Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò giám sát của mặt trận tổ quốc việt nam đối với bộ máy nhà nước...

Tài liệu Vai trò giám sát của mặt trận tổ quốc việt nam đối với bộ máy nhà nước

.PDF
77
12
148

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG THỊ KIM NGÂN VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI BỘ MÁY NHÀ NƢỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ Hà Nội - 2010 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI BỘ MÁY NHÀ NƢỚC 1.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị và vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước 1.2. Khái niệm, mục đích, tính chất giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 1.3. Đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 1.4. Nội dung và hình thức giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI BỘ MÁY NHÀ NƢỚC 2.1. Hoạt động giám sát trong việc xây dựng bộ máy nhà nước 2.2. Hoạt động giám sát trong việc xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành chính sách, pháp luật 2.3. Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo 2.4. Hoạt động giám sát đại biểu dân cử, cán bộ công chức nhà nước 2.5. Đánh giá thực trạng vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 3.1. Sự cần thiết tăng cường vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước 3.2. Phương hướng tăng cường vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước 3.3. Giải pháp cụ thể nhằm tăng cường vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước 3.1.1 Cải tiến giám sát việc thành lập cơ quan nhà nước 3.3.2. Cải tiến giám sát việc xây dựng pháp luật và thực thi chính sách pháp luật 3.3.3. Tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo 3.3.4. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong giám sát đại biểu dân cử, cán bộ công chức nhà nước 3.3.5. Một số biện pháp khác KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 2 1 6 6 13 17 19 25 25 33 47 54 62 66 66 69 73 73 75 83 87 88 103 105 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Là một bộ phận trong hệ thống chính trị của nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước tích cực chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của Mặt trận chính là một trong những phương thức thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động, là một kênh quan trọng trong việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Qua thực tiễn 20 năm đổi mới của đất nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tích cực đổi mới phương thức hoạt động của mình, tiếp tục làm tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, xứng đáng là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, thực sự là nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới mà trước hết là nhiệm vụ tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, góp phần làm cho bộ máy nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Trong nhiệm vụ tham gia xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền nhân dân thì nhiệm vụ quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát nhân dân đối với bộ máy nhà nước. Trước yêu cầu đổi mới của toàn bộ hệ thống chính trị, nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; đặc biệt là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001); thì việc tìm hiểu, nghiên cứu về vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước là thực sự cần thiết, rất có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn cho thấy những đóng góp to lớn của Mặt trận đối với việc xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân. Thật vậy, quyền giám sát của Mặt trận được chính thức ghi nhận tại điều 9 Hiến pháp năm 1992, đó là: “Mặt trận Tổ quốc giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức nhà nước”. Thực hiện quyền giám sát cũng đồng thời là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do Nhà nước quy định. Thực hiện tốt quyền và trách nhiệm này chính là góp phần củng cố và bảo vệ chính quyền nhân dân, củng cố và bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thể hiện tiếng nói của nhân dân. Nhân dân ngoài việc thực hiện quyền giám sát trực tiếp hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước, còn thông qua Mặt trận và các đoàn thể để thực hiện quyền giám sát của mình. Sau Hiến pháp 1992, trong nhiều văn bản pháp luật, trong đó có Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Nhà nước đã từng bước thể chế hoá quyền giám sát của Mặt trận trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, việc thể chế hoá quyền giám sát của 3 Mặt trận đối với bộ máy nhà nước còn thiếu nhiều văn bản và chưa cụ thể, đầy đủ. Mặt khác, cơ chế giám sát chưa được cụ thể hoá đối với từng đối tượng và lĩnh vực giám sát nên quá trình thực hiện rất khó khăn, hiệu quả thấp. Từ cơ sở pháp lý cũng như thực tiễn về công tác giám sát của Mặt trận, tác giả đề ra những giải pháp khả thi nhằm tăng cường hơn nữa vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc các cấp, góp phần xây dựng chính quyền ngày càng trong sạch, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thực sự là chính quyền của dân, do dân và vì dân. Từ những lý do nêu trên và với tâm huyết của mình, tôi quyết định chọn đề tài: Vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước để làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Mặc dù vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong từng lĩnh vực cụ thể như bầu cử đại biểu Quốc hội hoặc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, hoặc ở lĩnh vực Mặt trận tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân... đã