này đã giới thiệu khái quát về tiểu thuyết Nam Bộ cũng như tiểu sử sự
nghiệp của 30 nhà văn Nam Bộ.
Ngoài ra, còn có một số luận án tiến sĩ về tiểu thuyết Nam Bộ có trình bày về
vấn đề phiên dịch truyện Tàu và ảnh hưởng của truyện Tàu đối với tiểu thuyết Nam
Bộ.
Luận án phó tiến sĩ Sự hình thành và vận động của thể loại tiểu thuyết văn
xuôi tiếng Việt ở Nam Bộ giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1932 của Tôn Thất
Dụng là công trình đầu tiên đi sâu nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của
tiểu thuyết Nam Bộ. Trong đó, có một phần nội dung chuyên bàn về ảnh hưởng của
tiểu thuyết Trung Hoa đối với tiểu thuyết Nam Bộ. Tác giả đã đi sâu nghiên cứu
tình hình dịch thuật truyện Tàu và ảnh hưởng của chúng và đưa ra những nhận định
khá thoả đáng.
Luận án Quá trình hiện đại hoá tiểu thuyết Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến
đầu thế kỷ XX của Cao Xuân Mỹ cũng có nhắc đến ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ
điển Trung Hoa đối với tiến trình hiện đại hoá của tiểu thuyết Việt Nam và đã cung
7
cấp một thư mục tiểu thuyết Quốc ngữ được xuất bản vào cuối thế kỷ XIX đến năm
1932.
Luận án tiến sĩ Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX của Võ
Văn Nhơn cũng đã dành một phần riêng để trình bày ảnh hưởng của tiểu thuyết
Trung Hoa. Trong đó đã điểm qua hiện tượng phiên dịch truyện Tàu và ảnh hưởng
của chúng. Điều đáng chú ý là trong luận án, tác giả đã nêu ra vấn đề phóng tác tiểu
thuyết cổ điển Trung Quốc, mặc dù tác giả chưa đi sâu nghiên cứu, nhưng cũng
cung cấp cho chúng tôi một hướng nghiên cứu mới. Trong phần phụ lục, tác giả đã
trích ra các đoạn Thể lệ các cuộc thi tiểu thuyết, ý kiến về tiểu thuyết và Giới thiệu,
phê bình tiểu thuyết từ các tờ báo đầu thế kỷ XX, cung cấp nhiều tài liệu đáng quý
cho chúng tôi.
Luận án tiến sĩ Vai trò của văn học dịch đối với quá trình hiện đại hoá tiểu
thuyết Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX của Nguyễn Đình Vĩnh là một luận án
đi sâu nghiên cứu về quan hệ văn học dịch và văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Trong đó, tác giả dành riêng cả chương 2 để nói về vấn đề vài trò của văn học dịch
Trung Quốc đối với quá trình hiện đại hoá tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn nửa đầu
thế kỷ XX. Tác giả ngoài giới thiệu văn học dịch Trung Quốc đầu thế kỷ XX ra, còn
đi sâu phân tích ảnh hưởng của văn học dịch Trung Quốc đối với tiểu thuyết Việt
Nam từ những mặt như kết cấu chương hồi, đề tài, ngôn ngữ v.v..
Còn có một số luận văn thạc sĩ đi sâu khảo sát các nhà văn Nam Bộ, trong đó
cũng có phần nghiên cứu về ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc đối với
nhà văn, như Sự nghiệp văn học của Nguyễn Chánh Sắt của Trần Thị Cẩm Xuân,
Những đóng góp của Nguyễn Chánh Sắt trong tiến trình văn học Nam Bộ nửa đầu
thế kỷ XX của Trần Thị Lan, Đặc điểm tiểu thuyết lịch sử Tân Dân Tử của Nguyễn
Biên Soạn v.v..
Ngoài những công trình trên, còn có nhiều bài báo nghiên cứu về vấn đề dịch
truyện Tàu đầu thế kỷ XX như Những bổ khuyết cần thiết cho bức tranh toàn cảnh
của văn học Việt Nam hiện đại của Trần Hữu Tá, Ý thức văn hoá trong dịch thuật
văn chương ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến 1945, Văn chương quốc ngữ Nam Bộ
8
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nhìn từ quá trình xã hội hoá chữ quốc ngữ của
Nguyễn Văn Hiệu, Vai trò của dịch thuật văn chương và sự phát triển của văn học
Việt Nam của Nguyễn Văn Hoàn, Vai trò văn học dịch trong sự phát triển văn học
dân tộc của Nguyên Ngọc v.v..
