Chuyên đề thực tập
1
NEU – Toán Kinh Tế
LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước làm thay đổi cơ bản
nền kinh tế với những chỉ số ngày càng khả quan. Trong đó, hệ thống ngân hàng
Việt Nam đã có sự đóng góp không nhỏ vào sự phát triển nền kinh tế nước nhà. Đặc
biệt, thông qua đổi mới hoạt động tín dụng thì hệ thống ngân hàng Việt Nam đã
biến quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, Chính phủ và NHNN trở thành hiện
thực. Những quan điểm đổi mới này được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, các
văn bản pháp quy, trong đó có đổi mới tín dụng ngân hàng. Những ý tưởng quan
trọng này được khởi nguồn từ quyết định 32/1977/CP của Hội đồng chính phủ về
chủ trương cải tiến và mở rộng tín dụng ngân hàng; các văn bản của Nhà nước và
của ngành ngân hàng ban hành sau năm 1986. Nhờ đó mà hệ thống ngân hàng đã
huy động và cung cấp một lượng vốn khá lớn cho nền kinh tế, ước tính hàng năm
chiếm khoảng 16- 18% GDP và gần 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Đặc biệt, sự tăng
trưởng tín dụng liên tục trong các năm gần đây.
Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng cổ phần Công thương Việt Nam, em
nhận thấy việc xếp hạng tín dụng khách hàng doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan
trọng đối với các ngân hàng cũng như bản thân doanh nghiệp được xếp hạng. Bởi vì
thông qua việc xếp hạng các Ngân hàng có thể đưa ra các quyết định liên quan đến
việc cấp tín dụng đối với các doanh nghiệp như mức rủi ro khi cho vay,mức lãi suất,
khoản vay , thời hạn vay… Chính vì vậy, em đã chọn đề tài:
“ Xếp hạng tín dụng khách hàng doanh nghiệp vay vốn tại NHCP Công
thương Việt Nam chi nhánh Ba Đình bằng mô hình Logistic”.
Đề tài của em gồm ba phần:
Chương I. Tổng quan về NHTM và xếp hạng tín dụng trong ngân hàng
Chương II. Thực trạng xếp hạng tín dụng khách hàng doanh nghiệp tại
Vietinbank chi nhánh Ba Đình
Chương III. Ứng dụng mô hình Logistic trong xếp hạng khách hàng doanh
nghiệp của Vietinbank
Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa các lý thuyết, lý luận liên quan đến NHTM và hoạt động xếp
hạng tín dụng của Ngân hàng.
- Tìm hiểu mô hình đánh giá rủi ro tín dụng nhằm mang lại cho cán bộ tín
dụng và ngân hàng những kiến thức hữu ích trong việc hạn chế rủi ro tín dụng và
nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Từ việc nghiên cứu này sẽ giúp ngân
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
2
NEU – Toán Kinh Tế
hàng và cán bộ tín dụng nhận thấy tính khách quan trong việc quyết định cấp tín
dụng, hạn chế yếu tố chủ quan trong việc xét duyệt cho vay.
Phương pháp nghiên cứu
-
Sử dụng phương pháp thu thập số liệu và xử lý số liệu
-
Sử dụng các mô hình kinh tế lượng và phần mềm Eviews
cứu
Kết hợp các phương pháp so sánh, đối chứng để làm rõ vấn đề cần nghiên
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : 178 doanh nghiệp đã và đang có quan hệ tín dụng
với Vietinbank chi nhánh Ba Đình.
- Phạm vi nghiên cứu : Các chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi tài chính của 178
doanh nghiệp vay vốn Vietinbank và ứng dụng mô hình Logistic trong xếp hạng
doanh nghiệp bằng chương trình Eviews. Từ đó đưa ra mối liên hệ và dự báo cho
các khách hàng khác.
Em xin chân thành cám ơn Ban giám đốc Ngân hàng cùng các anh chị Phòng
KHDNL của Vietinbank chi nhánh Ba Đình - Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho
em trong quá trình thực tập, để em có thể tìm hiểu sâu về nghiệp vụ Ngân hàng.
Em cũng xin chân thành cám ơn thầy giáo PGS.TS NGÔ VĂN THỨ - Trưởng
khoa Toán kinh tế đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Em
cũng xin cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trong khoa Toán Kinh Tế đã dạy dỗ chỉ
bảo em trong quá trình học tập tại trường.
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
3
NEU – Toán Kinh Tế
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ NHTM VÀ XẾP HẠNG TÍN
DỤNG TRONG NGÂN HÀNG
I.
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NHTM
1.
Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM
1.1.
Lịch sử hình thành ngân hàng
Sự hình thành của ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất hàng
hóa. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng.
Còn sự phát triển của ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Việc lưu hành những đồng tiền riêng của mỗi quốc gia hoặc lãnh thổ kết hợp
với việc trao đổi thương mại, giao lưu quốc tế đã làm phát sinh nghiệp vụ đầu tiên
của ngân hàng là nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng. Tiếp theo do
nhu cầu cất trữ tiền của các lãnh chúa, nhà buôn… nên nghiệp vụ cất trữ hộ phát
triển làm tăng thu nhập, tăng khả năng đa dạng các loại tiền, tăng quy mô tài sản
của người kinh doanh tiền tệ. Việc cất trữ hộ nhiều người khác là điều kiện để thực
hiện việc thanh toán hộ và thanh toán không dùng tiền mặt đã thu hút các thương
gia gửi tiền nhiều hơn. Lúc này, nghiệp vụ cho vay phát sinh. Đầu tiên, họ dùng vốn
tự có để cho vay. Sau đó, họ nhận thấy tính chất vô danh của số dư thường xuyên ở
trong két từ hoạt động nhận tiền gửi có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của
khách để cho vay và phát triển thành hoạt động chuyên nghiệp: cho vay dựa trên
tiền gửi của khách, mở rộng cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền, cung các
tiện ích khác. Từ đó, ngân hàng dần hình thành qua các chức năng, dịch vụ hoặc vai
trò mà nó thực hiện trong nền kinh tế.
1.2.
Quá trình phát triển của ngân hàng
Hình thức ngân hàng đầu tiên, ngân hàng của các thợ vàng thực hiện cho vay
với các cá nhân nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng, hình thức cho vay chủ yếu là
thấu chi. Thấu chi là hình thức cho phép khách hàng chi nhiều hơn số tiền gửi tại
ngân hàng. Do lợi nhuận từ cho vay rất cao nên nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng
phát hành chứng chỉ tiền gửi khống để cho vay. Thực trạng này đã đẩy nhiều ngân
hàng đến chỗ mất khả năng thanh toán và phá sản.
Sự sụp đổ của các ngân hàng đã gây khó khăn cho hoạt động thanh toán, ảnh
hưởng xấu tới hoạt động buôn bán. Trước tình hình này, NHTM ra đời thực hiện các
nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng như huy động tiền gửi, thanh toán, cất giữ hộ và
cho vay. Tuy nhiên khác với ngân hàng của các thợ vàng, NHTM chủ yếu cho các
nhà buôn vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu. Chiết khấu thương phiếu là
hình thức các khoản vay cho vay ngắn hạn, dựa trên quá trình luân chuyển của hàng
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
4
NEU – Toán Kinh Tế
hóa với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận được tạo ra do sử dụng vốn tiền vay. Theo
sau NHTM là một loạt các ngân hàng cũng lần lượt ra đời như ngân hàng tiền gửi,
ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng đâu tư, ngân hàng chính sách… tạo nên hệ thống
các ngân hàng.
Sự đa dạng hóa các loại hình ngân hàng và các hoạt động ngân hàng góp phần
thay đổi hoạt động cơ bản của ngân hàng. Quá trình phát triển của ngân hàng đang
tạo ra mối liên hệ ràng buộc ngày càng chặt chẽ, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng
lớn giữa chúng. Lịch sử phát triển của các ngân hàng cũng đã chứng kiến nhiều
khủng hoảng và hoảng loạn ngân hàng trong mỗi quốc gia. Ở Mỹ, năm 1984 ngân
hàng Illinois, năm 1991 ngân hàng BOA bị giảm sút lớn về tiền gửi dẫn đến mất
khả năng thanh toán. Năm 1990, NHTM Nhật và các hãng chứng khoán gặp rủi ro
lớn do sự sụp đổ của thị trường Bất động sản và thị trường Chứng khoán. Năm
1992, ngân hàng J.P.Morgan mất 200 triệu USD do nắm chứng khoán thế chấp khi
lãi suất tăng đột ngột. Năm 1997, khủng hoảng tài chính ở Đông Nam Á bắt nguồn
từ Thái Lan đã làm nhiều ngân hàng ở Châu Á bị mất hàng tỷ USD, bị phá sản hoặc
buộc phải sát nhập. Nền kinh tế Thái Lan bị kéo lùi sự phát triển tớ 20 năm, nền
kinh tế thế giới cũng bị ảnh hưởng nặng nề và giảm sút 5% thu nhập chung trên
toàn thế giới. Cũng vào năm 1997, nhiều NHTM Việt Nam do mở rộng cho vay tràn
lan đã rơi vào tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi cao như vụ Tamexco với lượng nợ
khó đòi lên tới 550 tỷ VNĐ, vụ Tăng Minh Phụng với lượng vốn thất thoát hơn
4000 tỷ VNĐ. Năm 2001, tập đoàn năng lượng Enron phá sản đã tác động đến hầu
hết các ngân hàng danh tiếng trên thế giới như J.P.Morgan Chase với 2,6 tỷ USĐ
trong đó 900 triệu là không được bảo đảm; Citi Group có tổng dư nợ với Enron tới
thời điểm phá sản là 1,2 tỷ USD trong đó 400 triệu là không được bảo đảm. Năm
2002, các ngân hàng Argentina đã đối mặt với tình trạng rủi ro thanh khoản nặng
nề. Sự hạn chế rút tiền của chính phủ đã làm cho tình trạng thêm trầm trọng. Tới
tháng 4/2002, các ngân hàng Argentina đã đồng loạt đóng cửa. Theo tiết lộ của
HSBC thì cuộc khủng hoảng ở Argentina đã làm mất 1850 triệu USD trong năm tài
chính 2001. Tháng 10/2003, chỉ vì một tin đồn thất thiệt mà ACB của Việt Nam đã
khiến cho số lượng khách hàng đến rút tiền trước hạn tại ACB tăng vọt, tổng khách
hàng rút một ngày lên tới 4000 lượt; cán bộ của ACB phải làm việc đến tận 20h30
mà vẫn không giải quyết được tất cả yêu cầu trong ngày; chỉ trong vòng ACB đã chi
trả hơn 2000 tỷ VNĐ. Tuy nhiên, vụ việc được sự can thiệp kịp thời và đúng lúc của
NHNN nên xử lý nhanh chóng trong vòng hai ngày. Tháng 7/2004, các ngân hàng
Nga đang đứng trước tình trạng thanh khoản tồi tệ do dòng người rút tiền hàng loạt
tại những ngân hàng lớn như Guta, Alfa và sau đó lan sang toàn bộ hệ thống ngân
hàng. Trong 3 ngày từ 21-23/7 riêng ngân hàng Alfa đã chi trả hơn 200 triệu USD.
Khủng hoảng chỉ chấm dứt khi có sự can thiệp mạnh tay của NHTW. Năm 2007,
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
5
NEU – Toán Kinh Tế
khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp ở Mỹ và lan ra toàn cầu có nguyên nhân từ sự
xẹp hơi của bong bóng thị trường nhà ở của Mỹ làm cho các cá nhân gặp khó khăn
trong việc trả nợ. Nhiều tổ chức tín dụng cho vay mua nhà gặp khó khăn vì không
thu hồi được nợ. Kết quả làm cho 9 ngân hàng Mỹ bị phá sản, khách hàng mất niềm
tin vào ngân hàng và làm ảnh hưởng đến nhiều nước khác. Đến năm 2008- 2009
cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp đã chuyển thành cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu, làm cho hầu hết các quốc gia đều rơi vào tình trạng suy thoái trầm
trọng. Năm 2008, 25 ngân hàng Mỹ phá sản; năm 2009 có 28 ngân hàng Mỹ phá
sản; nhiều quốc gia Châu Âu, Nhật, Mỹ áp dụng lãi suất tái chiết khấu xấp xỉ 0%.
Tóm lại. sự sụp đổ của các ngân hàng cũng là một khâu tất yếu trong tiến trình phát
triển của ngân hàng.
2.
Khái niệm về NHTM
NHTM đã hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triển của kinh
tế hàng hóa. Sự phát triển của hệ thống NHTM đã có tác động to lớn và quan trọng
đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa, ngược lại kinh tế hàng hóa phát
triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao của nó, đó là kinh tế thị trường thì NHTM cũng
ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu
được. Tuy nhiên, đối với mỗi quốc gia sẽ có những quan niệm khác nhau về
NHTM. Ví dụ như: Ở Mỹ, NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch
vụ tài chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính; ở Pháp, NHTM là những xí
nghiệp thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức tiền gửi hay hình thức
khác và họ dùng vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính; ở Ấn Độ,
NHTM là cơ sở nhận các khoản tiền gửi cho vay, tài trợ và đầu tư…
Ở Việt Nam, quan niệm về NHTM cũng thay đổi cùng với các giai đoạn phát
triển của nền kinh tế của đất nước. Theo Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã Tín dụng
và Công ty Tài chính năm 1990 thì NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà
hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu
và làm phương tiện thanh toán. Theo Luật các Tổ chức tín dụng năm 1999 thì
NHTM là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và
sử dụng số tiền này để cấp tín dụng cung ứng dịch vụ thanh toán. Theo Luật các Tổ
chức tín dụng năm 2003 thì NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện
toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo
Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 thì NHTM là loại hình ngân hàng được thực
hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy
định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
3.
6
NEU – Toán Kinh Tế
Hoạt động cơ bản của NHTM
NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho
vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác.
3.1.