trở thành đối tượng nghiên cứu của một số công trình khoa học riêng biệt hoặc trong phạm vi tổng thể chung của một số công trình. Về hoạt động tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân thì có khá nhiều các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các luận án tiến sỹ, thạc sỹ đã nghiên cứu, như: công trình Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội ở nước ta hiện nay do Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương chủ biên, HN. 2007; Đề tài khoa học cấp bộ "Những căn cứ lý luận và thực tiễn sửa đổi Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam" do Giáo sư Lưu Văn Đạt làm chủ nhiệm đề tài, HN. 7/2009 "Chuyên đề: Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh do Nguyễn Văn Pha là chủ nhiệm, HN. 8/2009; Luân văn thạc sỹ luật học “ Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân trong giai đoạn hiện nay” của Phạm Thu Hương do PGS.TS Bùi Xuân Đức hướng dẫn… Đối với vai trò giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần thiết được nghiên cứu một cách tổng thể, trực tiếp riêng biệt và chuyên sâu. Đặc biệt, trước yêu cầu của việc đổi mới hệ thống chính trị trong đó có đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và yêu cầu của thực tiễn đời sống chính trị xã hội đặt ra; thì việc tìm hiểu, nghiên cứu một cách có hệ thống về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc giám sát bộ máy nhà nước là hết sức cần thiết; có giá trị về lý luận và thực tiễn cao. 3. Mục đích nghiên cứu của luận văn Mục đích khoa học là: Làm rõ cơ sở lý luận cũng như thực trạng vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước, từ đó 4 đánh giá đúng và nghiêm túc về vai trò, ví trí của Mặt trận trong công tác giám sát bộ máy nhà nước và đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng nghiên cứu - Đề tài nghiên cứu về vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước thông qua một số nội dung, lĩnh vực hoạt động chính của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. - Trong luận văn này, tác giả chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu vai trò giám sát của của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay (tức là trong giai đoạn đổi mới), đặc biệt là từ khi có Hiến pháp năm 1992 và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999 đến nay. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ sau: - Luận giải hệ thống lý luận về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước. - Phân tích thực trạng vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đánh giá những mặt được, chưa được của hoạt động giám sát trên thực tế. Từ đó rút ra nguyên nhân, kinh nghiệm thực tiễn và những vấn đề cần đưa ra giải pháp để hoàn thiện, nhằm tăng cường vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc trong thời gian tới. - Đề xuất những chủ trương, giải pháp nhằm tăng cường vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc đối với bộ máy nhà nước, đáp ứng nhiệm vụ, yêu cầu trong tình hình mới. 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn là một trong những công trình nghiên cứu một cách tương đối hệ thống, chuyên sâu về vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước. - Luận văn cũng góp phần đánh giá thực trạng công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước trong những năm gần đây. - Luận văn đưa ra một số kiến nghị về phương hướng và giải pháp chủ yếu về pháp lý, cơ chế, chính sách, phương thức hoạt động nhằm thúc đẩy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước; từ đó là cơ sở đảm bảo cho công tác giám sát có hiệu quả, góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. 7. Phƣơng pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích - tổng hợp, logíc - lịch sử, so sánh, đối chiếu để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu. Ngoài ra, trong khi nghiên cứu, tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và sử dụng các tư liệu qua thực tiễn công tác để hoàn chỉnh luận văn. 8. Nguồn tài liệu của luận văn 5 - Các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Ban cấp hành trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Ban Bí thư trung ương Đảng cộng sản Việt Nam từ Đại hội VI đến Đại hội X. - Hiến pháp, Luật thanh tra, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. - Các báo cáo về công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. - Qua một số sách báo, các bài viết của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của các học giả, nhà khoa học, nhà nghiên cứu .v.v. 9. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước. Chương 2: Thực trạng vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước. Chương 3: Phương hướng, giải pháp tăng cường vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 6 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI BỘ MÁY NHÀ NƢỚC 1.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị và vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nƣớc 1.1.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị Ngày 18 tháng 11 năm 1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh – hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp lực lượng nhân dân làm cách mạng giải phóng dân tộc. Từ đó đến nay, trong lịch sử cách mạng Việt Nam suốt chặng đường 80 năm không bao giờ vắng bóng tổ chức Mặt trận. Trải qua các thời kỳ cách mạng, với những hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau, Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam không ngừng lớn mạnh, đã có những đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một hình thức tổ chức của Mặt trận Dân tộc thống nhất trong giai đoạn hiện nay. Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về công tác Mặt trận trong thời kỳ phát triển đất nước, tháng 6 năm 1999 Quốc hội đã thông qua Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Vị trí, vai trò, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức hoạt động, mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các thành viên trong hệ thống chính trị, quyền và trách nhiệm của Mặt trận, những bảo đảm để Mặt trận hoạt động được quy định trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là những vấn đề cơ bản về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay. Tại khoản 1, Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài”[17]. Là một tổ chức liên minh chính trị, hệ thống tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được tổ chức theo hệ thống tổ chức của Đảng và theo cấp hành chính của Nhà nước: trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Ở mỗi cấp hành chính có Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, dưới cấp xã có Ban công tác Mặt trận ở cộng đồng dân cư (thôn, làng, ấp bản, khu phố). Mục tiêu chung của tổ chức liên minh chính trị này trong giai đoạn cách mạng hiện nay là đại đoàn kết toàn dân, giữ vững độc lập thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được quy định tại khoản 2, điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận 7 của hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” [17]. Theo Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/8/1999, Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, thì hệ thống chính trị nước ta bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Theo quy định tại khoản 2 điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự quy định này xuất phát từ thực tiễn và yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, xuất phát từ thể chế chính trị: Việt Nam ta là nước dân chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Đây còn là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống từ khi có Đảng cộng sản là có Mặt trận. Sau khi giành được chính quyền, Đảng, chính quyền, Mặt trận là những bộ phận hợp thành hệ thống chính trị. Tuy vai trò, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động có khác nhau nhưng đều có công cụ để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân và cùng có chung một mục đích là phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Vị trí của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị được quy định rõ: Với Đảng, Mặt trận Tổ quốc do Đảng lãnh đạo; với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; với các đoàn thể nhân dân, Mặt trận là nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên. Mặt trận Tổ quốc được coi là một bộ phận cấu thành và có vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam, điều này phản ánh tính đặc thù, riêng biệt, thể hiện tính sáng tạo, đặc sắc của cách mạng và đời sống chính trị xã hội nước ta. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không phải tự Mặt trận khẳng định mà do chính nhân dân và lịch sử thừa nhận; đã được thể hiện trong nhiều văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trong hệ thống chính trị nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò to lớn trong việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, là trung tâm trong việc đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp, các giới, các tôn giáo .v.v. ở cả trong và ngoài nước, góp phần tạo nên sự đồng thuận trong xã hội. Mặt trận là nơi trực tiếp để nhân dân phản ánh tâm tư, nguyện vọng của mình, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Đồng thời, Mặt trận còn tích cực tuyên truyền và động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, hăng hái tham gia các 8 phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động cách mạng nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đề ra. Đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò quan trọng. Ngay từ khi chưa có chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận đã đảm nhiệm một số chức năng của chính quyền (như Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam trước đây). Khi cách mạng thành công và chính quyền ra đời, với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; nên Mặt trận có vai trò to lớn trong việc tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, như: xây dựng, bảo vệ và giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước; tham gia xây dựng và tuyên truyền pháp luật; tiếp dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; tham gia một số quan hệ tố tụng, tuyển chọn Thẩm phán, giới thiệu Hội thẩm nhân dân, tuyển chọn Kiểm sát viên; tham gia thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân để phản ánh với Nhà nước; tham gia công tác đặc xá .v.v. Để quản lý đất nước và xã hội, Nhà nước phải xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật. Muốn cho pháp luật đi vào thực tế cuộc sống, thì một nhiệm vụ quan trọng là phải tổ chức tuyên truyền để cho nhân dân - là người trực tiếp thực hiện pháp luật của nhà nước hiểu và thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Do có cơ sở xã hội rộng lớn, nên Mặt trận có vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân; động viên nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật do Nhà nước ban hành. Nhà nước và Mặt trận đều là thành viên của hệ thống chính trị. Tuy chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động có khác nhau, nhưng đều là các công cụ, các "kênh" để nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ của mình. Nhà nước và Mặt trận đều có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Vì vậy, việc phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước với Mặt trận để thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật là một yêu cầu tất yếu. Mọi chủ trương, chính sách và pháp luật cũng như các hoạt động của nhà nước, nếu nhận được sự tham gia, ủng hộ của Mặt trận sẽ là nhân tố quan trọng để thực hiện thành công. Trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, Đảng ta luôn coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tập hợp, xây dựng phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, trong đó có vai trò giám sát, Nghị quyết Đại hội X của Đảng nêu rõ "Hoạt động của Đảng và Nhà nước phải chịu sự giám sát của nhân dân"[6]. Giám sát bộ máy nhà nước vừa là quyền, vừa là nhiệm vụ quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thực hiện tốt quyền và trách nhiệm này chính là góp phần củng cố và bảo vệ chính quyền nhân dân, củng cố và bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thể hiện tiếng nói của nhân dân, nhân dân thực hiện quyền giám sát trực 9 tiếp hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước, đồng thời, nhân dân còn thông qua Mặt trận và các đoàn thể để thực hiện quyền giám sát của mình. 1.1.2. Vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước 1.1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giám sát nhân dân Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nước ta là dân chủ; bao nhiêu lợi ích đều vì dân; bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra, đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh không nói trực tiếp về quyền giám sát của nhân dân đối với chính quyền. Song, Người đã khẳng định hệ thống chính quyền từ xã đến trung ương đều do dân cử ra, tức là chính quyền của nhân dân, bao gồm những người có đức, có tài được nhân dân cử ra để đại diện cho mình thực thi quyền lực của nhân dân, nếu người đại diện đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi nhiệm. Nhưng để phát hiện được những người đại diện cho mình thực thi quyền lực không còn xứng đáng nữa (không đủ tư cách đại diện) thì nhân dân phải theo dõi hoạt động của họ để xem xét việc bãi nhiệm. Như vậy, thực chất đã là hoạt động giám sát của nhân đối với hoạt động của chính quyền, của cán bộ chính quyền. Từ sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta không chỉ nhấn mạnh nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng chính quyền nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, mà còn nêu rõ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên có nhiệm vụ giám sát và bảo vệ Nhà nước, đó là: "cải cách bộ máy nhà nước còn bao hàm một nội dung quan trọng là tăng cương mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể tham xây dựng, quản lý, giám sát và bảo vệ Nhà nước. Nhà nước dựa vào Mặt trận và các đoàn thể để phát huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân. Đó cũng chính là sức mạnh của bản thân Nhà nước"[2]. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX đều nhấn mạnh nhiệm vụ giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đặc biệt Nghị quyết Đại hội X của Đảng đặt ra yêu cầu cụ thể hơn đó là "Nhà nước ban hành cơ chế để mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội”; "xây dựng Qui chế Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ”, "hoạt động của Đảng và Nhà nước phải chịu sự giám sát của nhân dân" [6]. 10 Như vậy, đến Đại hội X của Đảng thì Đảng ta không chỉ khẳng định nhiệm vụ giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước mà còn giám sát đối với hoạt động của tổ chức, đảng viên trong việc thực hiện chủ trương, đường lối chính sách và quyết định của Đảng, kể công tác tổ chức và cán bộ. 1.1.2.2. Cơ sở pháp lý về vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. - Điều 9 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cư và cán bộ, viên chức nhà nước" [14]. - Điều 12 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định "hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước, nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân”[17]. Thực hiện tốt quyền và trách nhiệm này chính là góp phần củng cố và bảo vệ chính quyền nhân dân, củng cố và bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thể hiện tiếng nói của nhân dân, nhân dân thực hiện quyền giám sát trực tiếp hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước, còn thông qua Mặt trận và các đoàn thể để thực hiện quyền giám sát của mình. Sau Hiến pháp năm 1992, trong nhiều văn bản pháp luật như Luật khiếu nại, tố cáo; Luật phòng, chống tham nhũng; Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và nhiều đạo luật, pháp lệnh khác có liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; đến tổ chức bộ máy nhà nước; đến quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều dành riêng một chương hoặc một điều để quy định về nhiệm vụ giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Như vậy có thể nói Nhà nước đã từng thể chế hoá quyền giám sát của Mặt trận trên nhiều lĩnh vực. 1.2 Khái niệm, mục đích, tính chất giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 1.2.1 Khái niệm giám sát Giám sát là một hoạt động đặc biệt quan trọng của bộ máy nhà nước và cả hệ thống chính trị. Chức năng giám sát của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị của nước ta có thể được hiểu như là một trong những chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong quá trình thực thi quyền lực chính trị của nhân dân; nhằm làm cho các đối tượng chịu sự giám sát thực hiện đúng yêu cầu, mục đích, quy trình, quy định .v.v. mà các chủ thể quyền lực đã đề ra. Như 11 vậy, giám sát không chỉ đơn thuần là một sự quan sát thụ động, mà giám sát là hoạt động mang tính chủ động của tổ chức, con người trong mối quan hệ với đối tượng cần giám sát. Về mặt khái niệm, hiện nay trong nhiều văn bản của Đảng, pháp luật Nhà nước đã sử dụng thuật ngữ giám sát, nhưng giám sát là gì còn nhiều ý kiến khác nhau. Từ điển tiếng Việt năm 1995 của Viện ngôn ngữ học nêu khái niệm “giám sát là theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không?”[33], từ điển tiếng Nga “giám sát là một nhóm hoặc một tổ chức để theo dõi người, việc nào đấy”. Qua việc sử dụng thuật ngữ giám sát trong cuộc sống hàng ngày và những quy định trong các văn bản của Nhà nước, của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, một số nhà khoa học đưa ra khái niệm giám sát như sau: “Giám sát là theo dõi, quan sát hành động mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi vào đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định”. Ở một số nước phương Tây, ví dụ như Anh, Pháp, Mỹ, Đức họ chỉ có một chế định giám sát của công quyền, giám sát theo nghĩa chung là một hoạt động chủ động phòng ngừa, tích cực theo dõi với một sự quan tâm sâu sắc một hoạt động hay một người nào đó vì quyền ích của người đó, hoặc nhằm bảo vệ những quyền ích khác hữu quan. Giám sát không chỉ đơn thuần là sự quan sát một cách thụ động, mà giám sát là sự chủ động của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người trong mối quan hệ với đối tượng giám sát. Trong cuốn Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội X của Đảng Cộng Sản Việt Nam nêu ra như sau: “Giám sát là theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người đối với cá nhân, tổ chức, cộng đồng khác trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, trong việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, các quyền lợi, nghĩa vụ của công dân, của các tổ chức chính trị xã hội và kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý đối với cá nhân, tổ chức có những hành vi sai trái”[7]. Vậy, có thể định nghĩa: "Giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi vào đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh". Qua những khái niệm trên có thể nhận thấy, quá trình thực hiện chức năng giám sát bao gồm ba giai đoạn: giai đoạn xác nhận, tức là xác định trạng thái thực tế của vụ việc; giai đoạn phân tích, tức là đối chiếu tình trạng thực tế đã được đưa ra và đánh giá các sai lệch đã có; giai đoạn soạn thảo các biện pháp nhằm cải 12 thiện và chỉnh sửa quá trình quản lý, đưa ra các biện pháp để thực hiện chúng. Việc phân tích khái niệm sẽ cho ta thấy cơ cấu bên trong của chức năng giám sát, giúp chúng ta làm sáng tỏ một cách sâu sắc hơn nội dung, chức năng giám sát. Tuy cách diễn đạt có thể không đồng nhất, những giám sát đều có một số đặc trưng chủ yếu sau đây: - Giám sát là hành vi của chủ thể biểu hiện qua theo dõi, quan sát, xem xét, nhận định về việc làm của đối tượng bị giám sát. - Giám sát mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục. - Sự tác động qua lại giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát có mối quan hệ pháp lý, gắn với quyền và trách nhiệm của mỗi bên. Đối với việc giám sát bộ máy nhà nước thì giám sát là điều kiện, tiền đề cần thiết của việc củng cố kỷ luật, kỷ cương, pháp chế, trật tự và tính có tổ chức của việc bảo vệ các quyền, tự do của công dân trong quá trình hoạt động của Nhà nước nói chung, của các bộ phận cấu thành nó nói riêng – hoạt động của cơ quan đại diện quyền lực, hoạt động của cơ quan chấp hành - điều hành, hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đời sống xã hội. - Giám sát là một trong những thành phần của sự quản lý có cơ sở khoa học đối với các công việc của Nhà nước và xã hội, đảm bảo cho sự vận hành không bị ngắt đoạn của cơ chế quản lý xã hội. Bản chất của chức năng giám sát với tư cách một bộ phận riêng biệt tương đối của hoạt động quản lý thể hiện ở việc làm sáng tỏ sự phù hợp với hoạt động của cơ quan này hay cơ quan khác, của người này hay người khác với các nhiệm vụ đã được đặt ra đối với các cơ quan và những người đó, của các kết quả tác động của các chủ thể quản lý đối với các khách thể bị quản lý, làm sáng tỏ các sai lệch khỏi các mục đích đã được đặt ra và các phương thức đạt được các mục đích đó, cũng như các nguyên nhân của chúng. - Tạo tiền đề cho sự hiểu biết sâu sắc và cản trở sự hoạt động tối ưu của hệ thống, là chất xúc tác cho việc nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý. Với tư cách là chức năng quản lý xã hội, giám sát là hoạt động tổ chức tích cực mang tính sáng tạo, nội dung, hình thức và phương pháp của nó thường xuyên được hoàn thiện. Ở nước ta có các loại chủ thể cơ bản thực hiện giám sát đối với hoạt động của các cơ quan thực thi quyền lực gồm: Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, tập thể lao động và công dân với tư cách là người riêng biệt. Dựa vào các chủ thể nói trên, có thể phân giám sát thành: giám sát của Nhà nước, giám sát của các tổ chức chính trị, của các tổ chức chính trị xã hội, của các tổ chức xã hội, giám sát của tập thể lao động, giám sát do công dân trực tiếp thực hiện. Giám sát do các cơ quan nhà nước thực hiện đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được gọi là giám sát Nhà nước; giám sát do các tổ chức chính trị, 13 tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội và công dân trực tiếp thực hiện được gọi là giám sát của xã hội hoặc giám sát của nhân dân. Vậy, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không mang tính quyền lực, là giám sát mang tính nhân dân. Mặt trận là nơi thể hiện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vận động nhân dân giám sát, tham gia giám sát hoặc độc lập giám sát theo nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định với cơ chế là “theo dõi, phát hiện, kiến nghị” cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết và giám sát việc giải quyết kiến nghị đó. 1.2.2 Mục đích giám sát Mục đích của giám sát nói chung là xem xét việc làm của đối tượng bị giám sát có đúng với những điều quy định, những định hướng đã đặt ra hay không để từ đó có những biện pháp xử lý nhằm khắc phục những sai sót. Theo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thì hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với mục đích là “hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước nhằm góp phần xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, làm cho bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh,hoạt động ngày càng có hiệu lực, hiệu quả”[17] để quản lý tốt mọi mặt của đời sống xã hội theo pháp luật Nhà nước, thể hiện được quyền lực của nhân dân; bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Cần tránh khuynh hướng lệch lạc cho rằng giám sát chỉ đi tìm những khuyết điểm, sai sót, những việc làm sai trái của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, đại biểu dân cử. 1.2.3 Tính chất của giám sát Về tính chất, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát xã hội, mang tính nhân dân của một tổ chức nhân dân, có tác dụng hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước. Đặc trưng cơ bản của hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước là giám sát không mang tính quyền lực Nhà nước; không có quyền xử lý đối với các cơ quan nhà nước khác hay các cá nhân chịu trách nhiệm. Nó khác về tính chất và phương pháp giám sát so với các cơ quan nhà nước. Bởi lẽ giám sát của các cơ quan nhà nước là mang tính quyền lực Nhà nước, khi các cơ quan nhà nước thực hiện quyền giám sát thì các cơ quan, tổ chức và công dân có trách nhiệm đáp ứng mọi yêu cầu thực hiện nội dung giám sát. Nếu trong quá trình thực hiện giám sát mà phát hiện có vi phạm pháp luật thì cơ quan nhà nước có quyền ra quyết định yêu cầu đối tượng bị giám sát phải chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật (dù đã xảy ra hoặc có thể xảy ra); quyết định đó mang tính bắt buộc, nếu các đối tượng bị giám sát không tuân thủ thì sẽ bị cưỡng chế bằng quyền lực của Nhà nước. 1.3 Đối tƣợng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 14 Theo quy định Hiến pháp năm 1992, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thì đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên bao gồm: giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước; giám sát cán bộ, công chức nhà nước; giám sát đại biểu dân cử. 1.3.1 Hoạt động của cơ quan nhà nước là một phạm trù pháp lý rộng. Hoạt động của mỗi cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Ví dụ, Quốc hội là cơ quan lập pháp duy nhất ở nước ta, tổ chức và hoạt động của Quốc hội do Hiến pháp quy định. Cơ quan hành chính Nhà nước ở nước ta được tổ chức thành một hệ thống hành chính thống nhất từ Trung ương đến cơ sở, do cơ quan quyền lực Nhà nước lập ra và chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước cơ quan đại diện đó, đó là Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Chính phủ có những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định tại Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. 1.3.2 Cán bộ, công chức nhà nước bao gồm: - Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. - Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. - Cán bộ xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. 15 1.3.3 Đại biểu dân cử là những người do dân bầu ra theo nhiệm kỳ, bao gồm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu dân cử do pháp luật quy định. 1.4 Nội dung và hình thức giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 1.4.1 Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước. 1.4.1.1 Nội dung giám sát: Như đã nêu trên, phạm vi nội dung hoạt động của cơ quan nhà nước rất rộng, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chưa quy định cụ thể phạm vi giám sát đến đâu, nhất là giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, thì giám sát những cơ quan nào? thứ hai là, những tổ chức thành viên nào có quyền giám sát ? từ thực tiễn hoạt động và điều kiện của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, nội dung giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước chủ yếu tập trung vào: giám sát việc thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước, tập trung vào những pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, liên quan đến các tầng lớp xã hội do Mặt trận trực tiếp vận động, liên quan đến tổ chức và hoạt động của Uỷ ban Mặt trận và tổ chức thành viên. Tuỳ đặc điểm địa phương và chương trình công tác Mặt trận hàng năm nên xây dựng kế hoạch giám sát việc thực hiện pháp luật, pháp quy của chính quyền địa phương như: giám sát thực hiện Luật đất đai, Luật thuế, Luật nghĩa vụ quân sự, Luật bảo vệ môi trường, các pháp luật về chính sách đối với người có công, chính sách xã hội, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân... 1.4.1.2 . Hình thức giám sát: Theo quy định của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có ba hình thức giám sát như sau: Mặt trận Tổ quốc tham gia với cơ quan quyền lực Nhà nước; Mặt trận Tổ quốc vận động nhân dân giám sát; Mặt trận Tổ quốc tự mình thực hiện quyền giám sát. Giám sát của Mặt trận chủ yếu thông qua những hoạt động sau đây: * Ở Trung ương - Thông qua hoạt động các Hội đồng tư vấn của Mặt trận, để góp ý kiến vào các dự thảo văn bản Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Nghị quyết của cơ quan có thẩm quyền soạn thảo và ban hành (Chính phủ, các Bộ, ngành, của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội). Tham gia với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, với Hội đồng nhân dân hoặc Uỷ ban nhân dân trong các đoàn kiểm tra, giám sát theo chương trình hàng quý, hàng năm, hoặc giám sát, kiểm tra vụ việc nào đó theo quyết định của người đứng đầu cơ quan nhà nước Trung ương, địa phương. Thông qua việc tổ chức các phong trào, các cuộc vận động nhân dân như: phong trào xoá đói giảm nghèo, giúp nhau làm kinh tế, đền ơn đáp nghĩa, dân số kế hoạch hoá gia đình..v..v..Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” mà phát hiện những vi phạm trong việc thực hiện pháp luật. 16 - Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ do pháp luật quy định như: tiếp dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Tham gia giải quyết khiếu nại tố cáo mà phát hiện những vi phạm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của người, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. * Ở địa phương: - Thông qua báo cáo của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân tại các kỳ họp thường lệ của Hội đồng nhân dân, hoặc khi nhận được các thông báo từ phía các cơ quan nhà nước, nhất là việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Khi phát hiện có vi phạm, Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc kiến nghị cơ quan nhà nước xem xét, giải quyết và trả lời những kiến nghị và giám sát việc trả lời kiến nghị đó. - Giám sát thông qua việc cử đại diện của Mặt trận tham gia các Hội đồng hoặc Ban chỉ đạo ở địa phương, đây là hoạt động trực tiếp giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước trên một số công việc cụ thể. Mặt trận có cơ hội góp ý trực tiếp trong quá trình hoạt động của Hội đồng, Ban chỉ đạo. - Giám sát thông qua việc trực tiếp tổ chức, chỉ đạo hoạt động của Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn theo pháp luật Thanh tra và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cấp xã. - Giám sát thông qua theo dõi, nhận xét hoạt động hàng năm của đại biểu dân cử. - Giám sát thông qua việc bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt do Hội đông nhân dân cấp xã bầu theo quy định của pháp luật. - Giám sát thông qua các cơ chế ở các lĩnh vực cụ thể do Chính phủ ban hành như: Giám sát đầu tư tại cộng đồng (theo QĐ số 80/TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng chính phủ); Giám sát cán bộ, công chức ở khu dân cư theo Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chính phủ (số 05/2006/NQLT-CP-UBTWMTTQVN ngày 21/04/2006). Thông qua các hoạt động giám sát nêu trên, điều cốt yếu là Mặt trận tổ quốc góp ý kiến cụ thể vào một hoạt động cụ thể của cơ quan nhà nước để thực hiện tốt chính sách, pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Phát hiện những quy định pháp luật không phù hợp với thực tế, trái Hiến pháp, pháp luật để kiến nghị sửa đổi, bổ sung, đình chỉ thi hành hoặc bãi bỏ một phần hay toàn bộ văn bản đó (điều 81 Luật thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật). Phát hiện cán bộ, công chức vi phạm pháp luật để kiến nghị xử lý. 1.4.2. Giám sát cán bộ, công chức nhà nước 1.4.2.1 Phạm vi của nội dung giám sát cán bộ, công chức nhà nước là công chức làm việc trong các cơ quan hành pháp, tư pháp và lập pháp. Phạm vi nội dung giám sát bao gồm: nghĩa vụ và chức trách của công chức nhà nước; những việc cán bộ, công chức không được làm; phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, công chức. 17 Các nội dung trên được quy định trong Luật Cán bộ - công chức và các văn bản hướng dẫn của Chính phủ, Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí và văn bản pháp luật có liên quan. 1.4.2.2 Hình thức, cơ chế giám sát cán bộ, công chức ở khu dân cư. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát cán bộ, công chức ở khu dân cư được cụ thể hoá ở Nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ và Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (số 05, ngày 21/04/2006) ban hành bằng hình thức Quy chế, trong đó quy định rõ mục đích giám sát, nguyên tắc giám sát, đối tượng giám sát, quyền trách nhiệm của chủ thể giám sát và đối tượng bị giám sát, nội dung giám sát, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức khi trả lời kiến nghị giám sát. Đây là văn bản pháp luật quy định cơ chế cụ thể giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát cán bộ, công chức còn được quy định cụ thể trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn với hình thức lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt do Hội đồng nhân dân cấp xã bầu, đó là Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân do Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã chủ trì tổ chức việc lấy phiếu tín nhiệm. Giám sát cán bộ, công chức theo quy định của Luật phòng chống tham nhũng; Luật thực hành tiệt kiệm, chống lãng phí. 1.4.3 Giám sát hoạt động của đại biểu dân cử 1.4.3.1 Nội dung giám sát Nội dung giám sát hoạt động của đại biểu dân cử, mà trước hết là đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp (Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân) bao gồm: giám sát tiêu chuẩn đại biểu và việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu Hội đồng nhân dân, cụ thể là: - Có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành chính sách pháp luật của Nhà nước, tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật. - Việc tham dự đầy đủ các kỳ họp, các phiên họp của Hội đồng nhân dân, tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng nhân dân. - Việc đại biểu Hội đồng nhân dân phải liên hệ chặt chẽ với cử tri bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri. Thực hiện chế độ, sau mỗi kỳ họp Hội đồng nhân dân, các đại biểu Hội đồng nhân dân phải báo cáo với cử tri về kết quả của kỳ họp, phổ biến và giải thích các nghị quyết của Hội đồng nhân dân, vận động và cùng với nhân dân thực hiện nghị quyết đó. 18 Thực hiện chế độ, ít nhất mỗi năm một lần báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri. - Việc đại biểu Hội đồng nhân dân phải tiếp dân theo lịch đã được phân công. Khi nhận được khiếu nại, tố cáo của công dân, đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết và theo dõi, đôn đốc việc giải quyết đồng thời thông báo cho người khiếu nại, tố cáo biết. 1.4.3.2 Hình thức giám sát Hiện chưa có văn bản pháp luật cụ thể hoá hình thức giám sát của Mặt trận đối với đại biểu dân cử (đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân). Do vậy Mặt trận Tổ quốc một số tỉnh phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp tổ chức hoạt động nhận xét của đại biểu Hội đồng nhân dân theo trách nhiệm và tiêu chuẩn người đại biểu như đã nêu ở phần trên về nội dung giám sát. Cách làm này nhằm góp ý kiến với đại biểu để khắc phục những điểm yếu, thiếu sót trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn người đại biểu nhân dân. Hình thức thứ hai hiện đang thực hiện là giám sát chức danh chủ chốt của Hội đồng nhân dân (Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân) với hình thức bỏ phiếu tín nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã theo quy định tại Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Qua giám sát, nếu thấy đại biểu dân cử nào phạm sai lầm, không còn xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân, thì tuỳ mức độ sai phạm mà Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp có văn bản kiến nghị lên Hội đồng nhân dân cùng cấp, Uỷ ban nhân dân, Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp trên trực tiếp và tổ chức đảng có thẩm quyền quản lý người được lấy phiếu tín nhiệm để xem xét, quyết định theo thẩm quyền. Đối với đại biểu hoạt động xuất sắc thì đề nghị Nhà nước hoặc Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc khen thưởng. Có thể khẳng định rằng: giám sát của Mặt trận Tổ quốc đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước là hình thức giám sát đặc thù ở nước ta; qua thực tiễn kiểm nghiệm đã khẳng định hình thức giám sát này đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực thi quyền lực Nhà nước của nhân dân. 19 Chƣơng 2 THỰC TRẠNG VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI BỘ MÁY NHÀ NƢỚC Với trách nhiệm và quyền hạn của mình đã được quy định trong những văn bản quy phạm pháp luật, trong những năm qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tích cực thực hiện hoạt động giám sát và động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với bộ máy nhà nước, cụ thể là giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước theo quy định của pháp luật như: giám sát thông qua việc lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt do Hội đồng nhân dân bầu; thông qua việc chỉ đạo hoạt động giám sát của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng; thông qua việc tiếp dân và tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; thông qua việc thực hiện quy chế Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động của cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư v..v. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thời gian qua đã đạt được một số kết quả nhất định, có nhiều nguyên nhân trong đó có việc quan trọng là Nhà nước đã từng bước thể chế hóa quan điểm của Đảng về vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhân dân trong các văn bản pháp luật, nhất là đối với cấp cơ sở và đã từng bước đi vào đời sống xã hội. Sau đây là thực trạng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước thông qua những mặt hoạt động sau: 2.1. Hoạt động giám sát trong việc xây dựng bộ máy nhà nƣớc 2.1.1 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát trong công tác bầu cử đại biểu quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Theo quy định của pháp luật về bầu cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quyền và trách nhiệm thực hiện năm nhiệm vụ trong các cuộc bầu cử; trong đó có một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng có tính chất cốt lõi trong tất cả các cuộc bầu cử, đó là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hiệp thương dân chủ để lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, lập danh sách chính thức để cử tri bầu làm đại biểu, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Việc tổ chức hiệp thương, lựa chọn, giới thiệu người ứng cử được thực hiện năm bước theo quy trình cụ thể do Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành bằng nghị quyết liên tịch (đối với bầu cử đại biểu Quốc hội) và do Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chính phủ ra nghị quyết liên tịch (đối với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp), gồm các bước như sau: Trên cơ sở dự kiến của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (bầu cử đại biểu Quốc hội), Thường trực Hội đồng nhân dân các cấp (bầu cử đại biểu Hội đồng 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan