Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảm bảo quyền tự do tôn giáo trong pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam...

Tài liệu Đảm bảo quyền tự do tôn giáo trong pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam

.PDF
71
1
88

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH BÙI THỊ KIM HẰNG ĐẢM BẢO QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT QUỐC TẾ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH ĐẢM BẢO QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Quốc tế Định hướng nghiên cứu Mã số: 8380108 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Thuỳ Dương Học viên: Bùi Thị Kim Hằng Lớp: 20CHQT_K34_NC, Khoá 34 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Đảm bảo quyền tự do tôn giáo trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam” là công trình nghiên cứu của cá nhân và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học khác. Các nội dung trong luận văn đảm bảo tính trung thực, chính xác và tin cậy. Luận văn được hoàn thành với sự hướng dẫn của PGS.TS Trần Thị Thuỳ Dương. Tôi xin chân thành cảm ơn. Tác giả Bùi Thị Kim Hằng MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1 CHƯƠNG 1 ...............................................................................................................9 QUI ĐỊNH VỀ TỰ DO TÔN GIÁO – SO SÁNH GIỮA LUẬT VIỆT NAM VÀ LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ..................................................................9 1.1. Qui định về tự do tôn giáo trong luật quốc tế..............................................9 1.1.1. Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 .....................................................9 1.1.2. Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người năm 1948 .............................10 1.1.3. Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 ...........12 1.2. Qui định về tự do tôn giáo trong luật Việt Nam........................................17 1.2.1. Qui định về tự do tôn giáo theo các Hiến pháp của Việt Nam ...............17 1.2.2. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 .....................................................21 1.3. Qui định về tự do tôn giáo trong pháp luật của một số quốc gia.............28 Kết luận Chương 1 ..................................................................................................34 CHƯƠNG 2 .............................................................................................................35 MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA TỰ DO TÔN GIÁO VÀ MỘT SỐ QUYỀN, TỰ DO KHÁC CỦA CON NGƯỜI ......................................................................35 2.1. Quyền bình đẳng trước pháp luật ..............................................................35 2.2. Quyền bình đẳng trong hôn nhân ..............................................................39 2.3. Quyền được giáo dục ...................................................................................42 2.4. Quyền không bị tra tấn, trừng phạt, đối xử vô nhân đạo ........................48 2.5. Tự do ngôn luận ...........................................................................................51 2.6. Quyền được sống ..........................................................................................55 Kết luận Chương 2 ..................................................................................................58 KẾT LUẬN ..............................................................................................................59 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tôn giáo nói riêng và nhân quyền nói chung là những vấn đề toàn cầu, được quan tâm không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn ở cả cộng đồng quốc tế. Liên hợp quốc và các tổ chức khu vực ở châu Âu, châu Mỹ và nhiều tổ chức đa phương khác luôn xem vấn đề nhân quyền và tôn giáo là mối quan tâm chung. Tự do tôn giáo một trong những tự do cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị được ghi nhận trong Hiến chương của Liên hợp quốc năm 1945, Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người năm 1948, Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966. Các quốc gia khi tham gia Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 có trách nhiệm giải trình về việc thực hiện quyền con người, trong đó có các vấn đề liên quan đến việc đảm bảo tự do tôn giáo. Việt Nam thừa nhận và tôn trọng tự do tôn giáo của mọi người trong Hiến pháp và pháp luật. Tự do tôn giáo cũng là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ dân chủ của quốc gia nên Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện qui định pháp luật về tôn giáo. Khoản 5 Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 định nghĩa về tôn giáo: “Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức”. Năm yếu tố - đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức chính là các tiêu chí cơ bản tạo nên tôn giáo và cũng là đặc điểm phân biệt với tín ngưỡng1. Hiện nay, tôn giáo tại việt Nam ngày càng phát triển và đa dạng. Theo báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ tính đến tháng 11/2021, Việt Nam có hơn 26,5 triệu tín đồ tôn giáo, chiếm 27% dân số cả nước. Số lượng tín đồ tôn giáo ở Việt Nam tăng hơn 57.000 người so với năm 2020. Có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động. Cả nước hiện có hơn Khoản 1 Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016: “Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng”. 1 2 57,4 ngàn chức sắc, trên 147 ngàn chức việc, hơn 29,6 ngàn cơ sở thờ tự2. Cụ thể, số lượng tín đồ các tôn giáo khoảng: Phật giáo: 15,1 triệu người; Công giáo: 7,1 triệu người; Cao đài: 1,1 triệu người; Tin lành: 1 triệu người; Hồi giáo: 80.000 người; Phật giáo Hòa hảo: 1,3 triệu người, còn lại là các tôn giáo khác3. Tôn giáo là một hệ tư tưởng, giáo lí mà người có đức tin thể nghiệm và cảm nhận giá trị thực sự. Trên thực tế, tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các chuẩn mực đạo đức, văn hoá, ý thức xã hội, đức tính con người4. Điều này góp phần tạo nên sự ổn định cũng như làm cơ sở cho quá trình phát triển xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị của đất nước. Bên cạnh đó, sự trỗi dậy của chủ nghĩa tôn giáo cực đoan, thế lực thù địch đã và đang đe dọa trực tiếp sự ổn định của xã hội, chính trị của nhiều nước. Trong những trường hợp cực đoan và tiêu cực, mục đích của một số tín đồ tôn giáo là can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc5. Điều này đặt ra nhu cầu nhà nước quản lý đối với lĩnh vực tôn giáo nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho mọi người thực hiện tự do tôn giáo, đồng thời ngăn chặn những âm mưu lợi dụng tôn giáo chống phá chính quyền để tôn giáo và xã hội đồng hành phát triển một cách hài hoà. Chính vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: “Đảm bảo quyền tự do tôn giáo trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam” để thực hiện luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2 Ban tôn giáo Chính phủ, “Các tổ chức tôn giáo là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với chức sắc, tín đồ trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước”, https://sonoivu.namdinh.gov.vn/qlnn-ve-tongiao/truong-ban-ton-giao-chinh-phu-cac-to-chuc-ton-giao-la-cau-noi-giua-dang-nha-nuoc-voichuc-sac-tin-do-trong-cong, truy cập 10/5/2022. 3 Công an Nhân dân online, “Việt Nam luôn bảo đảm sự đa dạng, hòa hợp và bình đẳng tôn giáo”, https://cand.com.vn/nhan-quyen/Viet-Nam-luon-bao-dam-su-da-dang-hoa-hop-va-binh-dang-tongiao-i590780/, truy cập 10/5/2022. 4 A.Einstein (1954), Mein Weltbild, Germany, pp. 9-12. 5 Hoàng Thị Lan (2022), “Phê phán những quan điểm sai trái về tự do tôn giáo ở Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 528. 3 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, vấn đề quyền con người, tự do tôn giáo được quan tâm trong nhiều hội thảo trong nước và quốc tế. Việc nghiên cứu về quyền con người, tự do tôn giáo được chú trọng. Nhiều công trình nghiên cứu về tôn giáo, ảnh hưởng của tôn giáo trong các lĩnh vực khác nhau đối với đời sống xã hội ở Việt Nam và các quốc gia khác. Trong đó, có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: - Nhóm các luận án trong nước: Nguyễn Thị Vân Hà (2014), Tôn giáo và luật pháp về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học Xã hội. Luận án đã nghiên cứu tiến trình xây dựng hoàn thiện luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận chung về tôn giáo và luật pháp, những yếu tố tác động đến luật pháp tôn giáo ở Việt Nam, những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân trong công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tôn giáo ở nước ta hiện nay. Đỗ Thị Kim Định (2015), Pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học Xã hội. Luận án đã nghiên cứu nội dung pháp luật về tôn giáo, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn của pháp luật về tôn giáo, đánh giá thực trạng pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam, những yếu tố tác động đến luật pháp tôn giáo ở Việt Nam. - Nhóm bài báo, kỷ yếu hội thảo, tạp chí khoa học, sách trong nước: Ban Tôn giáo Chính phủ (2015), Giá trị di sản của đa dạng tôn giáo ở Việt Nam và những đóng góp đối với xã hội Việt Nam, Hà Nội. Đây là tập kỷ yếu của hội thảo quốc tế, được Ban Tôn giáo Chính phủ hợp tác với phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam tổ chức vào cuối tháng 9/2013. Hội thảo phân tích sự đa dạng tôn giáo ở Việt Nam cũng như những đóng góp của các tôn giáo đối với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, vai trò của tôn giáo trong công cuộc đổi mới của đất nước, những chuyển biến trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam, những nỗ lực và thành tựu của nhà nước Việt Nam trong việc đảm bảo tự do tôn giáo, khuyến khích các hoạt động tôn giáo vì lợi ích của quốc gia. Nguyễn Thị Diệu Thúy (2019), “Bảo đảm quyền bình đẳng về tôn giáo, tín ngưỡng trong pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Công tác tôn 4 giáo, số 09. Bài viết phân tích sự bình đẳng của các tôn giáo trước pháp luật cũng như giữa các tín đồ thuộc các tôn giáo khác nhau. Lê Đại Nghĩa và Trần Ngọc Ngân (2019), “Lợi dụng truyền thông chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo hiện nay - Thủ đoạn và tác hại”, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 10. Bài viết phân tích các âm mưu của các thế lực phản động khi lợi dụng thông tin, truyền thông chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo. Viện Khoa học Xã hội Nhân văn Quân sự (2005), Tôn giáo và tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, NXB. Quân đội nhân dân Hà Nội. Nội dung của sách đề cập thông tin khái quát, ngắn gọn và dễ hiểu những vấn đề cơ bản, nổi bật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Phạm Thị Hằng (2018), “Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến Luật tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam”, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 8. Bài viết phân tích công tác tuyên truyền, phổ biến Luật tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Đỗ Quang Hưng (2003), Bước đầu tìm hiểu về mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội, Viện nghiên cứu tôn giáo, NXB. Tôn giáo. Tác giả của sách nghiên cứu về vấn đề quan hệ giữa nhà nước và Giáo hội nói chung, với Giáo hội các tôn giáo ở Việt Nam nói riêng, góp phần cùng với Đảng và nhà nước ta xác lập và hoàn thiện chính sách đổi mới hiện nay đối với tôn giáo, tín ngưỡng. Đỗ Quang Hưng (2014), Chính sách tôn giáo và Nhà nước pháp quyền, NXB. Đại học Quốc gia, Hà Nội. Sách là một công trình khoa học giá trị, chứa đựng những kiến giải sâu sắc, có tính mới về lý luận, tổng kết sâu sắc về thực tiễn đời sống tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế. Vũ Công Giao, Lê Thị Thúy Hương (2016), “Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo luật nhân quyền quốc tế và trong pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11. Bài viết phân tích những bất cập trong quy định pháp luật về điều chỉnh các vấn đề tôn giáo. Trong bài viết, các tác giả cho rằng việc hoàn thiện pháp luật về quyền này là cần thiết, chứng minh cho cộng đồng quốc tế tinh thần trách nhiệm và tính nghiêm túc của Việt Nam trong việc thực thi các cam kết quốc 5 tế về quyền con người, đồng thời giải quyết một số vấn đề còn tồn đọng liên quan đến tự do tôn giáo, góp phần bảo đảm sự ổn định và phát triển của đất nước. Nguyễn Cao Thanh (2014), “Đôi điều phân biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo”, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 01. Bài viết định nghĩa về tín ngưỡng, tôn giáo, giáo lý và sự thờ phụng, luật lệ, lễ nghi và cách tiếp cận tín ngưỡng, tôn giáo cần quan tâm; giúp người đọc hiểu được một cách khái quát về tín ngưỡng, tôn giáo và nhiều vấn đề cần quan tâm về tín ngưỡng, tôn giáo trong giai đoạn hiện nay. Ban Tôn giáo Chính phủ (2008), Tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo, NXB. Tôn giáo, Hà Nội. Sách nêu rõ lý luận chung của chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, chủ trương, chính sách đối với tôn giáo; công tác quản lý nhà nước đối với