Hoạt động tạo lập nguồn vốn
Nguồn vốn bao gồm VCSH, nguồn tiền gửi, nguồn tiền đi vay, nguồn khác
như ủy thác, thanh toán…
3.1.1. Vốn chủ sở hữu
VCSH là số vốn do chủ sở hữu ngân hàng đóng góp ban đầu và được bổ sung
trong quá trình kinh doanh. Cơ cấu VCSH gồm vốn góp như vốn của Nhà nước, các
cổ đông đóng góp, các bên liên doanh góp, vốn thuộc sở hữu tư nhân; các quỹ như
quỹ dự trữ bổ sung VĐL, quỹ bảo toàn vốn, quỹ thặng dư, quỹ phúc lợi, quỹ khen
thưởng, quỹ dự phòng rủi ro tín dụng…; các khoản vay dài hạn có điều kiện nhất
định.
Theo hiệp định Basel 1988, thành phần VCSH bao gồm vốn cơ bản (vốn cấp I)
và vốn bổ sung (vốn cấp II).
- Vốn cơ bản bao gồm VĐL, vốn cổ phần tăng thêm, lợi nhuận giữ lại, quỹ dự
trữ công khai từ lợi nhuận sau thuế
- Vốn bổ sung bao gồm quỹ dự trữ do đánh giá lại tài sản, quỹ dự phòng bù đắp
những rủi ro được trích lập để bù đắp những rủi ro đột suất chưa xác định được, các
khoản nợ được xem như vốn.
3.1.2. Nguồn tiền gửi
Tiền gửi là khoản mục nguồn vốn được tạo ra do hoạt động nhận gửi tiền của
NHTM. Tùy theo các cách tiếp cận khác nhau mà tiền gửi cũng được phân loại
thành nhiều khoản mục khác nhau.
-
Theo mục đích gửi tiền
Tiền gửi thanh toán là loại hình tiền gửi được sử dụng với mục đích chủ yếu là
thực hiện các giao dịch thanh toán qua Ngân hàng bằng các phương tiện thanh toán
như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thư tín dụng L/C, thẻ ATM… nhằm đáp ứng
nhu cầu thanh toán nhanh nhất của khách hàng.
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi
tiết kiệm được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, hưởng lãi theo quy định của các tổ chức
nhận tiền gửi và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
7
NEU – Toán Kinh Tế
- Theo thời hạn thì tiền gửi được chia thành tiền gửi không kỳ hạn, kỳ hạn ngắn,
kỳ hạn trung , kỳ hạn dài.
- Theo đối tượng gửi tiền thì tiền gửi được chia là tiền gửi cá nhân, doanh
nghiệp, ngân hàng khác, tổ chức xã hội chính trị …
3.1.3. Nguồn tiền vay
a. Vay NHNN
NHTM huy động vốn bằng cách vay NHNN dưới hình thức tái chiết khấu,
thấu chi và cho vay qua đêm. Các giấy tờ có giá đã được các NHTM chiết khấu có
thể tái chiết khấu tại NHNN. NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm
soát nhất định như những giấy tờ có giá có chất lượng và phù hợp với mục tiêu của
ngân hang Nhà nước trong từng thời kỳ để có thể vay vốn từ NHNN nhằm giải
quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả khi thiếu hụt dự trữ. NHNN là người cho vay
cuối cùng của các NHTM.
b. Vay các tổ chức tín dụng khác
Các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên
thị trường liên ngân hàng hoặc qua trung tâm điều hòa vốn của ngân hàng. Các
NHTM vay các tổ chức tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu chi trả cấp bách, bổ sung
hoặc thay thế cho nguồn vay từ NHNN.
c.
Vay trên thị trường vốn
Các NHTM phát hành các giấy nợ như kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu nhằm
đáp ứng nhu cầu vốn của ngân hàng hiện tại, chuẩn bị cho nhu cầu vốn của ngân
hàng trong tương lai hoặc vay hộ cho khách hàng.
3.1.4. Nguồn khác
Nguồn này bao gồm nguồn ủy thác như ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy
thác cấp phát, ủy thác giải ngân và thu hộ; các nguồn trong thanh toán như séc trong
quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở L/C; các nguồn khác.
3.2. Hoạt động khai thác và sử dụng vốn
Hoạt động cho vay và đầu tư là hoạt động sử sụng vốn quan trọng nhất, quyết
định đến khả năng tồn tại của ngân hàng. Hoạt động khai thác và sử dụng vốn bao
gồm các khoản mục kho quỹ, cho vay, đầu tư và các sử dụng vốn khác.
3.2.1. Các khoản mục kho quỹ
Hoạt động tín dụng của ngân hàng nhằm mục đích kiếm lời, song cần bảo đảm
an toàn để giữ vững lòng tin của khách hàng. Muốn có được sự tin cậy về phía
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
8
NEU – Toán Kinh Tế
khách hàng trước hết phải bảo đảm khả năng thanh toán đó là đáp ứng nhu cầu rút
tiền từ phía khách hàng. Muốn vậy các ngân hàng phải để dành lại một phần nguồn
vốn không sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán. Phần vốn để dành này được
gọi là dự trữ. NHTW được phép ấn hành tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo từng thời kỳ nhất
định, việc trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc do chính phủ quy định. Dự trữ bao
gồm:
Dự trữ sơ cấp bao gồm tiền mặt, tiền gửi tại NHNN, tiền gửi tại các ngân hàng
khác
Dự trữ thứ cấp là dự trữ không tồn tại bằng tiền mặt mà bằng chứng khoán, có
nghĩa là các chứng khoán ngắn hạn có thể bán để chuyển thành tiền một cách thuận
lơi. Các chứng khoán đó bao gồm tín phiếu kho bạc, hối phiếu đã chấp nhận, các
giấy tờ ngắn hạn khác
3.2.2. Cấp tín dụng
Nguồn vốn còn lại sau khi để dành một phần dự trữ, các NHTM có thể dùng
để cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân.
a. Cho vay
Cho vay là hoạt động tín dụng của NHTM. Trong đó, NHTM sẽ cho người đi
vay, vay một số vốn để sản xuất kinh doanh, đầu tư hoặc tiêu dùng. Khi đến hạn,
người đi vay phải hoàn trả vốn và lãi. Ngân hàng kiểm soát được người đi vay, kiểm
soát được quá trình sử dụng vốn. Người đi vay có ý thức trả nợ cho nên bắt buộc họ
phải quan tâm đến việc sử dụng vốn làm sao cho có hiệu quả để hoàn trả nợ. Trong
cho vay thì mức độ rủi ro quá lớn,khả năng không thu hồi vốn vay hoặc trả không
hết hoặc không đúng hạn… do chủ quan hoặc khách quan. Do đó, khi cho vay các
ngân hàng cần sử dụng các biện pháp đảm bảo vay vốn như thế chấp, cầm cố…
b. Chiết khấu
Chiết khấu là hoạt động cho vay gián tiếp mà NHTM sẽ cung ứng vốn tín
dụng cho một chủ thể và một chủ thể khác thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng. Các
đối tượng trong hoạt động này là hối phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các giấy nợ có
giá khác.
c.
Cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính là loại hình tín dụng trung và dài hạn. Trong đó các công ty
cho thuê tài chính dùng vốn của mình hay vốn do phát hành trái phiếu để mua tài
sản, thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê và tiến hành cho thuê trong một thời
gian nhất định. Người đi thuê phải trả tiền thuê cho công ty cho thuê tài chính theo
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
9
NEU – Toán Kinh Tế
định kỳ. Khi kết thúc hợp đồng thuê người đi thuê được quyền mua hoặc kéo dài
thêm thời hạn thuê hoặc trả lại thiết bị cho bên cho thuê.
d. Bảo lãnh ngân hàng
Ngân hàng cấp bảo lãnh cho khách hàng nhờ đó khách hàng sẽ vay vốn được ở
ngân hàng khác hoặc thực hiện hợp đồng kinh tế đã kí kết.
3.2.3. Các hoạt động đầu tư
Khoản mục đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau khoản mục cho vay, nó
mang lại khoản thu nhập lớn và đáng kể của ngân hàng thương mại. Trong hoạt
động này, ngân hàng sẽ dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để
đầu tư dưới hình thức khác như:
- Mua cổ phần, cổ phiếu của các công ty. Vốn dùng để mua cổ phần chỉ được
dùng bằng vốn của ngân hàng
- Mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu địa phương, trái phiếu công ty, tín phiếu
kho bạc.
-
Góp vốn liên doanh, liên kết với các ngân hàng, công ty khác.
Tất cả hoạt động đầu tư chứng khoán đều nhằm mục đích mang lại thu nhập,
mặt khác nhờ hoạt động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động của ngân hàng sẽ
được phân tán và việc đầu tư vào trái phiếu chính phủ thì mức độ rủi ro rất thấp.
3.2.4. Các hình thức sử dụng vốn khác
Ngoài những hoạt động trên, ngân hàng còn dùng vốn vào các hoạt động như
tài trợ, quảng cáo, xây dựng hoặc mua thêm nhà cửa để làm trụ sở văn phòng, mua
trang thiết bị, máy mọc và xây dựng hệ thống kho quỹ…
3.3. Hoạt động kinh doanh dịch vụ của ngân hàng
Những dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ trợ đáng kể
cho hoạt động khai thác nguồn vốn, mở rộng hoạt động đầu tư, vừa tạo thu nhập
cho ngân hàng bằng các khoản tiền hoa hồng, lệ phí…có vị trí xứng đáng trong giai
đoạn phát triển hiện nay của NHTM. Các hoạt động này bao gồm:
- Các dịch vụ thanh toán thu chi hộ cho khách hàng như chuyển tiền, thu hộ séc,
dịch vụ cung cấp thẻ tín dụng, thẻ thanh toán…
- Nhận bảo quản các tài sản quý giá, các giấy tờ chứng thư quan trọng của công
chúng.
-
Bảo quản, mua bán hộ chứng khoán theo ủy nhiệm của khách hàng.
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
-
10
NEU – Toán Kinh Tế
Kinh doanh mua bán ngoại tệ, vàng bạc đá quý.
- Tư vấn tài chính, giúp đỡ các công ty, xí nghiệp phát hành cổ phiếu, trái
phiếu…
II. TỔNG QUAN VỀ XẾP HẠNG TÍN DỤNG
1. Khái niệm về xếp hạng tín dụng
Xếp hạng tín dụng (XHTD) là thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Anh Credit Rating.
Trong đó, Credit có nghĩa là tín dụng, tín dụng còn Rating chính là sự đánh giá, xếp
hạng. XHTD do John Moody đưa ra vào năm 1909 trong cuốn “ cẩm nang chứng
khoán” khi tiến hành nghiên cứu, phân tích và công bố bảng xếp hạng cho 1500 loại
trái phiếu của 250 công ty theo một hệ thống ký hiệu bằng chữ cái.
Trong khái niệm của Moody’s thì “XHTD là đánh giá vị thế hiện tại và dự
báo về triển vọng tương lai của doanh nghiệp trên cơ sở tổng hợp các chỉ tiêu tài
chính và phi tài chính một cách có hiệu quả”.
Đứng trên góc độ của ngân hàng thương mại thì “ XHTD là việc đưa ra nhận
định về mức độ tín nhiệm đối với trách nhiệm tài chính; hoặc đánh giá mức độ rủi
ro tín dụng phụ thuộc vào các yếu tố bao gồm năng lực đáp ứng các cam kết tài
chính, khả năng dễ bị vỡ nợ khi điều kiện kinh doanh thay đổi, ý thức, thiện chí trả
nợ của người đi vay”.
2.
Đối tượng xếp hạng tín dụng
Hệ thống XHTD tiếp cận đến tất cả các yếu tố có liên quan đến rủi ro tín dụng,
các NHTM không sử dụng kết quả XHTD nhằm thể hiện giá trị của người đi vay
mà đơn thuần là đưa ra ý kiến hiện tại dựa trên các nhân tố rủi ro. Từ đó, NHTM có
các chính sách tín dụng và giới hạn vay phù hợp. Một sự xếp hạng cao của một
khách hàng đi vay chưa phải là chắc chắn trong việc thu hồi đầy đủ các khoản nợ
gốc và lãi vay, mà chỉ là cơ sở để đưa ra quyết định đúng đắn về tín dụng đã được
điều chỉnh theo dự kiến mức độ rủi ro tín dụng có liên quan đến khách hàng là
người đi vay và tất cả các khoản vay của khách hàng đó.
Xếp hạng người đi vay chủ yếu dự báo nguy cơ vỡ nợ theo ba cấp độ cơ bản là
nguy hiểm, cảnh báo và an toàn dựa trên xác suất không trả nợ được. Cơ sở của xác
suất này là dữ liệu về các khoản nợ quá khứ trong vòng 5 năm trước của khách hàng
đó gồm các khoản nợ đã trả, khoản nợ trong hạn và khoản nợ không thu hồi được.
Dữ liệu được phân theo ba nhóm là nhóm dữ liệu tài chính liên quan đến các chỉ số
tài chính của khách hàng cũng như các đánh giá của các tổ chức xếp hạng; nhóm dữ
liệu định tính phi tài chính liên quan đến trình độ quản lý, khả năng nghiên cứu và
phát triển sản phẩm mới, các dữ liệu về khả năng trưởng thành của ngành; nhóm dữ
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
11
NEU – Toán Kinh Tế
liệu mang tính cảnh báo liên quan đến các hiện tượng báo hiệu khả năng không trả
nợ, tình hình số dư tiền gửi, hạn mức thấu chi. Các nhóm dữ liệu này được đưa vào
mô hình định sẵn để xử lý, từ đó tính được xác suất không trả được nợ của khách
hàng. Đó có thể là mô hình tuyến tính, mô hình probit, mô hình logit…và thường
được xây dựng bởi các tổ chức tư vấn chuyên nghiệp.
Xếp hạng khoản vay dựa trên cơ sở xếp hạng người vay và các yếu tố bao gồm
tài sản đảm bảo, thời hạn cho vay, tổng mức dư nợ tại các tổ chức tín dụng, năng
lực tài chính.
3. Tầm quan trọng của xếp hạng tín dụng
Hệ thống XHTD của NHTM nhằm cung cấp những khả năng xảy ra rủi ro tín
dụng có thể được hiểu là sự khác biệt về mặt kinh tế những gì mà người đi vay hứa
sẽ thanh toán với những gì mà NHTM thực sự nhận được. Rủi ro được xét ở đây là
một sự không chắc chắn hay một tình trạng bất ổn có thể ước tính được xác suất xảy
ra. Tín dụng được hiểu là quan hệ chuyển giao quyền sử dụng vốn lẫn nhau giữa
người đi vay và người cho vay trên nguyên tắc có hoàn trả. Quan hệ tín dụng dựa
trên nền tảng tin tưởng lẫn nhau giữa các chủ thể.
3.1. Rủi ro tín dụng
3.1.1. Khái niệm về rủi ro tín dụng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giũa ngân hàng, các tổ chức tín dụng
và các tổ chức kinh tế, cá nhân theo nguyên tắc hoàn trả. NHTM ra đời nhằm giải
quyết nhu cầu phân phối vốn, nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của các tổ
chức kinh tế, cá nhân với đặc thù kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. NHTM là trung
gian tài chính, huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, sau đó cho các tổ chức, cá
nhân vay lại với lãi suất cao hơn lãi suất huy động để thu lợi nhuận. Nếu ngân hàng
không đáp ứng đủ vốn cho nền kinh tế hoặc huy động đủ vốn nhưng không có thị
trường để cho vay thì ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, sẽ dẫn đến rủi ro. Việc
hoàn trả được nợ gốc trong tín dụng ngân hàng có nghĩa là việc thực hiện giá trị
hàng hóa trên thị trường, còn việc hoàn trả được lãi trong tín dụng là việc thực hiện
được giá trị thặng dư trên thị trường. Do đó rủi ro tín dụng cũng được xem như là
rủi ro trong kinh doanh nhưng được xem xét dưới gốc độ ngân hàng. Vì vậy, rủi ro
tín dụng được hiểu là khả năng xảy ra tổn thất do khách hàng không hoàn trả hoặc
hoàn trả không đầy đủ số tiền gốc và lãi phải trả.
3.1.2. Hình thức biểu hiện của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ
hoặc thu không đúng kỳ hạn cả gốc lẫn lãi của khoản vay. Rủi ro tín dụng không chỉ
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
12
NEU – Toán Kinh Tế
giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính tín dụng
khác của NHTM như bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương mại, cho vay ở
thị trường liên ngân hàng, tín dụng thuê mua, cho vay đồng tài trợ. Vì vậy, có rất
nhiều tiêu thức, dấu hiệu phát sinh trong hoạt động tín dụng phản ánh rủi ro tín
dụng của NHTM. Đó là:
-
Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dự nợ
-
Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ
-
Tính đa dạng hóa của tài sản
-
Tình hình tài chính và phương án của người vay
-
Đảm bảo tiền vay
-
Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng
-
Môi trường hoạt động của người vay
a. Nợ quá hạn và nợ khó đòi
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thỏa
thuận ghi trong hợp đồng tín dụng. Còn nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã quá một
kỳ gia hạn nợ. Các chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ và tỷ lệ nợ khó đòi trên
tổng dư nợ có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi ro tín dụng
khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có liên quan
đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản. Chi phí gia tăng để tìm nguồn mới để chi trả
tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng. Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân hàng.
Các quan điểm khác nhau, các cách tính khác nhau về kỳ hạn nợ và nợ quá hạn
có thể làm các chỉ tiêu bị biến dạng.
Thứ nhất, do định kỳ hạn nợ không đúng.
Nhiều cán bộ ngân hàng khi cho vay không quan tâm thích đáng đến chu kỳ
kinh doanh của người vay, hoặc do nguồn ngắn hạn là chủ yếu, họ đặt kỳ hạn nợ
ngắn để hạn chế rủi ro. Kỳ hạn nợ không còn phù hợp với chu kỳ thu nhập của
người vay. Khi đến hạn, người vay dĩ nhiên sẽ không thể trả nợ được gây ra nợ quá
hạn. Khoản nợ này trở thành mối đe dọa tài chính đối với người vay, buộc họ phải
trả thêm khoản phụ phí để được gia hạn nợ, hoặc phải chịu thêm lãi suất phạt.
Thứ hai, do đảo nợ hoặc giản nợ.
Nhiều khoản nợ người vay không có khả năng hoàn trả có thể được đảo nợ
làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Để che dấu đối với ngân hàng cấp trên, hoặc để
không phải chịu lãi phạt, khách hàng và nhân viên ngân hàng thỏa thuận vay khoản
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
13
NEU – Toán Kinh Tế
mới để trả nợ cũ. Nhân viên ngân hàng cũng có thể thực hiện giãn nợ đối với khoản
nợ mà chắc chắn người vay không thể trả được. Những hành vi này làm chỉ tiêu nợ
quá hạn và nợ khó đòi không phản ánh đầy đủ rủi ro tín dụng.
Thứ ba, do chính sách vay.
Rất nhiều các khoản vay khó đòi không thể thu hồi bằng phát mại tài sản
(doanh nghiệp Nhà nước, người nghèo, tài sản không rõ ràng…). Những khoản cho
vay này phần lớn là cho vay theo chỉ thị của Chính phủ. Khi Chính phủ chưa có
quyết định giải quyết nó vẫn tồn tại trên bảng cân đối của ngân hàng và trở thành tài
khoản ảo. Nhiều ngân hàng loại chúng ra khỏi chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi mà
xếp vào nợ khoanh dưới sự đồng ý của Chính phủ. Tuy nhiên, chúng thực sự đe dọa
thu nhập của các ngân hàng nếu Chính phủ không tìm nguồn bù đắp.
b. Các chỉ tiêu khác
Ngoài nợ quá hạn và nợ khó đòi, ngân hàng còn dùng các hình thức đo lường
rủi ro tín dụng khác gắn liền với chiến lược đa dạng hóa tài sản, lập hồ sơ khách
hàng, trích lập quỹ dự phòng, đặt giá đối với các khoản cho vay…
Điểm của khách hàng
Thông qua phân tích tình hình tài chính , năng lực sản xuất kinh doanh, hiệu
quả dự án, mối quan hệ và tính sòng phẳng…ngân hàng lập hồ sơ về khách hàng ,
xếp hạng và cho điểm. Khách hàng điểm cao, rủi ro tín dụng thấp và ngược lại.
Điểm của khách hàng cho thấy rủi ro tiềm ẩn.
Các khoản cho vay có vấn đề
Mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn song trong quá trình theo
dõi, nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều khoản tài trợ đang có dấu hiệu kém lành
mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Khoản cho vay có vấn đề được xây dựng
trên quy định của ngân hàng.
Tính kém đa dạng của tín dụng
Đa dạng hóa là biện pháp hạn chế rủi ro. Những thay đổi trong chu kỳ của
người vay là khó tránh khỏi. Nếu ngân hàng tập trung tài trợ cho một nhóm khách
hàng, của một ngành, hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so với đa dạng hóa.
Mất ổn định vĩ mô
Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao, tình hình chính trị bất ổn,
vùng hay bị thiên tai… đều tạo nên mất ổn định vĩ mô, tác động xấu đến người vay.
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
14
NEU – Toán Kinh Tế
Do vậy, mất ổn định vĩ mô được ngân hàng xem là một nội dung phản ánh rủi ro tín
dụng.
3.1.3. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng
Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và
người đi vay. Nhưng người đi vay sử dụng tiền vay trong một thời gian nhất định,
không gian cụ thể, tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta
gọi là môi trường kinh doanh và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín
dụng. Rủi ro tín dụng xuất phát từ môi trường kinh doanh là rủi ro do nguyên nhân
khách quan, bao gồm ảnh hưởng biến động quá nhanh và khó dự đoán của nền kinh
tế, môi trường pháp lý chưa thuận lợi. Rủi ro xuất phát từ người đi vay và ngân
hàng cho vay gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan bao gồm sử dụng vốn sai mục
đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay; năng lực tài chính của người đi vay
yếu kém, thiếu minh bạch; khả năng quản trị yếu kém; bất cân xứng thông tin; việc
xác định hạn mức tín dụng cho khách hàng còn quá đơn giản.
a. Nguyên nhân khách quan
Môi trường kinh tế có những biến động đối nghịch với mục tiêu phát triển của
mỗi ngân hàng
- Nền kinh tế suy thoái và được thể hiện qua các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như lạm
phát tăng trong nhiều kỳ liên tiếp, sự biến động của đồng nội tệ, lãi suất thị trường
tăng.
Lạm phát tăng cao trong nhiều kỳ liên tiếp. Khi đó chỉ số giá của các loại hàng
hóa trên thị trường tăng theo. Điều này đồng nghĩa rằng chi phí sản xuất đầu vào
tăng và sẽ ảnh hưởng tiêu cực hoạt động tiêu thụ trên thị trường của người đi vay.
Doanh số giảm sẽ kéo theo lợi nhuận giảm. Kết quả là ảnh hưởng đến kế hoạch trả
nợ của người đi vay đối với ngân hàng.
Khi có sự biến động của tỷ giá thì cũng có thể dẫn đến rủi ro tín dụng. Ví dụ
như trong trường hợp cho vay các doanh nghiệp nhập khẩu, nếu tỷ giá tăng sẽ dẫn
tới trường hợp thua lỗ do chi phí đầu vào tăng. Qua đó ảnh hưởng tới khả năng trả
nợ ngân hàng.
Ảnh hưởng của văn hóa xã hội
Đó là ảnh hưởng của việc thay đổi tập quán tiêu dùng trong xã hội, nhất là
trong giai đoạn chuyển giao của nền kinh tế nước ta. Sự thay đổi cách suy nghĩ của
các một xã hội về thói quen tiêu dùng, nếu doanh nghiệp nào không có sự nắm bắt
kịp thời mức độ thay đổi đó sẽ gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình,
thâm chí có thể dẫn tới phá sản. Điều đó sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây khó khăn
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
15
NEU – Toán Kinh Tế
cho ngân hàng trong hoạt động cho vay. Đây thực sự là vấn đề đòi hỏi mỗi ngân
hàng phải có hoạt động marketing một cách hiệu quả trong giai đoạn cạnh tranh
khắc nghiệt của nền kinh tế.
Ảnh hưởng của nhân tố công nghệ
Yếu tố công nghệ hiện nay đang là yếu tố rất quan trọng quyết định đến sức
cạnh tranh trên thị trường của mỗi ngân hàng. Trên thực tế, sự thay đổi của công
nghệ thông tin đã tác động mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng và tới
cả quá trình cấp tín dụng. Qua đó nhằm khai thác triệt để vốn thời gian kéo dài cánh
tay hoạt động của ngân hàng và luôn giữ vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân.
Góp phần làm hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và
hoạt động tín dụng nói riêng.
Ảnh hưởng của môi trường chính trị pháp luật
Kinh doanh ngân hàng là một trong những ngành kinh doanh chịu sự giám sát
chặt chẽ của pháp luật. Môi trường pháp lý sẽ mang đến cho ngân hàng một loạt
các cơ hội mới cũng như thách thức mới. Điều này được thể hiện rõ trong hoạt động
tín dụng, như việc rỡ bỏ các hạn chế trong cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh còn nới lỏng trong quản lý của luật pháp cũng có thể đặt ngân hàng trước
những nguy cơ cạnh tranh mới; việc cho phép thành lập các ngân hàng nước ngoài
sẽ đặt các ngân hàng của nước đó vào tình thế cạnh tranh gay gắt hơn và chính sách
đầu tư, tiết kiệm của Chính phủ trong từng thời kỳ.
Sự thiếu chính xác trong dự đoán môi trường luật pháp trong hoạt động tín
dụng cũng đẩy ngân hàng vào tình trạng rủi ro như dự đoán sai lầm trong chính
sách huy động vốn và chính sách cho vay.
Môi trường chính trị pháp luật này không chỉ bó gọn trong phạm vi Luật các tổ
chức tín dụng mà còn liên quan tới Luật dân sự, Luật doanh nghiệp và cũng không
chỉ bó gọn trong phạm vi một quốc gia mà còn mở rộng ra phạm vi quốc tế nhất là
trong điều kiện kinh tế hội nhập như hiện nay. Đồng nghĩa với đó là rủi ro sẽ không
còn là ở mỗi ngành ngân hàng mà lan tới tầm quốc gia, khu vực.
Môi trường địa lý
Các vùng địa lý khác nhau cũng có những đặc điểm khác nhau như tài nguyên,
giao thông, địa hình, tập quán, cách thức giao tiếp, nhu cầu về hàng hóa dịch vụ nói
chung và sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng nói riêng. Chính những điều kiện
đó hình thành các tụ điểm dân cư, trung tâm thương mại, du lịch hoặc trung tâm sản
xuất.
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
16
NEU – Toán Kinh Tế
Rủi ro trong hoạt động tín dụng do môi trường địa lý mang đến rất khó có thể
nắm bắt, dự đoán và nếu có thể dự đoán được thì cũng sẽ bị tổn thất rất cao như sự
khắc nghiệt của thiên nhiên, sự khan hiếm nguồn tài nguyên. Những doanh nghiệp
hoạt động trong những khu vực này luôn chịu sự cạnh tranh gay gắt, nguy cơ rủi ro
rất cao.
b. Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân từ phía khách hàng
-
Đối với nhóm khách hàng cá nhân
Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của
người tiêu dùng bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là nguồn tài chính vô cùng
quan trọng trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình và xe cộ.
Những nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong cho vay tiêu dùng đó là:
+ Do tình trạng sức khỏe, bệnh tật hoặc mâu thuẫn trong gia đình.
+ Người vay bị thất nghiệp tạm thời hoặc lâu dài ảnh hưởng đến thu nhập.
+ Do người đi vay hoạch định ngân sách không chính xác hoặc có thể do
người đi vay sử dụng tiền vay sai mục đích hoặc chưa có kinh nghiệm trong việc tổ
chức sản xuất quản lý kinh doanh dẫn đến trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng.
Trong tương lai nhu cầu vay tiêu dùng trong dân cư có khả năng tăng mạnh, do
mức sống của các tầng lớp dân cư ngày càng tăng cao cả về vật chất lẫn tinh thần.
Vì vậy, bản thân các ngân hàng cần phải có chính sách tín dụng thích hợp để hạn
chế rủi ro trong cho vay, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng.
-
Đối với nhóm khách hàng doanh nghiệp
Những nguyên nhân có thể gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng là:
+ Doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích hoặc sử dụng vốn vay vào việc
sản xuất kinh doanh các loại mặt hàng bị pháp luật cấm.
+ Không đảm bảo tính hiệu quả trong sử dụng vốn, lãng phí, tham ô, tham
nhũng.
+ Doanh nghiệp gặp phải các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình. Đây
là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới rủi ro cho ngân hàng.
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh xảy ra do tính khả thi của dự án còn thấp,
không khoa học, không tiếp cận được thị trường. Do chưa đánh giá được chính xác
nhu cầu thị trường hay đánh giá sai lầm về khả năng tiêu thụ của thị trường. Dẫn
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
17
NEU – Toán Kinh Tế
đến tình trạng sản phẩm tồn kho quá nhiều so với nhu cầu. Cần quan tâm đến công
tác nghiên cứu thị trường nhất là công tác Marketing doanh nghiệp.
Doanh nghiệp bị thiệt hại trên thị trường đầu vào. Đây là thị trường cung cấp
nguồn lực cho quá trình sản xuất như nguyên vật liệu, dịch vụ, thiết bị công nghệ.
Do không có kế hoạch trước cho những biến động của thị trường như tình trạng
tăng giá nguyên vật liệu không thể kiểm soát, trực tiếp sẽ làm tăng giá thành sản
phẩm. Nếu doanh nghiệp tăng giá sản phẩm lên sẽ làm cho việc tiêu thụ sản phẩm
chậm lại, tình hình luân chuyển vốn chậm và ảnh hưởng tới khả năng thanh toán nợ
ngân hàng của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu doanh nghiệp giữ nguyên giá hoặc
không tăng giá thì sẽ làm giảm lợi nhuận và khả năng tái sản xuất của doanh nghiệp
trong tương lai, thậm chí có thể bị thua lỗ.
Ngoài ra, còn do chất lượng của nguyên vật liệu không đảm bảo ảnh hưởng tới
chất lượng sản phẩm, có thể làm giảm uy tín thương hiệu sản phẩm trên thị trường,
làm giảm khả năng cạnh tranh. Do đó bản thân mỗi doanh nghiệp cần phải có chính
sách dự trữ nguyên vật liệu để đề phòng trường hợp tăng giá gây thiệt hại cho quá
trình sản xuất, nhất là đối với các doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ cao.
Do doanh nghiệp gặp khó khăn trong quá trình sản xuất như tình hình năng
suất lao động giảm sút, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ tay nghề của công nhân
còn thấp kém. Do cơ cấu chi phí cố định chiếm tỷ trọng lớn, gây ra hiện tượng lãng
phí ứa động vốn. Cũng có thể là do trình độ quản lý doanh nghiệp của ban giám đốc
còn yếu, không hiệu quả, không động viên được đội ngũ nhân viên hoạt động hăng
say, không có chế độ lương bổng khuyến khích, chính sách quản lý thiếu chiều sâu.
Rủi ro tín dụng cũng có thể xảy ra khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong tình
hình tài chính. Do doanh nghiệp có hệ số nợ cao đó là kết quả của quá trình tăng
trưởng quá nóng hoặc quá chậm, do doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn trong thời
gian dài, không có biện pháp thu hồi nợ, làm hạn chế khả năng quay vòng của các
khoản phải thu. Với khả năng tài chính vững mạnh, trong sạch sẽ như là cái móng
vững chắc cho toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh và tạo dựng lòng tin đối với
Ngân hàng.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng có thể gặp rủi ro trên thị trường đầu ra. Do
khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường còn thấp, chất lượng kém, mẫu
mã không bắt mắt. Và áp lực của cạnh tranh bắt buộc doanh nghiệp phải hạ thấp giá
thành một cách đồng loạt, điều này ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp. Hơn
nữa, chính sự thiếu quan tâm, đầu tư vào công tác phân tích, phán đoán, dự báo thị
trường làm giảm khả năng tham gia thị trường hoặc sản xuất quá lớn so với nhu
cầu. Dẫn tới tình trạng ứa đọng hàng hóa, hạn chế khả năng quay vòng của hàng tồn
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
18
NEU – Toán Kinh Tế
kho. Hệ thống mạng lưới đại lý, cửa hàng tiêu thụ không được đặt đúng vùng thị
trường, sản phẩm không tới được tay người tiêu dùng. Nhất là sắp tới sẽ có sự tham
gia mạnh mẽ của các ngân hàng nước ngoài do xu thế hội nhập hóa nền kinh tế, đòi
hỏi mỗi ngân hàng cần phải có chính sách nghiên cứu thị trường hợp lý hơn, hiệu
quả hơn.
Rủi ro tín dụng còn liên quan tới đạo đức của người sử dụng vốn vay ngân
hàng. Họ sử dụng với mục đích lừa đảo, chiếm đoạt vốn tín dụng của ngân hàng
thông qua việc tạo ra những dự án ảo. Những trường hợp như thế này hiện nay đang
tồn tại rất nhiều, đòi hỏi phải nâng cao công tác thẩm định khách hàng nhằm hạn
chế rủi ro.
Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Ngoài những nguyên nhân xuất phát từ phía người vay, từ môi trường khách
quan có thể gây ra tình trạng rủi ro tín dụng, còn có những nguyên nhân chủ quan
khác từ phía các ngân hàng:
+ Do chính sách tín dụng của ngân hàng không phù hợp với đặc điểm, thực
trạng của nền kinh tế và chính sách phát triển của Chính phủ. Chính sách tín dụng
được hiểu đầy đủ bao gồm định hướng chung trong cho vay, chế độ tín dụng ngắn,
trung và dài hạn, các quy định về đảm bảo tiền vay, về loại khách hàng và ngành
nghề được ưu tiên, quy trình xét duyệt cho vay. Những chính sách này quá chú
trọng vào mục tiêu lợi nhuận, tăng trưởng, bỏ qua sự an toàn trong hoạt động kinh
doanh. Một chính sách không đầy đủ thống nhất sẽ tạo ra định hướng lệch lạc cho
hoạt động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tạo khe hở
cho người sử dụng vốn để gian lận chiếm đoạt vốn bất hợp pháp. Cuối cùng, không
đem lại hiệu quả kinh tế, nguy cơ rủi ro cao.
+ Khâu phân tích thẩm định còn yếu đây là một trong những nguyên nhân trực
tiếp gây ra rủi ro tín dụng. Do cán bộ tín dụng năng lực thấp, chưa được đào tạo đầy
đủ, ít kinh nghiệm trong ngành nghề mà mình tài trợ. Ngoài ra, cũng có thể do vấn
đề đạo đức không tốt của cán bộ thẩm định như không trung thực, thiếu trách
nhiệm, cấu kết với người đi vay để chiếm đoạt vốn của ngân hàng.
+ Do ngân hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ khâu bảo đảm
tín dụng. Như cán bộ thẩm định đánh giá sai giá trị tìa sản đẩm bảo bao gồm cả giá
trị hiện tại và trong tương lai hoặc lại quá tin tưởng vào tài sản đảm bảo. Coi đó là
bùa hộ mệnh cho công tác thu hồi vốn sau này mà coi nhẹ công tác kiểm tra, đôn
đốc, giám sát thực hiện dự án, phòng ngừa rủi ro, không có những biện pháp kịp
thời nhằm hạn chế khoản vay có thể dẫn tới nợ quá hạn.
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
19
NEU – Toán Kinh Tế
+ Các ngân hàng thường đứng trước một mâu thuẫn đòi hỏi sự linh hoạt trong
quá trình giải quyết. Đó là mở rộng tín dụng để tăng lợi nhuận, đồng thời hạn chế
rủi ro tín dụng. Nhiều ngân hàng ra sức tăng mức dư nợ tín dụng mà bỏ qua hoặc hạ
thấp những tiêu chuẩn cho vay. Hay nói một cách khác là ngân hàng chỉ chạy theo
số lượng tín dụng mà không coi trọng chất lượng tín dụng. Do đó rất nguy hiểm đối
với công tác tín dụng của ngân hàng. Để tăng lợi nhuận, ngân hàng cần phải có
những biện pháp hạn chế những chi phí không hợp lý nhưng các ngân hàng đã
không xác định rõ những chi phí nào đối với mình là không hợp lý và đã loại bỏ
những chi phí hợp lý khác làm giảm thấp chất lượng nghiệp vụ, gây ra rủi ro cho
hoạt động kinh doanh.
+ Một yếu tố luôn ảnh hưởng tới khâu thẩm định của cán bộ tín dụng đó là
chất lượng và số lượng thông tin. Bởi vì bản thân hoạt động ngân hàng luôn trong
tình trạng thông tin không cân xứng, cho nên đòi hỏi công tác thẩm định phải sàng
lọc thông tin một các kỹ càng, chính xác; tránh bỏ sót những dự án hiệu quả cao và
tránh nhận những dự án không hiệu quả hay hiệu quả thấp. Các ngân hàng chưa
được cung cấp đầy đủ và chính xác. Mặc dù Trung tâm thông tin tín dụng CIC đã
được thành lập và đi vào hoạt động nhưng hiệu quả hoạt động chưa cao, chưa cập
nhật. Trong nhiều trường hợp ngân hàng không nắm được đầy đủ thông tin về quan
hệ tín dụng của khách hàng với các tổ chức tín dụng khác nên có thể phán quyết sai
lầm khi cho vay.
+ Do ngân hàng không thực hiện tốt công tác giám sát tín dụng. Bời vì, trình
độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng hạn chế, thiếu thực tế, chỉ dựa trên giấy tờ, số liệu
báo cáo của khách hàng. Thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác nghiệp vụ,
kiểm tra, kiểm soát lấy lệ, hời hợt, chỉ mang tính hình thức, không phản ánh đúng
sự thật do chịu áp lực từ cấp trên, từ chính quyền địa phương. Một hệ thống kiểm
soát lỏng lẻo dễ dẫn đến tình trạng thất thoát vốn, giảm thấp hiệu quả hoạt động
kinh doanh.
Ngoài các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trên, Ngân hàng cũng có thể gặp
rủi ro tín dụng do cho vay quá tập trung vào một đối tượng, một khu vực, một
ngành cho nên đã hạn chế sự linh hoạt của ngân hàng trước những biến động của thị
trường cạnh tranh, gây ra tổn thất cho ngân hàng. Có thể do công tác thiết kế sản
phẩm tín dụng không phù hợp với nhu cầu và đặc điểm của người vay, hoặc do vẫn
còn nặng tính chất quan liêu, quan cách trong hoạt động giao dịch với khách hàn,
hoặc có thể do cán bộ ngân hàng vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông đồng với
khách hàng, nhận hối lộ, cố tình làm sai nguyên tắc.
Nguyên nhân từ phía các TSBĐ tín dụng
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
Chuyên đề thực tập
20
NEU – Toán Kinh Tế
Sự sụt giảm giá trị của TSBĐ có thể là do biến động của tình hình giá cả thị
trường. Đây là tác động mang tầm vĩ mô mà bản thân các cán bộ thẩm định cần phải
đánh giá chính xác giá trị của TSBĐ qua các thời kỳ biến động khác nhau. Nếu
không sẽ dẫn tới tình trạng cấp tín dụng vượt mức so với quy định an toàn trong
việc cấp tín dụng.
Sự sụt giảm giá trị của TSBĐ còn là do sự hao mòn trong quá trình người vay
sử dụng TSBĐ. Các tài sản nói chung luôn chịu tác động của thời gian, của môi
trường sản xuất, đòi hỏi công tác kiểm tra giám sát chặt chẽ để hạn chế người vay
sử dụng tài sản sai mục đích hoặc sử dụng vượt quá hạn mức cho phép. Đó cũng là
một hình thức mà các ngân hàng chiếm đoạt vốn. Vốn ở đây là giá trị của máy và
thời gian kinh tế của máy sau này.
Ngân hàng gặp rủi ro trong quá trình nắm giữ và xử lý TSĐB. Do người vay
cầm cố tài sản cho người khác hoặc có thể do người vay cố tình gây khó khăn trong
công tác phát mại TSĐB, khiến cho ngân hàng không thể thu hồi vốn vay, ảnh
hưởng đến tình hình hoạt động chung của toàn bộ ngân hàng. Khi đó, rủi ro không
còn trong phạm vi một khoản vay mà lan rộng ra phạm vi của cả bộ máy hoạt động
kinh doanh.
Đối với trường hợp bảo lãnh, ngân hàng có thể gặp rủi ro khi người được bảo
lãnh không thực hiện nghĩa vụ thanh toán do gặp khó khăn về vấn đê tài chính. Gây
ra sự ứa đọng vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, rộng hơn đó là nguy
cơ rủi ro.
Ngoài ra còn có nguyên nhân là do sự không đồng bộ về các văn bản pháp lý
có liên quan đến TSDDB, gây khó khăn cho ngân hàng trong trường hợp phát mại
TSĐB và xử lý sự cố. Qua đó hạn chế vị thế pháp lý của ngân hàng trong xử lý tài
sản.
3.1.4. Thiệt hại mà rủi ro tín dụng gây ra
Khi rủi ro tín dụng ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động kinh doanh của NHTM
sẽ gây ra tâm lý hoang mang lo sợ cho người gửi tiền và có những người gửi tiền sẽ
ồ ạt rút tiền làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Sự hoảng loạn này
ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế làm cho sức mua giảm, giá cả tăng, xã
hôi mất ổn định. Rủi ro tín dụng của ngân hàng trong nước cũng ảnh hưởng đến nền
kinh tế các nước có lên quan do sự hội nhập đã gắn chặt mối liên hệ về tiền tệ và
đầu tư giữa các quốc gia.
NHTM gặp rủi ro tín dụng sẽ khó thu hồi vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay.
Bên cạnh đó, ngân hàng lại phải ra vốn và lãi cho khoản vốn huy động khi đến hạn.
Sinh Viên: Mai Thị Sen
Toán Tài Chính 50 A
- Xem thêm -