Còn có một công trình đáng nói là công trình Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỷ
20 (2 tập) do Cao Xuân Mỹ sưu tầm đã giới thiệu 11 nhà văn Nam Bộ và những bộ
tiểu thuyết hoặc trích đoạn của họ được sáng tác vào đầu thế kỷ XX như Thầy
Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản, Ai làm được, Tiền bạc bạc tiền của Hồ Biểu
Chánh, Châu về hiệp phố của Phú Đức, Người bán Ngọc của Lê Hoằng Mưu, Nghĩa
hiệp kỳ duyên của Nguyễn Chánh Sắt, Mảnh trăng thu của Bửu Đình và những đoản
thiên tiểu thuyết của Trần Quang Nghiệp v.v.. Công trình này đã cung cấp cho
chúng tôi những văn bản quan trọng và tạo điều kiện thuận lợi để nghiên cứu.
Nhìn lại tình hình nghiên cứu đã có thể nhận thấy Trung Quốc và Việt Nam
đều đã có những công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh
đối với văn học Việt Nam nói chung, tiểu thuyết Nam Bộ nói riêng trong giai đoạn
đầu thế kỷ XX, nhưng còn tồn tại những vấn đề như sau:
1. Những công trình nghiên cứu tại Trung Quốc còn quá đơn giản, chưa đi sâu
vào vấn đề. Về hoạt động giao lưu văn học giữa Trung Quốc và Việt Nam vẫn chủ
yếu tập trung trong thời trung đại.
2. Việt Nam mặc dù có số lượng công trình không ít, nhưng phần lớn công
trình nghiên cứu về phong trào dịch truyện Tàu đều dừng lại ở chỗ giới thiệu
nguyên nhân hình thành phong trào, nói khái quát về tình hình bán chạy sách dịch
tiểu thuyết Trung Quốc, chưa có công trình nào đi sâu so sánh bản dịch và bản gốc.
Về ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc đối với tiểu thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ
cũng chưa được đi sâu, đặc biệt là đối với hiện tượng phóng tác càng ít người
nghiên cứu.
Do đó, chúng tôi nhận thấy rằng sưu tầm, nghiên cứu những bản dịch tiểu
thuyết Minh Thanh sẽ là một việc làm cần thiết và hấp dẫn. Và ảnh hưởng của tiểu
9
thuyết Minh Thanh đối với tiểu thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ XX cũng có nhiều vấn đề
đáng đi sâu nghiên cứu.
3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát của luận án là những tiểu thuyết Minh Thanh đã được dịch
ra chữ Quốc ngữ và những tác phẩm tiểu thuyết văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ ở
Nam Bộ trong 30 năm đầu thế kỷ XX. Chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu phong trào
dịch tiểu thuyết Minh Thanh và ảnh hưởng của phong trào đó đối với việc sáng tác
tiểu thuyết của các nhà văn Nam Bộ. Trong các tác phẩm tiểu thuyết Nam Bộ,
chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu về những thể tài tiểu thuyết đã chịu ảnh hưởng
sâu sắc của tiểu thuyết Minh Thanh Trung Quốc như tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết
võ hiệp v.v..
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
1. Luận án sẽ nghiên cứu tình hình phiên dịch tiểu thuyết Minh Thanh ở Việt
Nam, đặc biệt là Nam Bộ Việt Nam đầu thế kỷ XX từ những mặt như nguyên nhân
hình thành phong trào phiên dịch, thể tài, nội dung tiểu thuyết Minh Thanh được
phiên dịch, hình thức xuất bản, phong cách phiên dịch v.v..
2. Luận án sẽ nghiên cứu về những ảnh hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh
trong tiểu thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ XX.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi sẽ chỉ khảo sát những bộ tiểu thuyết Minh Thanh được dịch từ tiếng
Trung ra chữ Quốc ngữ trong 30 năm đầu thế kỷ XX. Và tập trung chủ yếu khảo sát
38 bản dịch đã sưu tầm được.
Chúng tôi sẽ khảo sát những bộ tiểu thuyết Quốc ngữ được xuất bản tại Nam
Bộ trong 30 năm đầu thế kỷ XX có dấu vết tiểu thuyết Minh Thanh Trung Quốc rõ
ràng như tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết võ hiệp v.v..
Trong luận án, chúng tôi còn đi sâu khảo sát bộ phóng tác Người bán ngọc của
Lê Hoằng Mưu và nguyên tác truyện ngắn Hương Thái Căn cải trang gian dâm
10
mệnh phụ trong tập truyện ngắn Hoan hỷ oan gia Trung Quốc.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đối với đề tài này, chúng tôi cần phải kết hợp những phương pháp nghiên cứu
khác nhau mới có thể có một quan điểm toàn diện. Để thực hiện nhiệm vụ đề tài
luận án đề ra, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương
pháp lịch sử, đối chiếu, thống kê.
4.1. Phương pháp lịch sử
Thông qua phương pháp lịch sử, luận án đã khảo sát và phân tích nguyên nhân
hình thành phong trào dịch tiểu thuyết Minh Thanh tại Nam Bộ Việt Nam đầu thế
kỷ XX, cũng như vai trò của phong trào đó trong tiến trình hiện đại hoá văn học
Nam Bộ Việt Nam.
4.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu
Đối chiếu là phần trọng tâm của luận án. Sử dụng phương pháp đối chiếu, luận
án nhằm làm rõ quan hệ giữa tiểu thuyết Minh Thanh và tiểu thuyết Nam Bộ đầu
thế kỷ XX. Chúng tôi thông qua đối chiếu các văn bản gốc của tiểu thuyết Minh
Thanh và các bản dịch cũng như những tác phẩm tiểu thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ
XX để đưa ra quan điểm khách quan và chuẩn xác. Phương pháp đối chiếu sẽ được
áp dụng thường xuyên trong phần xác định nguồn gốc bản dịch, nghiên cứu phóng
tác, khảo sát ảnh hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh đối với tiểu thuyết Nam Bộ
Việt Nam.
4.3. Phương pháp thống kê - phân loại
Với phương pháp này, luận án khảo sát số lượng bản dịch, thể tài tiểu thuyết
Minh Thanh được dịch tại Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỷ XX cũng như lực
lượng dịch giả thời đó để tìm hiểu tình hình phiên dịch tiểu thuyết Minh Thanh đầu
thế kỷ XX; thống kê số lượng tiểu thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ XX. Luận án có đưa
ra một số bảng thống kế để minh hoạ cho những luận điểm trong luận án.
11
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1. Qua khảo sát các bản dịch tiểu thuyết Minh Thanh, và so sánh với bản gốc
Trung Quốc chúng tôi đã đi sâu phân tích hiện tượng phong trào phiên dịch tiểu
thuyết Minh Thanh tại Nam Bộ Việt Nam đầu thế kỷ XX về những mặt như số
lượng, nguồn gốc của bản dịch, những thể tài nào của tiểu thuyết Minh Thanh đã
được dịch giả Nam Bộ Việt Nam chọn dịch.
2. Trong phần phụ lục chúng tôi làm ra một thư mục tiểu thuyết Minh Thanh
đã được dịch tại Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỷ XX, trong thư mục này chúng
tôi lần đầu tiên ghi rõ tên nguyên sách của các bộ tiểu thuyết Minh Thanh Trung
Quốc đã được dịch. Có trong phần phụ lục chúng tôi bước đầu sưu tầm những bài
tựa của các sách dịch tiểu thuyết Minh Thanh.
3. Luận án đã khảo sát các tác phẩm tiểu thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ XX,
nghiên cứu ảnh hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh đối với tiểu thuyết Nam Bộ đầu
thế kỷ XX về mặt nội dụng.
4. Luận án đã phân tích những biểu hiện cụ thể của các nhà văn Nam Bộ khi
tiếp nhận lối viết của tiểu thuyết Minh Thanh như kết cấu chương hồi, ngôn ngữ,
hiện tượng đưa câu thơ vào tiểu thuyết v.v..
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận án được triển khai thành 3
chương:
Chương 1: Tình hình dịch thuật và xuất bản tiểu thuyết Minh Thanh Trung
Quốc ở Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900-1930)
Chương này chủ yếu phân tích về nguyên nhân hình thành phong trào dịch
tiểu thuyết Minh Thanh tại Việt Nam, và phác thảo bức tranh phong trào dịch tiểu
thuyết Minh Thanh tại Việt Nam.
Chương 2: Ảnh hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh đối với tiểu thuyết Nam
Bộ đầu thế kỷ XX về mặt nội dung
12
Chương này chủ yếu khảo sát tình hình tiếp nhận của các nhà văn Nam Bộ đầu
thế kỷ XX về quan niệm tiểu thuyết, quan niệm sáng tác, quan niệm diễn giải lịch
sử, quan niệm giáo dục cũng như quan niệm về nhân vật của tiểu thuyết Minh
Thanh.
Chương 3: Ảnh hưởng của thuyết Minh Thanh đối với tiểu thuyết Nam Bộ
đầu thế kỷ XX về mặt nghệ thuật
Chương này trình bày ảnh hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh đối với tiểu
thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ XX về kết cấu, nghệ thuật kể chuyện, ngôn ngữ, câu thơ
v.v., cũng như hiện tượng sáng tác và phóng tác.
13
Chương 1
Tình hình dịch thuật và xuất bản tiểu thuyết Minh Thanh
Trung Quốc ở Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900-1930)
Mối quan hệ giao lưu Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu từ rất sớm. Trong sử
sách Trung Quốc và Việt Nam có rất nhiều ghi chép về những hoạt động giao lưu
giữa Trung Quốc và Việt Nam từ thời cổ đại.
Bắt đầu từ nhà Tần, hoạt động giao lưu giữa hai nước Trung-Việt đã được
triển khai với qui mô lớn. Hoạt động giao lưu có thể được chia thành hai giai đoạn,
lấy đầu thế kỷ X làm giới hạn. Giai đoạn một là hoạt động giao lưu hai nước trước
khi Việt Nam giành được độc lập, tức là thời Bắc thuộc. Trong giai đoạn này, Việt
Nam tiếp nhận văn hóa Trung Quốc một cách bị động. Giai đoạn hai là sau khi Việt
Nam giành được độc lập, trong giai đoạn này Việt Nam chủ động tiếp nhận văn hóa
Trung Quốc.
Nhìn lại lịch sử giao lưu văn hóa giữa hai nước Trung-Việt, bất cứ là Việt
Nam bị động hay là chủ động tiếp nhận văn hóa Trung Quốc, có một điều không thể
phủ nhận là hoạt động giao lưu văn hóa này chưa bao giờ ngừng. Văn hóa Trung
Quốc đã để lại những dấu vết sâu sắc trong nền văn hóa Việt Nam. Trong đó văn
học Việt Nam cũng đã tiếp nhận ảnh hưởng sâu sắc của văn học Trung Quốc từ ca
dao đến thơ phú, từ văn vần đến văn xuôi…
Trong lịch sử văn học Trung Quốc, các nhà nghiên cứu thường lấy một thể
loại văn học làm tiêu chí cho một thời kỳ văn học, như thơ Đường, từ Tống, khúc
Nguyên và tiểu thuyết Minh Thanh.
1.1. Khái quát về tiểu thuyết Minh Thanh
Ở Trung Quốc, mỗi thời đại đều có một thể loại văn học chính của mình. Nếu
nhà Đường là thời vàng của “thơ”, nhà Tống là thời vàng của từ, nhà Nguyên là thời
vàng của “khúc”, thì nhà Minh và nhà Thanh là thời vàng phát triển của “tiểu
14
thuyết”, tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc đã được phát triển đến đỉnh cao trong hai
triều đại này.
Trong gần 550 năm từ thời Minh Hồng Vũ1 (năm 1368) đến thời Thanh Tuyên
Thống2 (năm 1911), đã xuất hiện rất nhiều bậc thầy tiểu thuyết như La Quán Trung,
Thi Nại Am, Ngô Thừa Ân, Tiếu Tiếu Sinh, Phùng Mộng Long, Lăng Mông Sơ,
Ngô Kính Tử, Tào Tuyết Cần, Bồ Tùng Linh với những kiệt tác bất hủ như Tam
Quốc diễn nghĩa 三国演义, Thuỷ hử truyện 水浒传, Tây Du Ký 西游记, Kim Bình
Mai 金瓶梅, “Tam ngôn 三言”, “Nhị phách 二拍”, Nho lâm ngoại sử 儒林外史,
Hồng Lâu Mộng 红楼梦, Liêu trai chí dị 聊斋志异 v.v.. Trong hai triều đại Minh –
Thanh, các nhà văn Trung Quốc đã sáng tác ra khoảng 2000 bộ tiểu thuyết [118, 1]
viết bằng văn ngôn và bạch thoại3, và đã hình thành nhiều thể tài tiểu thuyết như
“diễn nghĩa lịch sử”, “truyền kỳ anh hùng”, “tiểu thuyết thần ma”, “tiểu thuyết thế
tình”, “tiểu thuyết công án”, “tiểu thuyết tài tử giai nhân”, “tiểu thuyết hiệp nghĩa”
v.v.. Có thể nói tiểu thuyết Minh Thanh là một thể loại tiêu biểu cho văn học thời
Minh – Thanh, và một số tác phẩm đã đạt được thành tựu cao nhất trong văn học cổ
đại Trung Quốc [118, 1], thậm chí cho đến hôm nay các tác phẩm hiện đại cũng khó
sánh được.
1.1.1. Tiến trình phát triển của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc trước thời
Minh – Thanh
Trong bài Sự diễn biến của lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, Lỗ Tấn khi nói đến
nguồn gốc của tiểu thuyết, đã viết: “Theo tôi, trong thứ tự xuất hiện của các tác
phẩm văn nghệ, có thể là thi ca xuất hiện trước tiểu thuyết. Thi ca khởi nguồn từ lao
động và tôn giáo ... Còn tiểu thuyết, tôi cho rằng là khởi nguồn từ giờ giải lao.
Trong quá trình lao động, mọi người ngâm thơ giải trí, để quên lãng sự mệt mỏi, và
1
Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương của nhà Minh, niên hiệu Hồng Vũ
Thanh Cung Tổ Phố Nghi của nhà Thanh, niên hiệu Tuyên Thống
3
Văn ngôn và bạch thoại là hai hình thức văn viết được sử dụng trong sáng tác văn học Trung
2
Quốc. Văn ngôn là hình thức văn viết bằng ngôn ngữ sách vở cổ; Bạch thoại là một hình thức văn
viết bằng ngôn ngữ gần với cuộc sống thường ngày.
15
đến giờ giải lao, thì phải tìm đến một việc nào đó để giải trí vui chơi. Việc đó chính
là kể chuyện với nhau, và việc kể chuyện đó chính là nguồn gốc của tiểu thuyết”
[119]. Có thể nói chính là trên cơ sở “kể chuyện” đã dần dần hình thành tiểu thuyết
cổ điển Trung Quốc.
Thần thoại, ngụ ngôn và sử sách được coi là ba thể loại văn học có ảnh hưởng
sâu sắc nhất tới tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Thần thoại được coi là nguồn gốc
chính của tiểu thuyết, câu chuyện ly kỳ, giàu trí tưởng tượng cũng như những nhân
vật sinh động, kỳ lạ của thần thoại đã ảnh hưởng đến sáng tác của các nhà văn cổ
đại Trung Quốc, trong nhiều tác phẩm tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc có thể thấy
rõ dấu vết thần thoại như Tây Du Ký 西游记, Phong thần diễn nghĩa 封神演义 của
nhà Minh, Liêu trai chí dị 聊斋志异 của nhà Thanh v.v..
Dưới đời nhà Tần và nhà Hán, trong nhiều cuốn sách như Trang Tử 庄子,
Mạnh Tử 孟子, Hàn Phi Tử 韩非子, Liệt Tử 列子, Mặc Tử 墨子, Tuân Tử 荀子
v.v. đều có nhiều truyện ngụ ngôn. Ngụ ngôn Trung Quốc thường kể về câu chuyện
của con người, bao gồm hai yếu tố tình tiết và nhân vật. Cho nên, giữa truyện ngụ
ngôn Trung Quốc và tiểu thuyết Trung Quốc có những điểm gặp gỡ, việc sáng tác
của các nhà văn cổ đại Trung Quốc đã học tập được rất nhiều từ các truyện ngụ
ngôn như thiết kế tình tiết, xây dựng nhân vật v.v..
Các cuốn sử sách kinh điển được thành sách vào đời nhà Tần và nhà Hán như
Tả truyện 左传, Chiến quốc sách 战国策, Sử ký 史记, Hán Thư 汉书 v.v. cũng đã
ảnh hưởng cực kỳ sâu sắc tới sự phát triển của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc.
Những cuốn sử sách đó dùng cách kể chuyện về nhân vật để phản ánh lịch sử, có
kết cấu tình tiết tương đối hoàn chỉnh, xây dựng được những hình ảnh nhân vật rõ
rệt. Thủ pháp nghệ thuật đó đã ảnh hưởng sâu sắc tới những tiểu thuyết lấy xây
dựng nhân vật làm trung tâm.
Đến thời Nguỵ Tấn Nam Bắc Triều, tại Trung Quốc đã hình thành hình thức
ban đầu của tiểu thuyết, số lượng tác phẩm cũng khá nhiều, nhưng thể loại tiểu
thuyết vẫn chưa được hoàn chỉnh. Trong thời đại này, chủ yếu có hai thể loại tiểu
thuyết: tiểu thuyết chí quái và tiểu thuyết chí nhân.
- Xem thêm -