các cơ sở tôn giáo và đánh giá thực trạng quy định pháp luật về tôn giáo làm rõ nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế của thực trạng trên. - Nhóm các tài liệu nước ngoài: John Gillespie (2014), “Human Rights as a Larger Loyalty: The Evolution of Religious Freedom in Vietnam”, Harvard Human Rights Journal. Bài viết trình bày tình hình tôn giáo ở Việt Nam và quan điểm của một số người nước ngoài về công tác quản lí tôn giáo của Nhà nước Việt Nam. JR. John Witte (2002), Law and Protestantisme, Cambridge Publishing, New York. Sách bàn về mối quan hệ giữa luật pháp và hệ tư tưởng tôn giáo ở Đức. John Witte lập luận rằng chỉ hiểu về tôn giáo dưới góc độ thần học hay pháp lý là chưa đủ, cần phải có một quan điểm dung hoà cả hai góc nhìn này. Các công trình nghiên cứu đã phân tích khá chuyên sâu, khái quát được đặc điểm, tình hình tôn giáo ở Việt Nam cũng như sự chuyển biến của các tôn giáo ở Việt Nam dưới sự tác động của quốc tế; sự cần thiết về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với tôn giáo nhằm định hướng phát triển ổn định, bền vững, tạo thuận lợi cho các tổ chức, tín đồ tôn giáo hoạt động theo đúng tôn chỉ, mục đích, hiến chương, điều lệ của các tôn giáo phù hợp với mục tiêu, lợi ích của nhà nước. Đây cũng là nguồn tài liệu giá trị cho tác giả luận văn. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở việc phân tích khái quát những sự đổi mới về đường lối và 6 chính sách tôn giáo nước ta; việc đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo chưa được chú trọng, nghiên cứu pháp luật về tôn giáo phần lớn chỉ khái quát và điểm lại những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội trong lĩnh vực tôn giáo. Đến nay, thực tiễn về đảm bảo quyền tự do tôn giáo cũng như pháp luật về tôn giáo có nhiều thay đổi. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn đảm bảo quyền tự do tôn giáo trong luật quốc tế và pháp luật Việt Nam là thực sự cần thiết. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn phân tích nội dung qui định tự do tôn giáo trong luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam, đồng thời, đánh giá tính tương thích của pháp luật Việt Nam về tự do tôn giáo với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Song song đó, tác giả phân tích mối tương quan giữa tự do tôn giáo và các quyền tự do cơ bản khác của con người để giải quyết những mẫu thuẫn liên quan đến tôn giáo trong đời sống xã hội. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: sự tương hợp giữa pháp luật Việt Nam hiện hành với pháp luật quốc tế về tự do tôn giáo; tương quan giữa tự do tôn giáo và các quyền, tự do cơ bản khác của con người. - Phạm vi nghiên cứu: Trong luận văn, tác giả sẽ phân tích nội dung, giới hạn của tự do tôn giáo theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, đồng thời, so sánh thực tiễn pháp luật Việt Nam và một số nước thành viên Liên hợp quốc trong việc đảm bảo tự do tôn giáo. Tác giả tập trung nghiên cứu luật và thực tiễn của các quốc gia có nền kinh tế thịnh vượng, tiên phong trong đảm bảo quyền và tự do của con người như: Pháp, Mỹ và Nhật. Do đó, đề tài sẽ nghiên cứu quy định pháp luật Việt Nam; Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 (Charter of The United Nations); Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người năm 1948 (Universal Declaration of Human Rights); Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 (International Covenant on Civil and Political Rights); và một số qui định về tự do tôn giáo của một số quốc gia thành viên Liên hợp quốc như: Pháp, Mỹ và Nhật. 7 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đánh giá. Cụ thể: - Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh Các phương pháp này được sử dụng xuyên suốt ở chương 1 và chương 2. Phương pháp phân tích được sử dụng nhằm làm rõ các vấn đề lý luận và pháp lý về tự do tôn giáo và bảo đảm tự do tôn giáo. Phương pháp tổng hợp giúp khái quát, đúc kết những quy định của pháp luật hiện hành và các điều ước quốc tế về các quyền, tự do liên quan khác của con người. Phương pháp so sánh giúp đánh giá tương hợp giữa quy định của pháp luật về tự do tôn giáo ở Việt Nam và các qui định quốc tế, cũng như so sánh luật Việt Nam với luật của một số nước khác. - Phương pháp thống kê Phương pháp thống kê được sử dụng chủ yếu ở chương 2 nhằm tập hợp các quy định pháp luật có liên quan, các số liệu, báo cáo, vụ kiện từ thực tiễn. Việc sử dụng phương pháp này giúp đánh giá, bình luận về cơ sở pháp lí và thực tiễn thi hành về tự do tôn giáo ở Việt Nam và một số quốc gia. 6. Ý nghĩa lý luận – thực tiễn - Ý nghĩa lý luận: Đề tài đưa ra các quan điểm, nhận xét về quy định của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực tự do tôn giáo và mối tương quan với các quyền và tự do khác của con người. Ngoài ra, nội dung nghiên cứu của đề tài còn là tài liệu tham khảo để các công trình khác nghiên cứu về tự do tôn giáo dưới góc độ pháp lý. - Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài đưa ra các giải pháp nhằm giải quyết những bất cập trong thực tiễn giúp quá trình áp dụng pháp luật về tôn giáo được hiệu quả hơn. Đồng thời, tác giả đưa ra các kinh nghiệm trong pháp luật của một số quốc gia để xây dựng một xã hội phát triển với đời sống tôn giáo hài hoà, chính trị ổn định tại Việt Nam. 8 7. Bố cục luận văn Luận văn có bố cục gồm 02 chương: Chương 1. Qui định về tự do tôn giáo – So sánh giữa luật Việt Nam và luật của một số quốc gia Chương 2. Mối tương quan giữa tự do tôn giáo và các quyền, tự do khác của con người 9 CHƯƠNG 1 QUI ĐỊNH VỀ TỰ DO TÔN GIÁO – SO SÁNH GIỮA LUẬT VIỆT NAM VÀ LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA Tự do tôn giáo là một trong các tự do cơ bản của con người được pháp luật quốc tế công nhận nên việc đảm bảo, thực hiện tự do này phải dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế. Việt Nam là thành viên của Liên hợp quốc (United Nation) năm 1977, nên các qui định về tự do tôn giáo phải đảm bảo tương thích với các qui định của Liên hợp quốc. Trong chương này, tác giả sẽ tập trung phân tích các qui định về tự do tôn giáo theo qui định của Liên hợp quốc, của Việt Nam và của một số quốc gia như Pháp, Mỹ và Nhật. 1.1. Qui định về tự do tôn giáo trong luật quốc tế 1.1.1. Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 Hiến chương Liên hợp quốc (United Nations Charter - UNC) năm 1945 qui định về tự do tôn giáo theo hướng mở rộng, tôn trọng quyền quyết định của các quốc gia thành viên. Khoản 3 Điều 1 Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 qui định: “Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo và khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền, tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Tuy qui định này là không bắt buộc nhưng thể hiện tầm quan trọng của các quyền và tự do của con người, đặc biệt là tự do tôn giáo. Sự cam kết tôn trọng, tuân thủ qui định về đảm bảo, tôn trọng các quyền, tự do cơ bản trong đó có tự do tôn giáo của các quốc gia. Qui định trên của Hiến chương tạo điều kiện giữ vững tình hữu nghị, duy trì quan hệ hoà bình giữa các dân tộc và các quốc gia thành viên. Đồng thời, nội dung của Hiến chương xây dựng nền chính trị ổn định, tinh thần đoàn kết, phát triển cộng đồng trong các quốc gia thành viên. Thêm vào đó, Điều 76.a và c Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 còn qui định về những mục tiêu chủ yếu của chế độ quản thác quốc tế6 theo đúng những 6 Điều 75 Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945: “Liên hợp quốc thiết lập một chế độ quản thác quốc tế dưới sự chỉ đạo của mình để quản lý các lãnh thổ theo chế độ quản thác, những điều ước 10 mục đích ở Điều 1 Hiến chương. “Củng cố hoà bình và an ninh quốc tế; Khuyến khích sự tôn trọng nhân quyền và những quyền, tự do cơ bản cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo và khuyến khích mọi người công nhận mối tương quan giữa các dân tộc trên thế giới”. Có thể thấy, Liên hợp quốc nhấn mạnh và chú trọng trong việc tôn trọng nhân quyền mà không có sự phân biệt về tôn giáo hay chủng tộc cùng với sự hoà bình, an ninh quốc tế. 1.1.2. Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người năm 1948 So với Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người (Universal Declaration of Human Rights - UDHR) năm 1948 ghi nhận cụ thể hơn về tự do tôn giáo. Tại Điều 18 Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người năm 1948 qui định: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình thức như truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, dưới hình thức cá nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc nơi riêng tư”. Mọi người không chỉ được tự do gia nhập mà còn tự do thay đổi và thể hiện tôn giáo một cách riêng tư hay cộng đồng. Có thể nói, qui định này kế thừa và phát triển tư tưởng tự do tôn giáo trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789. Điểm nổi bật là, Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người năm 1948 quy định về tự do tôn giáo cụ thể và chặt chẽ hơn Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945. Bên cạnh đó, theo Điều 2 của Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người năm 1948: “Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác”. Nói cách khác, sự hưởng thụ các quyền và tự do của con người trong đó có tự do tôn giáo không kéo theo sự phân biệt đối xử. riêng sẽ ký kết và tiến hành việc kiểm soát các lãnh thổ ấy. Những lãnh thổ này gọi là những “lãnh thổ quản thác” 11 Mỗi công dân dù theo hay không theo tôn giáo đều được pháp luật bảo vệ một cách hợp pháp. Khi có sự mâu thuẫn hay xung đột về các quyền và lợi ích hợp pháp thì cũng sẽ không có ưu ái hay đối xử bất công trước pháp luật. Điều 7 Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người năm 1948 qui định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào. Mọi người đều có quyền được bảo vệ một cách bình đẳng chống lại bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vi phạm bản Tuyên ngôn này và chống lại bất kỳ sự kích động phân biệt đối xử nào như vậy”. Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người năm 1948 cũng đề cập những giới hạn trong việc thực hiện quyền con người, tự do tôn giáo. Bản chất của những giới hạn đó nhằm cho phép các quốc gia thành viên có thể áp đặt một số điều kiện để thực thi hoặc hưởng thụ một số quyền con người nhất định. Theo Điều 29 Tuyên ngôn thế Giới về Quyền con người năm 1948: “1. Mọi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng, là nơi duy nhất mà ở đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển tự do và đầy đủ. 2. Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ. 3. Trong mọi trường hợp, việc thực hiện các quyền, tự do này không được trái với các mục tiêu và nguyên tắc của Liên hợp quốc”. Tự do tôn giáo phải gắn liền với nghĩa vụ và trách nhiệm chính đáng vì cộng đồng, xã hội. Đây cũng là một phương pháp nhằm đảm bảo mọi người tuân thủ pháp luật, không lợi dụng tự do tôn giáo để trục lợi, chống phá, xâm phạm lợi ích quốc gia, làm ảnh hưởng hay vi phạm một cách phi lý các quyền con người khác. Mặc dù, Hiến chương của Liên hợp quốc năm 1945 và Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người năm 1948 là những văn bản pháp lí quốc tế không có tính ràng buộc. Các qui định liên quan chỉ khuyến khích, bảo vệ, thừa nhận các quyền, tự do của con người chứ chưa đề cập chế tài. Tuy nhiên, cả hai văn bản có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các nguyên tắc và định hướng về quyền con người, tự do 12 tôn giáo. Các qui định này tạo cơ sở để sau này cộng đồng quốc tế cụ thể hóa thành các công ước mang tính chất pháp lý bắt buộc đối với các quốc gia thành viên. 1.1.3. Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR) năm 1966 do Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào tháng 12 năm 1966. Công ước qui định các Quyền Dân sự và Chính trị cơ bản của con người. Các quốc gia thành viên của Công ước sẽ phải tôn trọng các quyền, tự do cơ bản này bao gồm tự do tôn giáo. Thứ nhất là, qui định về tự do tôn giáo Khoản 1 Điều 18 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 qui định về tự do tôn giáo như sau: “Mọi người đều có tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo. Điều này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ phụng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng”. Khác với Hiến chương của Liên hợp quốc năm 1945 và Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người năm 1948, khoản 1 Điều 18 này còn qui định thêm về tự do tư tưởng và lương tâm. Tự do tư tưởng được hiểu là tự do suy nghĩ, quan niệm hay xem xét về một vấn đề và được thể hiện qua lời nói hay hành động. Không ai bị ép buộc phải tiết lộ suy nghĩ hay tư tưởng của bản thân. Tự do lương tâm được xem là gốc để xây dựng các quyền, tự do khác trên nền tảng khoan dung, lương thiện. Không ai có thể can thiệp, xâm phạm hay ngăn cấm một quyết định của một người khi họ hành động các điều tốt theo lương tâm. Từ những qui định trên, có thể thấy rằng, Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 không qui định về việc đăng ký hoạt động tôn giáo. Mọi người có tự do bày tỏ, thể hiện tôn giáo. Việc cản trở hoạt động tôn giáo không đăng ký được pháp luật quốc tế đặc biệt quan tâm. Điều này, ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh của quyền tự do thể hiện tôn giáo của một người. Khoản 1 Điều 18 của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 công nhận tự do thể 13 hiện tôn giáo của mọi người. Do đó, những người không thể hoặc không muốn đăng ký vẫn có thể thể hiện tôn giáo ở nơi riêng tư hoặc nơi công cộng. Thêm vào đó, Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 còn chú trọng đảm bảo về tự do tôn giáo của nhóm thiểu số về sắc tộc, tôn giáo. Điều 27 Công ước qui định: “Ở những quốc gia có nhiều nhóm thiểu số về sắc tộc, tôn giáo và ngôn ngữ, những cá nhân thuộc các nhóm thiểu số đó cùng với những thành viên khác của cộng đồng, không bị khước từ quyền có đời sống văn hoá riêng, quyền được theo và thực hành tôn giáo riêng, hoặc quyền được sử dụng ngôn ngữ riêng của họ”. Tự do tôn giáo theo qui định Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 tương thích với nội dung ở Điều 18 của Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người năm 1948. Niềm tin vào một tôn giáo hoặc theo một tôn giáo bao gồm tự do lựa chọn, thay đổi niềm tin từ tôn giáo này sang tôn giáo khác. Bên cạnh đó, nội dung này của Công ước cụ thể hoá các qui định tại khoản 3 Điều 1 Hiến chương Liên hợp quốc về Quyền con người năm 1945. Thứ hai là, qui định về hành vi bị nghiêm cấm Khoản 2 Điều 18 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 khẳng định: “Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ”. Qui định này của Công ước nhằm đảm bảo không ai bị ép buộc hay bị cưỡng chế làm tổn hại đến tôn giáo mà họ lựa chọn hoặc tin theo. Nhưng trên thực tế, khó có thể xác định được họ có bị ép buộc làm các điều tổn hại đó hay không. Thêm vào đó, để bảo vệ quyền này, khoản 2 Điều 20 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 nghiêm cấm mọi hành động cổ vũ hận thù dẫn đến kích động, phân biệt đối xử và bạo lực. “Mọi chủ trương gây hận thù dân tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo để kích động sự phân biệt đối xử về chủng tộc, sự thù địch, hoặc bạo lực đều phải bị pháp luật nghiêm cấm”7. Các hành vi vi phạm đều phải chịu sự chế tài của pháp luật. 7 Khoản 2 Điều 20 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966. 14 Khoản 1 Điều 20 Công ước nghiêm cấm mọi hình thức tuyên truyền cho chiến tranh. Như vậy có thể thấy rằng, tự do tôn giáo thì tuyệt đối nhưng tự do thể hiện tôn giáo thì sẽ bị giới hạn theo luật quốc tế và quốc gia. Niềm tin vào những giá trị tinh thần, giao tiếp về những vấn đề tâm linh với người khác, tự do bảo vệ những niềm tin và giá trị đó dưới hình thức cá nhân hay tập thể, và quyền, tự do hành động theo những niềm tin và giá trị tinh thần đó không vi phạm đến các quyền, tự do của những người khác8. Tự do tôn giáo nhưng không được xâm phạm các giá trị tinh thần hay các quyền, tự do hợp pháp của người khác. Điều 26 Công ước khẳng định sự đảm bảo chặt chẽ trong qui định pháp luật: “Pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử và đảm bảo cho mọi người sự bảo hộ bình đẳng và có hiệu quả chống lại những phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc các địa vị khác”. Tóm lại, những qui định về các hành động phân biệt đối xử với tín đồ hay người không theo tôn giáo đều trái với các quy định của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966. Đồng thời, Điểm ii.c khoản 3 Điều 8 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 không quy định quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ quân sự vì tôn giáo. Nhưng nếu quyền này được ghi nhận trong pháp luật quốc gia thì không được phân biệt đối xử giữa các tôn giáo khác nhau. Thứ ba là, qui định về những giới hạn của tự do tôn giáo Đầu tiên, khoản 3 Điều 18 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 qui định: “Tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”. Theo đó, tự do tôn giáo không bị giới hạn nhưng việc thực hiện tự do tôn giáo có thể bị giới hạn bởi các lý do đảm bảo an ninh, trật tự xã hội của các quốc gia. Các quốc gia thường nghiêm cấm các hoạt động tôn giáo có tính chất tuyên truyền cho chiến tranh hoặc hận thù, kích động sự phân biệt đối xử về sắc tộc. 8 Manfred Nowak, Bình luận về ICCPR, Điều 18. Tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tôn giáo và tín ngưỡng, pp. 411. 15 Chỉ khi tôn giáo được sử dụng một cách sai lầm để biện minh cho nạn khủng bố, thì các hành động chống khủng bố của chính phủ mới được dùng để biện minh cho các hành động dưới danh nghĩa quyền con người và tự do tôn giáo9. Các quốc gia thành viên Liên hợp quốc có quyền sử dụng pháp luật để ngăn chặn hành động đó. Có thể thấy, khoản 3 Điều 18 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 cho phép hạn chế tự do tôn giáo trong trường hợp cần thiết để bảo vệ trật tự công cộng, đạo đức xã hội và các quyền, tự do cơ bản của người khác. Sau đó, khoản 1 Điều 4 của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 qui định trong thời gian có tình trạng khẩn cấp đe doạ của quốc gia và đã được chính thức công bố, các quốc gia thành viên có thể áp dụng những biện pháp hạn chế các quyền trong Công ước này. Các biện pháp hạn chế không được chứa đựng bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã hội. Tuy nhiên, những biện pháp hạn chế này không được áp dụng đối với Điều 18 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 . Khoản 2 Điều 4 của Công ước cũng qui định: “Điều này không được áp dụng để hạn chế các quyền quy định trong điều 6, 7, 8 (các khoản 1 và 2), 11, 15, 16 và 18”. Tự do tôn giáo được bảo vệ và không thể bị giới hạn hay bị tước bỏ kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia. Tuy vậy, điều này khác hoàn toàn với các hạn chế cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác10. Ngoài ra, các hạn chế nói trên không được áp dụng trong quyền giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con cái của các bậc cha mẹ hay người giám hộ hợp pháp. Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 cũng xác định quyền của các bậc phụ huynh được định hướng về niềm tin, tôn giáo cho con cái của họ. “Các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng quyền của các bậc cha mẹ, và của những người giám hộ hợp pháp nếu có, trong việc giáo dục về tôn Conference on Security and Co-operation in Europe (2002), “Tự do tôn giáo và tín ngưỡng”, http://www.osce.org/odihr/13434.html, truy cập 22/06/2022. 10 Khoản 3, Điều 18 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966. 9 16 giáo và đạo đức cho con cái họ theo ý nguyện của riêng họ”11. Do đặc điểm về khả năng nhận thức của trẻ em, Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 quy định phụ huynh có toàn quyền trong việc giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con cái. Các trường công lập có thể giảng dạy những môn học như lịch sử các tôn giáo miễn là nội dung trung lập và khách quan, không chỉ trích tiên cực. Việc các trường giảng dạy giáo lý một tôn giáo phụ thuộc vào sự tự nguyện, quyết định của các bậc cha mẹ để không trái với quy định trong khoản 4 Điều 18 Công ước. Cuối cùng, khoản 3 Điều 18 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 liệt kê một số tiêu chuẩn cần thiết để những hạn chế đặt ra được coi là chính đáng. Các tiêu chuẩn đó là bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền tự do cơ bản của người khác. Việc tuân thủ nghiêm ngặt tất cả các tiêu chí này là cốt yếu để đảm bảo tự do tôn giáo. Tuy nhiên, quy định giới hạn quá rộng có thể làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực thi tự do tôn giáo trong thực tế tại mỗi quốc gia khác nhau. Có thể nói, để phù hợp với các biện pháp hạn chế quy định trong khoản 3 Điều 18 Công ước, những hạn chế này phải cụ thể hơn và đáp ứng được các tiêu chí đặt ra. Những hạn chế phải là cần thiết để phục vụ một mục đích chính đáng – bảo vệ an toàn của công chúng, trật tự công, sức khỏe, hay đạo đức hay các quyền và tự do căn bản của những người khác12. Các hạn chế phải tuân thủ chặt chẽ tính cân xứng giữa tự do tôn giáo và việc phục vụ những mục đích chính đáng kể trên. Tóm lại, tự do tôn giáo được thể hiện tại Điều 18 của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 liên hệ mật thiết với nhau. Những nội dung trong Điều 18 không chỉ làm rõ qui định về tự do tôn giáo mà còn nghiêm cấm các hành vi lợi dụng tôn giáo và các giới hạn thực thi của tự do này. Các qui định trên, vừa nêu lên tính phổ quát của tự do tôn giáo, vừa tạo điều kiện cho những quốc gia theo từng đặc thù riêng có thể thực hiện được. 11 12 Khoản 4, Điều 18 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966. OHCHR (2014), Tuyên bố báo chí về Chuyến thăm Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, https://www.ohchr.org/sites/default/files/Documents/Issues/Religion/StatementVietnameseVersion 31July2014.pdf , accessed 19/09/2022.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan