Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến ...

Tài liệu Vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này

.DOC
12
151
85

Mô tả:

MỤC LỤC A. LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................1 B. NỘI DUNG.......................................................................................................................1 I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ.......................................................................................................................................1 1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa......................................................................................1 II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ................................................................................2 1. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm...............................................2 2. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp phúc thẩm.........................................2 III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VADS Ở TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM, PHÚC THẨM.......7 1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng dân sự về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự..............................................................................................................................7 2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đình chỉ giải quyết VADS ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm..............................................................................................................8 C. KẾT LUẬN.....................................................................................................................10 0 A. LỜI MỞ ĐẦU Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là một chế định được đề cập khá nhiều và được Bộ luật tố tụng dân sự 2004 nước ta quy định khá cụ thể. Trong nhiều trường hợp tòa án thụ giải quyết vụ án, vấn đề đình chỉ sẽ đặt ra khi xuất hiện những căn cứ luật định như thụ lý không đúng, đối tượng tranh chấp không còn,… Tuy nhiên, việc đình chỉ giải quyết vụ án không đúng có thể dẫn tới quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn sẽ không được tòa án giải quyết. Do vậy ,việc nghiên cứu một cách toàn diện về đình chỉ, bản chất của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là rất cần thiết. Để làm rõ vấn đề trên, trong bài viết em xin trình bày: Vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. B. NỘI DUNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ 1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa 1.1. Khái niệm Vụ việc dân sự được chia thành hai loại là vụ án dân sự và việc dân sự. Vụ án dân sự là những vụ việc có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Trong khuôn khổ bài viết chỉ trình bày vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Trong tố tụng dân sự, thì đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được hiểu là việc tòa án quyết định ngừng hẳn việc giải quyết vụ án dân sự đã thụ lý khi có những căn cứ do pháp luật quy định. 1.2. Đặc điểm - Thứ nhất, việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự phải dựa trên những căn cứ mà pháp luật đã quy định chứ không phải được tiến hành tùy tiện theo ý chí chủ quan của tòa án. - Thứ hai, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự làm ngừng hẳn các hoạt động tố tụng. nó có ý nghĩa kết thúc cả về mặt thủ tục lẫn giải quyết nội dung vụ việc, tòa án sẽ không giải quyết vụ án đó nữa. - Thứ ba, việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự phải do tòa án áp dụng. Trước khi mở phiên tòa, thẩm quyền này thuộc về thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc. Tại phiên tòa, hội đồng xét xử có quyền quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. 1 - Thứ tư, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, tuy cũng làm chấm dứt việc giải quyết vụ án dân sự ở một giai đoạn tố tụng nào đó nhưng nó không phải là quyết định giải quyết về nội dung của vụ án dân sự mà chỉ đơn thuần là một quyết định về tố tụng làm chấm dứt việc giải quyết vụ án dân sự mà tòa án đã thụ lý. - Thứ năm, việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được tiến hành ở cả tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm. 1.3. Ý nghĩa - Việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có ý nghĩa nhằm khắc phục những sai lầm do việc thụ lý không đúng đem lại. - Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự nhằm giảm bớt chi phí tố tụng cho đương sự khi việc tiếp tục tố tụng không còn cần thiết nữa. - Việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cũng có ý nghĩa tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí cho nhà nước. Làm quá trình giải quyết vụ án được nhanh gọn. Nhờ đó gánh nặng về các vụ án cần được tòa án giải quyết sẽ giảm tải. 1.4. Phân biệt đình chỉ với tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự Tạm đình chỉ là việc tòa án ra quyết định tạm ngừng việc giải quyết vụ án dân sự trong một thời hạn nhất định và khi những lí do của việc tạm đình chỉ không còn thì tòa án lại tiếp tục giải quyết vụ án đó. Ngược lại, đình chỉ là việc tòa án quyết định ngừng hẳn việc giải quyết vụ án dân sự và sau khi quyết định đình chỉ có hiệu lực thì đương sự không có quyền yêu cầu tòa án giải quyết vụ án đó nữa. II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ 1. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm 1.1. Căn cứ đình chỉ Theo khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2004, sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS trong các trường hợp sau: Căn cứ thứ nhất: Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế. Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế được hiểu là quyền và nghĩa vụ của họ theo pháp luật không được để lại thừa kế cho người khác. Điều này có nghĩa là các quyền, nghĩa vụ này là các quyền, nghĩa vụ về nhân thân, không phải quyền, nghĩa vụ về tài sản. Do gắn liền với nhân thân, nên khi đương sự chết, quyền và nghĩa vụ đương nhiên chấm dứt. Lúc này đương nhiên hoạt động tố tụng tại tòa sẽ chấm dứt vì đối tượng xét xử không còn nữa. 2 Căn cứ thứ 2: Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó. Đây là trường hợp nguyên đơn, bị đơn là cơ quan, tổ chức tham gia tố tụng bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản thì tư cách pháp lý của các cơ quan tổ chức này không còn, các quyền và nghĩa vụ cũng chấm dứt theo. Nếu không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan tổ chức đó thì Tòa án phải đình chỉ giải quyết VADS. Căn cứ thứ ba: Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện. Hành vi khởi kiện là cơ sở để Tòa án giải quyết VADS. Nên khi Tòa án đang xem xét yêu cầu khởi kiện mà người khởi kiện rút đơn khởi kiện, không yêu cầu Tòa án giải quyết nữa và được Tòa án chấp thuận thì cơ sở để giải quyết vụ án không còn nữa. Tòa án phải ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS. Khi người khởi kiện rút đơn khởi kiện, thì Tòa án phải xem xét trong vụ án có yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập của người có quyền, nghĩa vụ liên quan hay không. Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết toàn bộ vụ án khi người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền, nghĩa vụ liên quan rút toàn bộ yêu cầu độc lập. Còn với trường hợp không phải tất cả đều rút yêu cầu thì tòa án chỉ đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu đã rút, vẫn giải quyết những yêu cầu khác. Căn cứ thứ tư: Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án. Căn cứ này được áp dụng trong trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện vì quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Nếu cơ quan, tổ chức đã khởi kiện, Tòa án thụ lý vụ án, mà cơ quan, tổ chức đó lại rút văn bản khởi kiện, Tòa án phải đình chỉ giải quyết VADS đó với điều kiện không có nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án Căn cứ thứ năm: Các đương sự đã tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án. “Các đương sự đã tự thỏa thuận” là việc các đương sự chủ động thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án trong quá trình tố tụng mà không cần đế sự tác động của Tòa án. Nó khác với các bên tự nguyện thỏa thuận giải quyết vụ án trên cơ sở Tòa án đứng ra tổ chức hòa giải VADS. Căn cứ thứ sáu: Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Khi nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án sẽ đình chỉ vụ án mà không cần quan tâm đến việc vắng mặt của nguyên đơn có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng. Đây là một quy định bất hợp lý, vì có thể vì một sự kiện bất khả kháng nào đó mà nguyên đơn không thể đến được thì quyền, lợi ích hợp pháp 3 của họ sẽ không được giải quyết nữa. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS đã khắc phục điều đó bằng quy định: “nếu trường hợp người đó có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng” thì trong trường hợp này Tòa án sẽ không được đình chỉ VADS. Căn cứ thứ bảy: Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của DN, HTX đó. Khi đã có quyết định mở thủ tục phá sản của DN, HTX thì các quyền, nghĩa vụ sẽ được giải quyết thông qua thủ tục phá sản. Các Tòa án không được nhận đơn khởi kiện, thụ lý VADS có liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà DN, HTX bị mở thủ tục phá sản đó là một bên đương sự. Nếu do không biết mà thụ lý thì Tòa án đã thụ lý phải đình chỉ giải quyết VADS, đồng thời phải chuyển hồ sơ cho Tòa án đang tiến hành mở thủ tục phá sản để giải quyết (khoản 2 Điều 57 Luật phá sản). Căn cứ thứ tám: Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định. Đây là các trường hợp làm căn cứ cho Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS mà trong BLTTDS này chưa quy định nhưng đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc sau khi BLTTDS có hiệu lực thi hành mới được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sau đó hoặc trong các ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên (Theo nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006). Ngoài ra, khoản 2 Điều 169 BLTTDS quy định Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 168 BLTTDS. Những căn cứ quy định tại Điều 168 BLTTDS bao gồm: - Thời hiệu khởi kiện đã hết. - Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. - Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà tòa án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, xin thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện. - Hết thời hạn được thông báo theo quy định tại khoản 2 Điều 171 BLTTDS mà người khởi kiện không đến Tòa án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng. - Chưa đủ điều kiện khởi kiện. - Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. 4 1.2. Thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm Người có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS trước phiên tòa sơ thẩm là Thẩm phán được Chánh án phân công giải quyết vụ án (Điều 194 BLTTDS), tại phiên tòa sơ thẩm là Hội đồng xét xử (Điều 210 BLTTDS). 1.3. Hình thức của quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở Tòa án cấp sơ thẩm Quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở Tòa án cấp sơ thẩm phải lập thành văn bản. Mẫu, nội dung quyết định này được quy định cụ thể tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 (mẫu 11a, 11b). 1.4. Hiệu lực và hậu quả pháp lý của quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở Tòa án cấp sơ thẩm - Hiệu lực: Quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở giai đoạn sơ thẩm chưa có hiệu lực ngay mà có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo là 7 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định của Tòa án (Khoản 2 Điều 245 BLTTDS). Hết thời hạn trên mà không có kháng cáo, kháng nghị thì quyết định đình chỉ giải quyết VADS có hiệu lực pháp luật và chấm dứt việc giải quyết vụ án đó. Tuy nhiên, quyết định này vẫn có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ. - Hậu quả pháp lý: Khi Tòa án ra quyết định đình chỉ VADS thì hoạt động tố tụng chấm dứt. Nhưng có một số trường hợp ngoại lệ sau đương sự vẫn có thể khởi kiện lại một vụ án mới mặc dù trước đó đã bị đình chỉ giải quyết: Người khởi kiện rút đơn khởi kiện; Người khởi kiện không có quyền khởi kiện; Nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của DN, HTX đó. - Về tiền tạm ứng án phí: Nếu đình chỉ giải quyết vụ án theo khoản 1 Điều 192 BLTTDS thì tiền tạm ứng án phí sung công quỹ nhà nước. Nếu đình chỉ giải quyết vụ án theo khoản 2 Điều 192 thì xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý, trả lại đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự trả lại tiền tạm ứng án phí cho người đã nộp. 2. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp phúc thẩm Gồm: Đình chỉ gải quyết VADS ở cấp phúc thẩm và đình chỉ xét xử phúc thẩm. 2.1. Đình chỉ giải quyết VADS ở cấp phúc thẩm 2.1.1. Căn cứ đình chỉ giải quyết VADS ở cấp phúc thẩm Căn cứ đình chỉ giải quyết VADS của tòa án cấp phúc thẩm được quy định tại Điều 278 BLTTDS: “Hội đồng xét sử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 192 của Bộ luật này”. Điều này có nghĩa là, các căn cứ đó đã xuất 5 hiện, tồn tại ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, lẽ ra Tòa án sơ thẩm phải phát hiện ra và ra quyết định đình chỉ nhưng vụ án vẫn được giải quyết. Vì vậy nên, khi xem xét vụ án theo thủ tục phúc thẩm, Tòa án phát hiện ra các căn cứ này nên phải đình chỉ giải quyết VADS. Ngoài ra, theo Điều 269 BLTTDS, trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì HĐXX phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không. Nếu bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn, ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. 2.1.2. Thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở cấp phúc thẩm Tại cấp phúc thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án chỉ được quy định thực hiện trong phiên tòa. Vì vậy, thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án thuộc về HĐXX. 2.1.3. Hình thức của quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở cấp phúc thẩm Quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết VADS phải được lập thành văn bản. Nội dung và hình thức của quyết định này tuân theo mẫu 17 tại Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 4/8/2006. 2.1.4. Hiệu lực và hậu quả pháp lý của quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở cấp phúc thẩm - Hiệu lực: Quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở cấp phúc thẩm nói có hiệu lực pháp luật ngay. Đương sự, Viện kiểm sát không thể kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, nếu có căn cứ, quyết định này vẫn có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. - Hậu quả pháp lý: Với trường hợp Tòa án đình chỉ gải quyết VADS theo Điều 278 BLTTDS, sau khi rút đơn khởi kiện nguyên đơn vẫn có quyền khởi kiện lại nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn. Các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Đối với trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết VADS theo quy định tại Điều 269 BLTTDS thì căn cứ vào quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm về án phí trong bản án sơ thẩm bị hủy, Tòa án cấp phúc thẩm quyết định đương sự nào phải chịu án phí và mức án phí sơ thẩm. Đối với trường hợp nà các đương sự còn phải chịu một nửa án phí phúc thẩm. 2.2. Đình chỉ xét xử phúc thẩm VADS 2.2.1. Căn cứ đình chỉ xét xử phúc thẩm VADS Điều 260 BLTTDS quy định Tòa án đình chỉ xét xử phúc thẩm VADS khi xuất hiện một trong các căn cứ sau: 6 - Các trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS. Nếu có căn cứ này xuất hiện trong quá trình cấp phúc thẩm giải quyết vụ án thì Tòa án phải đình chỉ xét xử phúc thẩm. - Người kháng cáo rút tòa bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị. Theo hướng dẫn của nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 4/8/2006, trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo và Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình chỉ. Nếu người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát đã ra quyết định kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp rút một phần kháng nghị thì Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án đã được rút kháng cáo, kháng nghị. - Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định. 2.2.2. Thẩm quyền ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự Ở giai đoạn chuẩn bị xét xử thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ. Còn ở tại phiên tòa thì thẩm quyền đó thuộc về HĐXX. 2.2.3. Hình thức của quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm VADS Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm phải lập thành văn bản theo mẫu 15, 16 tại Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 4/8/2006. 2.2.4. Hiệu lực và hậu quả pháp lý của quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm VADS - Hiệu lực: Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm VADS có hiệu lực ngay. Đương sự, Viện kiểm sát không thể kháng cáo, kháng nghị. Trừ trường hợp kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. - Hậu quả pháp lý: Khác với đình chỉ VADS ở cấp phúc thẩm, đình chỉ xét xử phúc thẩm VADS không làm chấm dứt các quyền, nghĩa vụ về mặt nội dung mà chỉ làm chấm dứt thủ tục tố tụng phúc thẩm. Cụ thể, đình chỉ xét xử phúc thẩm làm chấm dứt hoạt động xét xử phúc thẩm nhưng đồng thời làm phát sinh hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm. III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VADS Ở TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM, PHÚC THẨM 1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng dân sự về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự 1.1. Ưu điểm - Về công tác giải quyết vụ án: Các quy định của pháp luật về vấn đề đình chỉ VADS là tương đối cụ thể, rõ ràng. Vì vậy, hầu hết các thẩm phán ở Tòa án các cấp đều áp dụng chính xác quy định của pháp luật tố tụng dân sự về đình chỉ giải quyết VADS. 7 - Về công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật: Tòa án nhân dân tối cao đã làm tốt nhiệm vụ hướng dẫn Tòa án cấp dưới trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về đình chỉ giải quyết VADS, để tránh tình trạng có nhiều cách hiểu về quy định của pháp luật dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất. Nhờ đó hiệu quả của công tác xét xử được nâng cao rõ rệt. 1.2. Nhược điểm Mặc dù BLTTDS hiện nay đã quy định về vấn đề đình chỉ VADS khá cụ thể, nhưng khi áp dụng trong thực tiễn thì vẫn gặp không ít những bất cập. - Không đưa người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn vào tham gia tố tụng: Khi đương sự trong VADS chết thì Tòa án phải làm rõ họ có để lại tài sản thừa kế không và ai là người được hưởng thừa kế để triệu tập họ tham gia tố tụng giải quyết vụ án. Nếu đương sự chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế thì căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 192 BLTTDS để đình chỉ. Tuy nhiên thực tế, có Tòa án đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi có người thừa kế của bị đơn mà lại không triệu tập họ tham gia tố tụng. - Về trách nhiệm kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của các tổ chức sau khi hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi thành một tổ chức khác: Nhiều công văn trao đổi nghiệp vụ của Tòa án địa phương có nêu trường hợp bị đơn là tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi không bàn giao khoản nợ có tranh chấp sang tổ chức mới. Do pháp luật không quy định trường hợp nào bắt buộc phải bàn giao, trường hợp nào không phải bàn giao nên Tòa án gặp khó khăn khi xác định tư cách đương sự, không có căn cứ để ra quyết định đình chỉ vụ án. - Không xác minh chính xác đương sự đã nhận được giấy triệu tập chưa: Nhiều Tòa án gửi giấy triệu tập qua đường bưu điện theo hình thức gửi bình thường. Tại phiên tòa không thấy đương sự có mặt, bưu điện không trả lại giấy triệu tập: đã kết luận ngay là đương sự đó đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt. Như vậy là sai. 2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đình chỉ giải quyết VADS ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm 2.1. Kiến nghị về xây dựng quy định pháp luật - Một là, với căn cứ đình chỉ VADS quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 BLTTDS: “Nguyên đơn hoặc bị đơn là các nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế” thì cần hướng dẫn thêm mục sau: “Trong trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhân di sản thì đại diện của cơ quan Nhà nước nhận tài sản của bị đơn sẽ phải tham gia tố tụng thay bị đơn”. 8 - Hai là, với trường hợp đình chỉ giải quyết VADS do người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Tòa án chấp nhận, hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS cũng cần hướng dẫn cụ thể để việc áp dụng được chính xác. Khi người khởi kiện là người đại diện theo ủy quyền thì Tòa án không được đình chỉ giải quyết VADS ngay mà phải xem xét phạm vi hợp đồng ủy quyền giữa nguyên đơn và người được ủy quyền. - Ba là, với căn cứ đình chỉ VADS theo điểm d khoản 1 Điều 192 BLTTDS. Thì nếu cơ quan tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích cho người khác mà rút đơn khởi kiện thì việc Tòa án ra quyết định đình chỉ ngay mà không hỏi ý kiến nguyên đơn thì đó là điều không hợp lý. Do vậy, căn cứ này cần quy định như sau cho hợp lý: bỏ cụm từ “trong trường không có nguyên đơn” và sửa lại thành “Cơ quan, tổ chức khởi kiện thay nguyên đơn rút văn bản khởi kiện và nguyên đơn có yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án”. - Bốn là, trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án do các đương sự đã thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo điểm đ khoản 1 Điều 192 BLTTDS. Sau khi thỏa thuận đơng sự có trách nhiệm thông báo cho Tòa án biết và yêu cầu Tòa án không giải quyết vụ án nữa. Nếu đương sự không có thông báo thì vụ án vẫn được tiến hành xét xử. Do đó, BLTTDS cần quy định lại như sau: “Các đương sự đã tự thỏa thuận và có đơn yêu cầu Tòa án không tiếp tục giải quyết vụ án”. - Năm là, quy định về đình chỉ giải quyết vụ án do nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt cũng cần phải có hướng dẫn cụ thể: Nếu vụ án có nhiều nguyên đơn nhưng mỗi nguyên đơn có yêu cầu riêng biệt đối với bị đơn, thì về bản chất, Tòa án đã nhập nhiều vụ án có cùng nhóm quan hệ pháp luật có tranh chấp thành một vụ án. Do vậy khi một nguyên đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do chính đáng, Tòa án có thể tách vụ kiện ra để giải quyết yêu cầu của các đương sự có mặt. Việc này sẽ đảm bảo cho Tòa án giải quyết vụ án nhanh chóng, đúng pháp luật, bảo vệ quyền cảu các nguyên đơn có mặt. Nếu vụ án có nhiều nguyên đơn, có yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền và nghĩa vụ liên quan mà một trong các nguyên đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do chính đáng thì Tòa án đình chỉ xét xử phần yêu cầu của nguyên đơn vắng mặt. Quy định như vậy để đảm bảo quyền lợi cho các đương sự khác. - Sáu là, BLTTDS cũng nên quy định lại việc giải quyết án phí đối với trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án do nguyên đơn đã được triệu tập hợp lề đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Các nguyên đơn khác, bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập cũng phải nộp tiền tạm ứng án phí. Nếu chỉ vì một nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt mà sung toàn bộ tiền tạm ứng án phí vào 9 công quỹ Nhà nước thì sẽ thiệt thòi cho các đương sự có mặt. Vì vậy chỉ nên sung công quỹ nhà nước số tiền tạm ứng án phí của nguyên đơn vắng mặt. - Bẩy là, Về trường hợp đình chỉ theo khoản 2 Điều 192 BLTTDS. Việc chưa đủ điều kiện khởi kiện phải được hiểu như sau: “Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là chưa đủ các điều kiện mà pháp luật nội qung quy định để đương sự khởi kiện ra Tòa” (Ví dụ. Người chồng không được khởi kiện xin ly hôn khi người vợ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi). Việc chưa đủ tài liệu, chứng cứ để nộp cho Tòa án được hiểu là chưa đủ điều kiện để thụ lý vụ án chứ không phải là chưa có đủ điều kiện khởi kiện. - Tám là, về việc khởi kiện lại khi đã có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm. Khi đình chỉ giải quyết VADS theo khoản 1 Điều 192 BLTTDS, người khởi kiện có quyền khởi kiện lại nhưng BLTTDS lại không quy định nếu đình chỉ giải quyết VADS theo khoản 2 Điều 192 có được khởi kiện lại hay không. Về nguyên tắc đương sự không có quyền khởi kiện lại. Tuy nhiên, trường hợp đình chỉ do chưa đủ điều kiện khởi kiện mà họ đã khắc phục được thì tại sao không cho họ có quyền khởi kiện lại? Do đó vấn đề này nên quy đinh như sau: “Nếu Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án căn cứ theo khoản 2 điều 192 BLTTDS thì không được khởi kiện lại, trừ trường hợp tại điểm b,d,đ khoản 1 Điều 168 BLTTDS”. 2.2. Kiến nghị về công tác thực hiện pháp luật - Một là, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ ngành Tòa án. - Hai là, có kế hoạch đào tạo, sắp xếp để khắc phục tình trạng thiếu cán bộ thẩm phán hiện nay. - Ba là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật tới mọi người dân. - Bốn là, cần có chính sách đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ, công chức ngành Tòa án. C. KẾT LUẬN Trên đây là những phân tích của em về vấn đề đình chỉ giải quyết VADS ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Qua sự phân tích trên, có thể thấy các quy định về đình chỉ giải quyết VADS là rất quan trọng trong tố tụng dân sự, việc đình chỉ đúng đắn góp phần đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự, giúp Tòa án giải quyết VADS một cách nhanh chóng, đúng pháp luật. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật về đình chỉ cũng như quá trình áp dụng các quy định này vẫn còn một số điểm bất cập cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Việc xây dưng tốt các quy định của BLTTDS về đình chỉ giải quyết VADS không chỉ đáp ứng những yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp mà còn góp phần hết sức quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả giải quyết VADS. 10 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Hà Nội, 2009. 2. Bộ Luật tố tụng dân sự 2004. 3. Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006. 4. “Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của BLTTDS 2004”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Tác giả Phạm Minh Tâm, Đại học Luật Hà Nội. 11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan