Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng the...

Tài liệu Vai trò của yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của bộ luật dân sự năm 2015

.PDF
116
1
70

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH HOÀNG PHƯƠNG HẰNG VAI TRÒ CỦA YẾU TỐ LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 KHÓA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 7 NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT DÂN SỰ HOÀNG PHƯƠNG HẰNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT HỌC VAI TRÒ CỦA YẾU TỐ LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 NGƯỜI HƯỚNG DẪN: THS. NGUYỄN TẤN HOÀNG HẢI TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 7 NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Tấn Hoàng Hải. Các nội dung không phải của tác giả đều được trích dẫn đầy đủ, rõ ràng. Tác giả xin chịu hoàn toàn trách nhiệm cho bất cứ sai sót nào từ công trình nghiên cứu của mình. Tác giả HOÀNG PHƯƠNG HẰNG DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP Bộ luật dân sự Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP của TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng BTTH Bồi thường thiệt hại BTTHNHĐ Bồi thường thiệt hại ngoại hợp đồng TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao SHTT Sở hữu trí tuệ NXB Nhà xuất bản MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu ...................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 5 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài .............................................. 7 7. Bố cục của đề tài ............................................................................................. 7 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ YẾU TỐ LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG ............................................. 8 1.1. Khái niệm yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự ........................................................................................... 8 1.2. Lịch sử yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ... 12 1.3. Đặc điểm của yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ...................................................................................................................... 16 1.4. Phân loại yếu tố lỗi trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự ................................................................................................................ 20 1.5. Ý nghĩa của yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ...................................................................................................................... 22 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 25 CHƯƠNG 2: VAI TRÒ, BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN YẾU TỐ LỖI TRONG BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ .................................................................................................... 26 2.1. Yếu tố lỗi là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam......................................................................... 26 2.2. Yếu tố lỗi trong việc xác định chủ thể bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự ......................................................................................... 33 2.3. Yếu tố lỗi trong việc xác định mức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự ................................................................................................ 44 2.3.1. Tác động từ lỗi của bên gây thiệt hại tới mức bồi thường .................... 44 2.3.2. Tác động từ lỗi của bên bị thiệt hại tới mức bồi thường ....................... 48 2.3.3. Bên bị thiệt hại có lỗi một phần ........................................................... 50 2.3.4. Bên bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi .......................................................... 55 2.4. Yếu tố lỗi trong việc xác định nghĩa vụ hoàn trả đối với chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự .................................................. 58 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 65 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện nay, cuộc sống của con người ngày càng được hoàn thiện và văn minh hơn, cũng là lúc quyền của con người được Nhà nước đề cao và chú trọng bảo vệ tốt hơn. Trách nhiệm BTTHNHĐ là một trong những chế định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể bị xâm phạm. Tuy nhiên, để chế định BTTHNHĐ được phát huy đúng mục tiêu mà Nhà nước kỳ vọng, có nhiều vấn đề xoay quanh cần được làm rõ và phân tích kỹ hơn, một trong những điểm bất cập cần được nghiên cứu đó là vai trò của yếu tố lỗi trong trách nhiệm này theo quy định của BLDS năm 2015. Có thể thấy, yếu tố lỗi có vai trò rất quan trọng trong trách nhiệm BTTHNHĐ, bởi lẽ lỗi của các chủ thể sẽ phản ánh được ý thức của mỗi người đối với hành vi của mình. Tại BLDS năm 2015 hiện nay, để phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ, yếu tố lỗi không còn là căn cứ bắt buộc phải có. Nhưng không có nghĩa yếu tố lỗi không có giá trị, để xác định chủ thể nào có trách nhiệm BTTHNHĐ hay để định lượng mức bồi thường cụ thể của người gây thiệt hại vẫn phải dựa trên lỗi của họ. Bên cạnh đó, việc đánh giá lỗi của bên gây thiệt hại, bên bị thiệt và các chủ thể khác sẽ giúp chúng ta nhìn nhận rõ ràng hơn chủ thể nào thật sự phải có trách nhiệm đối với phần thiệt hại đã xảy. Tuy nhiên, các quy định của BLDS năm 2015 chỉ dừng lại ghi nhận cần phải xem xét yếu tố lỗi của các chủ thể, mà chưa có những quy định rõ ràng yếu tố lỗi tác động như thế nào đối với các hoạt động buộc một chủ thể chịu trách nhiệm BTTHNHĐ. Bên cạnh đó, một số quy định của BLDS năm 2015 còn tồn tại những điểm bất cập cần được phân tích, đánh giá để có cách hiểu đúng đắn hơn khi áp dụng trên thực tế. Chính những lý do trên dẫn đến sự lúng túng, không thống nhất giữa các Tòa án khi giải quyết vụ việc cụ thể. Vì vậy, tác giả nhận thấy cần thiết phải có những bài nghiên cứu về vấn đề vai trò của yếu tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ theo quy định của BLDS năm 2015. Từ những lý do trên và với mong muốn tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này, tác giả đã chọn đề tài: “Vai trò của yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015”. 1 2. Tình hình nghiên cứu Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, tác giả nhận thấy khía cạnh lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ được nhiều tác giả quan tâm, điển hình như các công trình nghiên cứu sau: 2.1 Nhóm Giáo trình, sách chuyên khảo - Có thể kể đến sách Luật Dân sư Việt Nam (Bình giảng và áp dụng) – trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng– NXB. Công an nhân dân của tác giả Phùng Trung Tập, tại đây tác giả đã bình luận, lý giải và nhận xét hầu hết các quy định trong trách nhiệm BTTHNHĐ, bình luận một số tình huống BTTHNHĐ, trong đó có yếu tố lỗi của người gây thiệt hại, bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi gây ra. Tuy nhiên, tác giả chưa đi phân tích hết các vai trò của yếu tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ theo BLDS năm 2015 mà chỉ nói về bản chất lỗi của các chủ thể. Tại cuốn sách Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam bản án và bình luận bản án (Tập 1) - NXB. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam do tác giả Đỗ Văn Đại làm chủ biên (2016), các tác giả đã phân tích nhiều khía cạnh của yếu tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ, có thể kể đến chuyên đề: tồn tại lỗi của người gây thiệt hại; vai trò lỗi của người bị thiệt hại, ….Với từng chuyên đề, tác giả đã phân tích từ quy định của pháp luật, bình luận bản án đến việc so sánh với pháp luật nước ngoài. Từ đó, cuốn sách đề xuất hướng hoàn thiện với những bất cập. - Đỗ Văn Đại (Chủ biên) (2018), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam - bản án và bình luận bản án (tập 2), NXB. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam, tái bản lần thứ 4: Trong cuốn sách này, tác giả đã nêu lên quan điểm về nhiều nội dung khác nhau, trong đó có việc người của pháp nhân, người làm công, học nghề hoàn trả lại một khoản tiền cho pháp nhân, người dạy nghề. Tại tác phẩm Sách tình huống pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Bình luận án) của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh – NXB. Chính trị quốc gia sự thật, có nhiều bài viết khác nhau về chế định BTTHNHĐ của nhiều tác giả, trong đó có: bình luận về khái niệm yếu tố lỗi; cách phân biệt lỗi và hành vi gây thiệt hại; đồng thời cũng đưa ra kiến nghị đối với quy định yếu tố lỗi ảnh hưởng như thế nào tới mức hoàn trả trong trường hợp BTTHNHĐ do người của pháp nhân gây ra; …. 2 - Nguyễn Văn Hợi (2020), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội: trong cuốn sách, tác giả đã phân tích kỹ càng các quy định BTTH do tài sản như nguồn nguy hiểm cao độ, công trình xây dựng, thú dữ, … gây ra. Thông qua các quy định pháp luật, tác giả đã đánh giá và thể hiện quan điểm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra. Trong đó, nổi bật là kiến nghị của tác giả về việc xác định chủ thể có trách nhiệm BTTHNHĐ khi tài sản gây ra thiệt hại. 2.2 Nhóm khóa luận, luận văn, công trình nghiên cứu khoa học - Hứa Thu Hằng (2014), Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt ngoài hợp đồng, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội: Tại bài nghiên cứu, tác giả đưa ra một cách toàn diện về lỗi với tư cách là một trong bốn yếu tố làm phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ theo BLDS năm 2005, đồng thời đánh giá được những điểm còn bất cập, hạn chế. Đồng thời tác giả cũng đưa ra các vai trò quan trọng của yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, đây là bài viết dựa trên BLDS cũ, đã hết hiệu lực, nên chỉ mang tính tham khảo và so sánh. Tác giả Võ Nguyên Tùng trong tác phẩm Lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng (Luận văn thạc sĩ) đã làm rõ những vấn đề lý luận cốt lõi về lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm BTTHNHĐ và phân tích những vụ án thực tế nhằm khắc những hạn chế còn vướng phải của BLDS năm 2015. Ngoài ra còn có tác phẩm Xác định mức trách nhiệm trong việc liên đới bồi thường thiệt hại theo pháp luật Việt Nam của tác giả Hoàng Anh Khoa, tại đây tác giả đã nghiên cứu chuyên sâu các quy định về việc xác định mức BTTH trong trách nhiệm liên đới bồi thường và đưa ra đề xuất nhằm hoàn thiện việc đánh giá mức độ lỗi. Lê Thúy Hương, Nguyễn Tấn Hoàng Hải (đồng tác giả) (2015), Một số điểm mới cơ bản của quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo bộ luật dân sự 2015, công trình nghiên cứu khoa học, trường Đại học Luật TP.HCM: Trong công trình nghiên cứu, các tác giả đi sâu phân tích cụ thể những điểm mới của BLDS năm 2015 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng so với BLDS năm 2005. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả có cái nhìn rõ ràng hơn trong những trường hợp nào lỗi mới là điều kiện bắt buộc cần có và sự quan trọng của yếu tố này tác động đến việc xác định trách nhiệm thực tế. 3 - Đặng Thị Hồng Tuyến (chủ nhiệm đề tài) (2016), Nghiên cứu so sánh các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật Anh, Đức và Nga, Đề tài khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội: Trong bài viết, các tác giả trình bày nhiều chuyên đề của chế định BTTHNHĐ, qua đó làm rõ, phân tích những điểm tương đồng và khác biệt trong pháp luật về BTTHNHĐ của ba nước: Anh, Đức và Nga. Đây được xem là nguồn tư liệu tham khảo pháp luật nước ngoài tin cậy khi tìm hiểu chế định BTTHNHĐ. - Phạm Kim Anh, Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3/2003. Trong bài nghiên cứu này, tác giả đã đưa ra quan điểm của mình về việc xác định yếu tố lỗi trong pháp luật Hình sự và Dân sự là khác nhau. Đồng thời, tác giả cho rằng yếu tố lỗi phải được xác định theo sự quan tâm của chủ thể, chứ không phải dựa vào yếu tố nhận thức. Nhóm tác giả thấy rằng, đây là một quan điểm hay, nhưng vẫn còn một số vướng mắc. 2.3 Nhóm các bài viết trên báo, tạp chí Phùng Trung Tập (2004), “Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10: Trong bài viết, tác giả đã nêu quan điểm của mình về hành vi có lỗi, bản chất của yếu tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ, phân tích mặt khách quan, chủ quan của yếu tố lỗi. Tuy nhiên, bài viết sử dụng BLDS cũ, do đó không có tính áp dụng cao cho thời điểm hiện tại. Lê Văn Sua (2018), “Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự 2015”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 10: Trong bài viết, tác giả phân tích kỹ các hình thức lỗi được xác định cụ thể như thế nào và tác động đến việc xác định trách nhiệm BTTHNHĐ ra sao. Tài liệu này có ích trong việc xác định hình thức lỗi của các chủ thể. Hoàng Thị Hải Yến (2012), “Bàn về khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7: Tác giả đã đưa quan điểm của mình về yếu tố lỗi theo pháp luật của các nước: Pháp, Đức và Anh và phân tích các yếu tố chủ quan, khách quan của yếu tố này. Đồng thời tác giả đã đưa ra nhận xét về quy định BTTHNHĐ do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo pháp luật dân sự Việt Nam liên quan đến yếu tố lỗi của chủ sở hữu. Tóm lại, có thể thấy hiện nay về vấn đề lỗi, đã có nhiều bài viết phân tích, bình luận, đánh giá quy định pháp luật và nghiên cứu thực tiễn. Tuy nhiên, các công trình 4 nghiên cứu về yếu tố lỗi đã được công bố chủ yếu tập trung phân tích những khía cạnh, đặc điểm, bản chất của yếu tố lỗi hoặc chỉ dừng lại việc đề cập vai trò của yếu tố lỗi khi đang phân tích một quy định cụ thể của chế định BTTHNHĐ theo BLDS năm 2015. Có thể thấy, chưa có bài viết phân tích toàn diện, tổng hợp các vai trò của yếu tố lỗi trong chế định BTTHNHĐ của BLDS năm 2015. Do đó, việc nghiên cứu đề tài: “Vai trò của yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015” sẽ giúp tổng quát được vị trí của yếu tố lỗi trong chế định này, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiến, góp phần kiến nghị hoàn thiện những quy định của pháp luật và khả năng áp dụng vào vụ án thực tế. 3. Mục đích nghiên cứu Làm rõ những vấn đề lý luận của yếu tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ như: khái niệm, lịch sử hình thành, đặc điểm, vai trò, …. Phân tích kỹ càng những vai trò chính của yếu tố lỗi đối với việc xác định trách nhiệm BTTHNHĐ được BLDS 2015 quy định. Bên cạnh đó giải thích những điểm còn gây khó hiểu, gây tranh cãi về vấn đề này. Đồng thời, giải quyết những hạn chế khi áp dụng các quy định về yếu tố lỗi trong các vụ án thực tế. Đề xuất một số kiến nghị chung trong việc hiểu các quy định pháp luật, sửa đổi và bổ sung các quy định về chế định lỗi trong BTTHNHĐ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của BLDS 2015 về vai trò của yếu tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ và thực tiễn giải quyết khi xác định lỗi của các chủ thể khi một vụ việc phát sinh. Về phạm vi nghiên cứu: - Giới hạn pháp luật: Tác giả chỉ nghiên cứu về lỗi của các chủ thể trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự. - Lãnh thổ: Tác giả chỉ nghiên cứu trong phạm vi về vai trò của yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng theo pháp luật Việt Nam. Ngoài ra có để cập đến các pháp luật của nước ngoài với mục đích so sánh và tham khảo. 5 - Thời gian: Chỉ nghiên cứu trong giới hạn của pháp luật Việt Nam từ giai đoạn BLDS năm 2015 có hiệu lực đến nay, mặc dù trong khóa luận có đề cập đến một số văn bản quy phạm pháp luật trước đây nhưng chỉ nhằm mục đích so sánh, đối chiếu. - Giới hạn nội dung: Khóa luận chỉ phân tích chủ yếu bốn vai trò chính của yếu tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ: là căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ, là cơ sở xác định chủ thể có trách nhiệm bồi thường, giúp xác định mức BTTHNHĐ và là tiêu chí để yêu cầu người gây thiệt hại có nghĩa vụ hoàn trả. 5. Phương pháp nghiên cứu Để làm sáng tỏ các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật, bài nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 5.1 Phương pháp liệt kê Phương pháp này sử dụng tại chương 1. Bằng việc chia tách, liệt kê các khái niệm, thuật ngữ pháp lý, các đặc điểm, vai trò để đi sâu hơn vào các chế định pháp luật đang nghiên cứu. 5.2 Phương pháp so sánh Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh trong quá trình đưa ra các quan điểm khác nhau về một vấn đề của các tác giả. Bằng việc so sánh giữa các quan điểm đó, tác giả rút ra, đúc kết một khái niệm chung nhất, đầy đủ nhất. Đây là phương pháp nghiên cứu có tính hệ thống, trong từng vấn đề, tác giả tiến hành so sánh những quy định của pháp luật Việt Nam về chế định lỗi trong BTTHNHĐ với các quy định của pháp luật nước ngoài. Đồng thời, tác giả cũng so sánh BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005 với BLDS năm 2015 để xem xét các điểm mới, phân tích ưu và nhược điểm của BLDS ở từng giai đoạn khác nhau. Theo đó, tác giả phân tích được nét tương đồng và khác biệt; xem xét những bất cập của pháp luật Việt Nam thông qua sự so sánh. Từ đó học hỏi kinh nghiệm và đưa ra hướng hoàn thiện phù hợp với pháp luật hiện hành. 5.3 Phương pháp bình luận, phân tích Đây là phương pháp quan trọng và tác giả sử dụng hầu hết trong bài nghiên cứu. Phương pháp này được tác giả dùng để nghiên cứu các văn bản, tài liệu khác nhau về 6 một chủ đề bằng việc phân tích chúng thành từng bộ phận để hiểu chúng một cách đầy đủ và toàn diện. Bên cạnh đó tác giả cũng dùng phương pháp này để phân tích bản án hoặc vụ việc đã được xét xử trong thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề pháp lý cần nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng nhiều ở mục 2.2, 2.3, 2.4 nhằm bổ sung luận cứ những bất cập của quy định pháp luật đang hiện hữu để tạo sự thuyết phục cho quan điểm của tác giả. 5.4 Phương pháp tổng hợp Sau khi tiến hành phân tích, bình luận bài nghiên cứu sẽ tiến hành tổng hợp của mỗi tiểu mục để tiện theo dõi và khái quát hóa vấn đề. Tác giả tổng hợp những quan điểm, những mặt, những thông tin và những kiến nghị đã thu thập được thành một phần kết luận để tóm tắt, đúc kết những kết quả mà đề tài đạt được. Phương pháp này được sử dụng nhiều trong phần đưa ra kết luận từng chương và kết luận chung của khóa luận. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Với những kết quả nghiên cứu đạt được, khóa luận sẽ là tài liệu tham khảo đáng tin cậy cho các học giả, những người học luật, những người công tác trong lĩnh vực luật. 7. Bố cục của đề tài Ngoài mục lục, phần mở đầu, danh mục viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo và kết luận, khóa luận đề tài “Vai trò của yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015” có kết cấu gồm hai chương: Chương 1: Lý luận chung về yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Chương 2: Vai trò, bất cập và kiến nghị hoàn thiện yếu tố lỗi trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự 7 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ YẾU TỐ LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG BTTHNHĐ là một trong những vấn đề pháp lý lớn và phức tạp. Những sự kiện pháp lý này thường phát sinh trong đời sống xã hội và là một vấn đề cần được giải quyết kịp thời nhằm bảo vệ những quyền, lợi ích chính đáng của những người bị thiệt hại. Để buộc một chủ thể phải chịu trách nhiệm BTTH do hành vi thiệt hại gây ra, yếu tố lỗi luôn được các học giả cân nhắc xem xét. Tuy nhiên, cách hiểu “lỗi” của các chủ thể trong quan hệ này hiện nay còn gây nhiều tranh cãi, các học giả đã có nhiều ý kiến khác nhau khi nghiên cứu về vấn đề này. Vì vậy, trước khi bước vào xác định vai trò của yếu tố lỗi, cần tìm hiểu khái niệm, đặc điểm và những vấn đề lý luận khác xoay quanh yếu tố lỗi trong chế định BTTHNHĐ. 1.1. Khái niệm yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự Hiện nay, với sự phát triển vượt bậc của loài người, trong xã hội đã phát sinh nhiều quan hệ dân sự mới. Nếu như trước đây quan hệ hợp đồng là quan hệ chiếm ưu thế và rất phát triển, thì nay quan hệ BTTHNHĐ cũng được đánh giá là quan trọng. Để tìm hiểu sâu hơn khái niệm lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ, trước tiên cần tìm hiểu thế nào là trách nhiệm BTTHNHĐ? Trách nhiệm BTTHNHĐ là một loại trách nhiệm dân sự. Hay chúng ta hiểu trách nhiệm dân sự BTTHNHĐ là một loại trách nhiệm pháp lý, là nghĩa vụ phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế, áp dụng với người có hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại và phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại1. Theo quan điểm của một tác giả khác thì: “trách nhiệm BTTHNHĐ là trách nhiệm dân sự phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó không có quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi của người gây thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ thi hành hợp đồng đã ký kết”2. Hứa Thu Hằng (2014), Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội, tr.11-12. 2 Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, NXB. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 435. 1 8 Như vậy, có thể thấy trách nhiệm BTTHNHĐ sẽ đặt ra khi quyền, lợi ích hợp pháp của một chủ thể bị xâm phạm bởi hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại mà không dựa trên bất kì sự thỏa thuận nào trước đó của các bên. Bên cạnh đó, trách nhiệm BTTHNHĐ không chỉ bắt nguồn từ hành vi trái pháp luật của con người, mà còn bắt nguồn từ tài sản gây ra. Hiện nay, theo BLDS năm 2015, có ba căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ: (1) thiệt hại thực tế; (2) hành vi trái pháp luật; (3) mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực tế. Tinh thần này được thể hiện rõ tại khoản 1 Điều 584 BLDS năm 2015: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Bàn về yếu tố lỗi, hiện nay trong quan hệ dân sự nói chung, quan hệ BTTHNHĐ nói riêng, các tác giả thừa nhận rằng yếu tố lỗi có vai trò quan trọng trong việc xác định trách nhiệm dân sự. Bởi lẽ, để áp dụng trách nhiệm dân sự thì cần có sự vi phạm nghĩa vụ dân sự của con người, mà gắn với hành vi vi phạm này là trạng thái tâm lý bên trong của họ, biểu hiện rõ nhất trạng thái này là yếu tố lỗi. Tuy nhiên, pháp luật dân sự Việt Nam chỉ dừng lại việc đề cập và phân loại lỗi dựa trên ý chí và lý trí mà chưa đưa ra rõ khái niệm “lỗi” trong trách nhiệm dân sự. Cụ thể tại Điều 364 BLDS năm 2015, yếu tố lỗi được quy định rõ ở hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý: “Lỗi trong trách nhiệm dân sự bao gồm lỗi cố ý, lỗi vô ý. Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”. Đây cũng là quan điểm chung của các nhà làm luật trên thế giới, hiện nay pháp luật của các quốc gia đều không trực tiếp định nghĩa lỗi làm nguyên tắc chung mà tìm cách gián tiếp định nghĩa lỗi trong các điều luật, hoặc thông qua việc nêu một danh 9 sách liệt kê các trường hợp vi phạm riêng biệt hoặc bằng các nêu tiêu chí chung cho lỗi. Điển hình là pháp luật nước Anh, tại đây không định nghĩa khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự, cũng không quy định yếu tố lỗi là một trong các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ. Thay vào đó, pháp luật nước Anh có lồng ghép các nghĩa vụ chứng minh không có lỗi của bên gây thiệt hại vào các trường hợp yêu cầu BTTHNHĐ cụ thể.3 Trong khi đó, yếu tố “lỗi” đã được định nghĩa, phân tích, đánh giá cụ thể trong pháp luật hình sự, là một trong những yếu tố tiên quyết để truy cứu trách nhiệm hình sự. Có thể thấy, không chỉ trong pháp luật hình sự, yếu tố lỗi trong pháp luật dân sự cũng còn nhiều bất cập vướng mắc trong việc xác định và đánh giá trong các vụ việc trên thực tế. Trong các vụ án, các thẩm phán thường xác định căn cứ pháp lý khác nhau trong việc xác định có yếu tố lỗi của con người hay không, từ đó mà có kết quả xét xử không thống nhất. Sự không thống nhất này xuất phát từ chưa có khái niệm rõ ràng về yếu tố “lỗi” trong pháp luật dân sự. Vì vậy, xét thấy cần phải định nghĩa đúng đắn về yếu tố “lỗi” trong trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm BTTHNHĐ nói riêng. Dưới góc độ xã hội thì lỗi là biểu hiện quan hệ của một người với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định chủ quan những quy tắc xử xự chung của xã hội. Dưới góc độ tâm lý học thì lỗi là phản ánh yếu tố tâm lý của con người, là yếu tố nội tâm của con người, diễn biến phức tạp và chi phối trực tiếp hành vi của con người4. Dưới góc độ pháp lý, hiện nay, các tác giả cũng chưa có sự thống nhất quan điểm về khái niệm yếu tố lỗi. Theo quan điểm của một nhà nghiên cứu thì: “Mặc dù BLDS và Nghị quyết số 03 không quy định “lỗi” là gì nhưng thông qua định nghĩa “lỗi cố ý” và “lỗi vô ý” chúng ta có thể thấy một điểm chung là cả hai loại lỗi này đều có “nhận thức” về thiệt hại của người có hành vi gây thiệt hại”5. Như vậy, trong khoa học pháp lý, đa số các tác giả đều nhận định lỗi là trạng thái tâm lý bên trong của con người. Nếu dựa 3 Hoàng Thị Hải Yến (2012), “Bàn về khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng”, Tạp chí Tòa án nhân, Số 7/2012, tr. 31 – 40. 4 Phùng Trung Tập (2009), Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng, NXB. Hà Nội, Hà Nội, tr.77. 5 Đỗ Văn Đại (Chủ biên) (2016), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam bản án và bình luận bản án (Tập 1), NXB. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam. Hà Nội, tr.114. 10 vào quan điểm này thì yếu tố lỗi trong trách nhiệm dân sự cũng được xác định giống với yếu tố lỗi trong trách nhiệm hình sự. Trái ngược với quan điểm trên, tác giả Phạm Kim Anh lại cho rằng: “Luật dân sự không thể coi lỗi là trạng thái tâm lý, là nhận thức của chủ thể đối với hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra”6. Cụ thể, tác giả cho rằng trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự là hai chế định khác nhau, vì vậy không thể xây dựng định nghĩa lỗi trong trách nhiệm dân sự dựa trên có sở định nghĩa lỗi trong trách nhiệm hình sự mà cần phải tách bạch hai khái niệm này. Theo quan điểm này thì “lỗi” được hiểu là “sự quan tâm, chu đáo của chủ thể đối với việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Một cá nhân hay pháp nhân, được coi là không có lỗi nếu khi áp dụng tất cả mọi biện pháp để thực hiện đúng nghĩa vụ đã biểu hiện sự quan tâm chu đáo mà tính chất của nghĩa vụ và điều kiện lưu thông dân sự yêu cầu đối với họ.”7 Để dẫn chứng cho quan điểm trên tác giả Phạm Kim Anh đã đưa ví dụ tại khoản 2 Điều 621 BLDS năm 20058 quy định: “Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lý bệnh viện, các tổ chức khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra”. Và theo đó việc xác định lỗi của bệnh viện hay tổ chức khác trên không thể dựa trên cơ sở trạng thái tâm lý hay sự nhận thức của các tổ chức đối với hành vi gây thiệt hại của người này mà lỗi phải được thể hiện qua sự quan tâm của bệnh viện, tổ chức đối với nghĩa vụ quản lý của họ đối với người mất năng lực hành vi dân sự. Về phía tôi, tôi không đồng tình với quan điểm của tác giả Phạm Kim Anh. Chúng ta nên hiểu yếu tố lỗi trong trách nhiệm dân sự là trạng thái tâm lý và sự nhận thức của một con người cụ thể. Cách định nghĩa yếu tố “lỗi” trong trách nhiệm dân sự vẫn có thể giống với cách xác định của pháp luật hình sự. Bởi lẽ, dù là trách nhiệm dân sự hay trách nhiệm hình sự thì yếu tố lỗi vẫn luôn gắn liền với ý thức của một con người đối với hành vi của mình gây ra dựa trên các quy định pháp luật. Hành vi của một cá nhân là hệ quả của sự biểu lộ tâm lý của người đó trong một hoàn cảnh không gian và thời gian. Do đó, khi xác định lỗi chúng ta dựa trên các tiêu chí chung Phạm Kim Anh (2003), “Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 03 (18), tr.32-36. 7 Phạm Kim Anh, tlđd (6), tr.32-36. 8 Nay là Điều 599 BLDS năm 2015. 6 11 về tâm lý học để xác định được trạng thái tâm lý của con người mà không cần phân biệt yếu tố đó trong hoàn cảnh trách nhiệm dân sự hay trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, trong quan điểm thứ hai của tác giả Phạm Kim Anh, theo tôi “sự quan tâm, chu đáo của chủ thể đối với việc thực hiện nghĩa vụ của mình” cũng là một biểu hiện của yếu tố nội tâm của con người. Mỗi hành vi trái pháp luật của con người khi họ có đủ năng lực hành vi dân sự đều gắn liền với thái độ, tâm lý của họ về hành vi và thiệt hại do hành vi đó gây ra. Vì vậy, chúng ta nên hiểu lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ giống như quan điểm của đa số học giải trong pháp lý: “Lỗi là căn cứ để xác định trách nhiệm dân sự dựa trên trạng thái tâm lý và mức độ nhận thức của một người đối với hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra”. 1.2. Lịch sử yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Ngay từ khi xây dựng những BLDS nổi tiếng đầu tiên trên thế giới, các nhà làm luật đã nhận thấy rằng hành vi trái pháp luật của con người không chỉ do yếu tố bộc phát bên ngoài mà còn xuất phát từ yếu tố nội tâm bên trong của họ. Từ đó, mà yếu tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ đã được đưa vào các quy định pháp luật từ lâu. Vào thời La Mã cổ đại, việc gây thiệt hại về tài sản của cá nhân cũng được pháp luật quy định trách nhiệm cho người có hành vi trái pháp luật gây ra. Trong đó, yếu tố lỗi cũng đã được nhắc đến và làm căn cứ để miễn trách nhiệm bồi thường đối với người đã có hành vi gây thiệt hại. Theo Luật La Mã, lỗi được gọi với cái tên là (Culpa), được phân chia thành lỗi cố ý (dolus) và lỗi vô ý (culpa)9. Bên cạnh đó, yếu tố lỗi vô ý được nhắc nhiều hơn và chủ yếu “lỗi” được coi là một trong những yếu tố để người gây thiệt hại chứng minh mình không có trách nhiệm bồi thường. Có thể thấy yếu tố lỗi đã được chú trọng từ rất sớm không chỉ trong pháp luật thế giới mà còn trong pháp luật Việt Nam. Khi những quy định về trách nhiệm dân sự được hình thành sơ khai tại các thời đại nhà vua, “lỗi” đã được đưa vào như một yếu tố quan trọng xem xét sự “trừng phạt” đối với chủ thể đã gây thiệt hại cho người khác. Một trong những bộ luật điển hình đầu tiên cho pháp luật dân sự Việt Nam là 9 Phạm Kim Anh, tlđd (6), tr.32-36. 12 Bộ luật Hồng Đức (hay còn gọi là Quốc triều hình luật). Bộ luật Hồng Đức có nhiều điểm tiến bộ mà ngày nay vẫn để lại nhiều giá trị cho pháp luật dân sự, trong đó có quy định về lỗi trong BTTHNHĐ. Theo tinh thần của Bộ luật này, người vi phạm sẽ có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ hoặc thậm chí là gấp hai lần nếu họ có lỗi. Ngược lại, nếu người nào gây ra thiệt hại do sự “lầm lỡ”, thiệt hại xảy ra trong trường hợp rủi ro hoặc thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của bên bị thiệt hại, thì người đó có thể được giảm hoặc miễn trách nhiệm bồi thường.10 Tiếp nối tinh thần trên, khi đất nước chúng ta bước sang giai đoạn thống nhất nền độc lập chủ quyền trên cả hai miền Bắc - Nam, cũng là lúc có sự chuyển biến lớn trong khoa học pháp lý, trong đó có chế định dân sự. Ở thời kỳ này, cũng đã có những văn bản hướng dẫn biện pháp giải quyết tranh chấp về BTTH do hành vi trái pháp luật gây ra. Một trong những văn bản đó là Thông tư số 173-UBTP ngày 23 tháng 03 năm 1972 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn xét xử BTTHNHĐ (sau đây gọi tắt là Thông tư số 173-UBTP). Một điểm đánh dấu bước ngoặc tại Thông tư này là xác định yếu tố lỗi như một trong những điều kiện làm phát sinh nghĩa vụ BTTHNHĐ: “Phải có lỗi của người gây thiệt hại. Người gây thiệt hại phải nhận thức hoặc có thể nhận thức được rằng hành vi của mình là trái pháp luật và có thể gây ra thiệt hại cho người khác: cố ý hay vô ý đều là có lỗi”11. Ở văn bản này, yếu tố “lỗi” được đề cập đến là lỗi cố ý và vô ý và dù ở mức độ lỗi nào thì người có hành vi gây thiệt hại phải có nghĩa vụ bồi thường. Việc quy định như vậy đã gây ra sự chồng chéo, đối lập ngay trong các điều, khoản của Thông tư. Có thể thấy rõ nhất, có những trường hợp không có sự tác động về mặt nhận thức hay hành động của con người để có thể đánh giá tâm lý của họ như: “Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra”12, thì việc đánh giá có trách nhiệm bồi thường phát sinh không thể xét đến điều kiện thứ tư về “lỗi”. Không chỉ được đề cập tại Thông tư số 173-UBTP, quan niệm coi yếu tố “lỗi” là một trong những điều kiện để phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ vẫn được giữ qua hai BLDS thời kì đầu của nước ta – BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005. Tiếp thu Phùng Trung Tập (2017), Luật Dân sự Việt Nam (Bình giải và áp dụng) – Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, NXB. Công an nhân dân, tr.21-23. 11 Khoản 4 Mục A Thông tư số 173-UBTP ngày 23 tháng 03 năm 1972 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn xét xử bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. 12 Khoản 4 Mục B Thông tư số 173-UBTP ngày 23 tháng 03 năm 1972 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn xét xử bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. 10 13 tinh thần đã có từ trước, hai bộ luật này đã có quy định giống nhau về nguyên tắc phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ. Đặc biệt, tại quy định này, yếu tố “lỗi” đã được chú trọng khi đưa lên ý đầu tiên của câu, như một điều kiện tiên quyết để phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường”13. Ngoài ra, mức độ và hình thức “lỗi” của người gây thiệt hại cũng được làm rõ tại hai Bộ luật này. Đặc biệt là quy định hình thức lỗi vô ý được sử dụng để giảm mức BTTH: “Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của minh”14. Có thể thấy các quy định về chế định dân sự thời kỳ đầu, các nhà làm luật đã nhận thức được vai trò quan trọng của trạng thái tâm lý của con người khi thực hiện nghĩa vụ pháp luật. Tuy nhiên, sự đánh giá quá cao này đã gây ra nhiều bất cập trên thực tế, trong thực tiễn pháp lý dường như các thẩm phán không có sự phân biệt rõ ràng giữa “hành vi trái pháp luật” và “lỗi”. Theo quan điểm một tác giả, họ cho rằng trên thực tế chưa thấy một bản án nào từ chối yêu cầu BTTH sau khi xác định có “hành vi trái pháp luật”, “thiệt hại”, “quan hệ nhân quả” và thiếu đi điều kiện về “lỗi”. Thường thì Tòa án chỉ quan tâm tới ba yếu tố đầu chứ không phân tích yếu tố thứ tư. Trong một số trường hợp, Tòa án có nhân xét là chủ thể “có lỗi” hay “không có lỗi” nhưng lỗi ở đây đã được hiểu theo hướng của hành vi trái pháp luật, chứ không phải là trạng thái tâm lý, nhận thức của người gây thiệt hại. 15 Tại thời điểm BLDS năm 2005 có hiệu lực đã xuất hiện nhiều vụ việc trách nhiệm BTTH vẫn phát sinh ngay cả khi người gây thiệt hại không có đủ nhận thức về hành vi gây thiệt hại của mình, điển hình như vụ việc sau: Ông Thịnh là công nhân nghỉ mất sức. Từ cuối tháng 8 năm 2006, ông Thịnh có biểu hiện thần kinh không ổn Điều 609 BLDS năm 1995. Khoản 2 Điều 604 BLDS năm 2005. 15 Đỗ Văn Đại, Nguyễn Trương Tín, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: Lý luận, thực tiễn và hướng sửa đổi Bộ luật dân sự”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học về “Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: so sánh pháp luật Việt Nam, Hoa Kỳ và Singapore = Business torts: A comparison of the law of Vietnam, the United States and Singapore, do Khoa Luật Quốc tế Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức ngày 15/5/2012 tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.8. 13 14 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan