®¹i häc quèc gia hµ néi
khoa luËt
t¹ thÞ thu h-êng
vai trß cña d- luËn x· héi
víi viÖc thùc hiÖn ph¸p luËt ë n-íc ta hiÖn nay
Chuyªn ngµnh : LÝ luËn vµ lÞch sö nhµ n-íc vµ ph¸p luËt
M· sè
: 60 38 01
tãm t¾t luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
hµ néi - 2009
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Mục lục
MỞ ĐẦU
Chương 1:
1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DƯ LUẬN
5
XÃ HỘI VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
1.1.
Những vấn đề cơ bản về dư luận xã hội
5
1.1.1.
Các quan niệm khác nhau về dư luận xã hội
5
1.1.2.
Định nghĩa dư luận xã hội
9
1.1.3.
Cơ sở nhận thức và xã hội của dư luận xã hội
12
1.1.3.1. Cơ sở nhận thức của dư luận xã hội
12
1.1.3.2. Cơ sở xã hội của dư luận xã hội
13
Tính chất của dư luận xã hội
14
1.1.4.1. Tính công chúng, công khai
14
1.1.4.2. Tính lợi ích
17
1.1.4.3. Tính lan truyền
18
1.1.4.4. Tính biến đổi
18
1.1.4.5. Tính chỉnh thể
19
1.1.4.
1.1.5.
Quá trình hình thành dư luận xã hội
20
1.1.5.1. Các giai đoạn hình thành dư luận xã hội
20
1.1.5.2. Các yếu tố tác động đến quá trình hình thành dư luận xã hội
22
1.2.
Một số vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật
28
1.2.1.
Khái niệm thực hiện pháp luật
28
1.2.2.
Các hình thức thực hiện pháp luật
30
1.2.3.
Khái niệm và đặc điểm của áp dụng pháp luật
31
1.3.
Vai trò của dư luận xã hội với việc thực hiện pháp luật
40
1.3.1.
Mối quan hệ giữa dư luận xã hội và pháp luật
40
1.3.2.
Vai trò của dư luận xã hội với việc thực hiện pháp luật
44
1.3.2.1. Dư luận xã hội góp phần điều chỉnh các mối quan hệ giữa
con người với con người
44
1.3.2.2. Vai trò giáo dục
47
1.3.2.3. Vai trò đấu tranh phòng chống các biểu hiện tiêu cực xã hội
50
1.3.2.4. Vai trò đánh giá
54
1.3.2.5. Vai trò giám sát, tư vấn
57
Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA DƯ LUẬN XÃ HỘI TRONG VIỆC
61
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
2.1.
Một số nét về tình hình kinh tế - xã hội và tình trạng của
việc thực hiện pháp luật ở nước ta sau 20 năm đổi mới
61
2.1.1.
Một số nét về kinh tế - xã hội của nước ta sau 20 năm đổi mới
61
2.1.2.
Tình trạng việc thực hiện pháp luật ở nước ta sau 20 năm
đổi mới
69
2.2.
Những kết quả đạt được qua việc phát huy vai trò của dư
luận xã hội trong việc thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay
75
2.2.1.
Mở rộng khả năng tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã
hội của đông đảo nhân dân
75
2.2.2.
Nhân dân tham gia tích cực, chủ động vào công tác thanh
tra nhân dân
76
2.2.3.
Nhân dân tích cực tham gia đóng góp ý kiến với Đảng, Nhà
nước về những vấn đề phát triển kinh tế - xã hội thông qua
các cơ quan dân cử
77
2.2.4.
Nhân dân trực tiếp đấu tranh chống tiêu cực thông qua việc
khiếu nại, tố cáo và thông qua các diễn đàn nhân dân, nhất
là bằng các phương tiện thông tin đại chúng
80
2.2.5.
Nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân
81
2.3.
Những hạn chế của dư luận xã hội trong việc thực hiện
pháp luật và nguyên nhân
82
2.3.1.
Về những hạn chế
82
2.3.2.
Nguyên nhân
84
2.3.2.1. Nguyên nhân khách quan
84
2.3.2.2. Nguyên nhân chủ quan
85
2.4.
Một số bài học kinh nghiệm về phát huy vai trò của dư luận
xã hội trong việc thực hiện pháp luật
87
Chương 3:
91
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
DƯ LUẬN XÃ HỘI VỚI VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
3.1.
Nâng cao vai trò của dư luận xã hội đối với việc thực hiện
pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay
91
3.2.
Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của dư luận xã hội với
việc thực hiện pháp luật
94
3.2.1.
Dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội
96
3.2.1.1. Dân chủ hóa một số lĩnh vực cơ bản
98
3.2.1.2. Đổi mới các yếu tố cấu thành hệ thống chính trị và mối
quan hệ giữa các yếu tố đó để phát huy hơn nữa quyền dân
chủ của nhân dân
99
3.2.1.3. Hoàn chỉnh hình thức dân chủ đại diện, mở rộng hình thức
dân chủ trực tiếp nhằm phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay
101
3.2.1.4. Nâng cao tính tích cực về chính trị của dư luận
103
3.2.1.5. Khắc phục bệnh quan liêu của đội ngũ cán bộ, công chức
trong cơ quan nhà nước
103
3.2.2.
Nâng cao vai trò của báo chí và thông tin đại chúng
105
3.2.3.
Nâng cao trình độ văn hóa chính trị của nhân dân
110
3.2.4.
Sử dụng kết quả nghiên cứu dư luận xã hội trong lãnh đạo
và quản lí xã hội
112
3.2.4.1. Sử dụng các cứ liệu điều tra, nắm bắt dư luận xã hội phục
vụ cho quá trình soạn thảo và tổ chức thực hiện các quyết
định của các cơ quan nhà nước trên thực tế
112
3.2.4.2. Sử dụng dư luận xã hội để gây sức ép chống lại các biểu
hiện tham nhũng, quan liêu trong các cơ quan nhà nước
113
3.2.5.
Tạo lập bầu không khí tâm lí xã hội lành mạnh
113
3.2.6.
Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách
114
3.2.7.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
117
KẾT LUẬN
121
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
123
MỞĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩ a Việt Nam của dân, do dân,
vì dân là một đị nh hướng lớn được Đảng khẳng đị nh trong Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX với các giải pháp được đặt ra như kiện toàn tổ chức và hoạt
động của Quốc hội với trọng tâm là tăng cường chức năng lập pháp; xây dựng đội
ngũ cán bộ công chức trong sạch, vững mạnh, có năng lực; cải cách tổ chức và hoạt
động của cơ quan tư pháp; xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc mở rộng
dân chủ, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, bảo đảm cho nhân dân tham gia
tích cực và chủ động trong quản lý xã hội.
Với đị nh hướng xây dựng nền kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền
hiện nay, song song với hình thức dân chủ trực tiếp như trưng cầu dân ý (người dân
bỏ phiếu trực tiếp quyết đị nh về một số vấn đề của đất nước), việc tiếp tục tìm kiếm
những mô hình mới nhằm phát huy vai trò của quần chúng nhân dân và các tổ chức
xã hội thông qua dư luận xã hội đối với quá trình hoạch đị nh và tổ chức thực thi
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đang được đặt ra như một
nhu cầu cấp bách cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Dư luận xã hội là một hiện tượng đặc biệt trong đời sống xã hội. Trên bình
diện chung, nó biểu thị những mối quan tâm, tâm tư, nguyện vọng, được thể hiện
dưới dạng ý kiến phán xét, đánh giá của đông đảo người dân về một hiện tượng,
quá trình, sự kiện nào đó xảy ra trong xã hội. Trong bất kỳ xã hội nào, dư luận xã
hội cũng có những ảnh hưởng nhất đị nh, nhiều khi rất mạnh mẽ đến các quá trình
chính trị - xã hội của đất nước, đến việc lãnh đạo và quản lý người dân.
Để quản lí xã hội, Nhà nước với tư cách là một tổ chức quyền lực chính trị
đặc biệt đã ban hành ra pháp luật. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà
nước ban hành để điều chỉ nh các quan hệ xã hội và đảm bảo thực hiện bằng các
biện pháp cưỡng chế. Để đưa các qui đị nh của pháp luật vào cuộc sống phải kể
đến vai trò của hoạt động thực hiện pháp luật. Thực hiện pháp luật là một kênh
quan trọng để cho những qui phạm pháp luật do nhà nước ban hành được hiện thực
hóa. Song những năm gần đây, dưới tác động của nền kinh tế thị trường đời sống
kinh tế, chính trị , văn hóa tinh thần của người dân có nhiều thay đổi theo cả hai
chiều hướng tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực, chất lượng cuộc sống được nâng
cao hơn trước. Song mặt trái của nó, trong xã hội xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội,
nhiều hiện tượng tiêu cực như: ma túy, mại dâm, cờ bạc, quan liêu, tham nhũng...
Tâm lý chạy theo lợi nhuận phi pháp bất chấp đạo đức; nền kinh tế ngầm của chủ
nghĩ a tư bản; sự cạnh tranh không trung thực bằng cách dựa vào những kẻ có thế
lực để triệt hạ đối thủ... đang là một thực tế. Mặt khác, Nhà nước vẫn chưa có đủ
phương tiện pháp lý để điều tiết thị trường mới hình thành. Tất cả những vấn đề
đó đã dẫn tới hàng loạt những tiêu cực nảy sinh, phát triển như sự phân hóa giàu
nghèo, phân tầng xã hội có xu hướng gia tăng; một số giá trị xã hội bị đảo lộn;
công bằng xã hội bị vi phạm.
Như vậy, cùng với pháp luật, phát huy vai trò của dư luận xã hội trong đấu
tranh chống tiêu cực là yêu cầu khách quan của phát triển kinh tế thị trường đị nh
hướng xã hội chủ nghĩ a. Tuy nhiên trên thực tế, việc nhìn nhận vai trò tích cực
của dư luận xã hội trong việc quản lí nhà nước của các cơ quan, một bộ phận cán
bộ, công chức nhà nước chưa được thỏa đáng, đôi khi còn tỏ ra xem thường, gạt dư
luận xã hội sang một bên. Điều đó, gây ảnh hưởng không tốt tới việc phát huy vai
trò của dư luận xã hội.
Từ những lý do trên, tác giả luận văn mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài:
"Vai trò của dư luận xã hội với việc thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay" nhằm
góp phần bổ sung vào hệ thống lý luận về dư luận xã hội và đánh giá những tác
động của nó trong công tác quản lý xã hội, trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật - nhiệm vụ trọng tâm của xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩ a của dân, do dân, vì dân.
2. Tình hình nghiên cứu
Dư luận xã hội không phải là một đề tài mới mẻ, nó đã được rất nhiều nhà
khoa học, nhà tâm lí xã hội, nhà xã hội học quan tâm, nghiên cứu. Điều đó thể
hiện thông qua một số công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này như:
"Dư luận xã hội trong sự nghiệp đổi mới" của PTS. Lương Khắc Hiếu; "Tác động
của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở" của TS.
Trần Thị Hồng Thúy và ThS. Ngọ Văn Nhân; "Một số vấn đề về công tác tư tưởng
và nghiên cứu dư luận xã hội ở Hà Nội" của tác giả Lưu Minh Trị ; "Dư luận xã
hội" của TS. Bùi Hoài Sơ; "Xã hội học về dư luận xã hội" của tác giả Nguyễn Quý
Thanh; các bài đăng trên tạp chí: "Tâm trạng, dư luận xã hội và những vấn đề đặt
ra đối với công tác tư tưởng của Đảng hiện nay" của Tô Ngọc Quyết, Tạp chí Giáo
dục lý luận, số 9/2004; "Dư luận xã hội và pháp luật" của Nguyễn Văn Luyện,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/2003; "Dư luận xã hội và quyết đị nh của nhà
nước" của Nguyễn Hữu Khiển, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 2/2005...
Song việc nghiên cứu vai trò của dư luận xã hội trong quan hệ với pháp luật
chưa được nhiều tác giả viết đến và đặc biệt đối với việc thực hiện pháp luật thì còn hạn
chế hơn. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ , tác giả luận văn chỉ đề cập đến
một khía cạnh nhỏ, đó là vai trò của dư luận xã hội trong việc thực hiện pháp luật, tức
là sự tham gia của các chủ thể của xã hội vào quá trình thực hiện pháp luật và sự cần
thiết phải nâng cao chất lượng hiệu quả của hoạt động này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là để làm rõ hơn vai trò của dư luận
xã hội với việc hiện thực hóa các qui đị nh của pháp luật vào cuộc sống, đồng thời
nêu ra những giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của dư luận xã hội với việc
thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu một số vấn đề lí luận về dư luận xã hội.
- Phân tích và làm rõ vai trò của dư luận xã hội với việc thực hiện pháp
luật.
- Làm rõ thực trạng của dư luận xã hội trong việc thực hiện pháp luật.
- Nêu ra một số giải pháp nhằm tăng cuờng, phát huy hơn nữa vai trò của
dư luận xã hội với việc thực hiện pháp luật.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩ a Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
Quá trình nghiên cứu đề tài cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp lị ch sử và phương pháp thống kê.
5. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn đã tổng quan được những nội dung cơ bản lý luận về dư luận
xã hội trong việc thực hiện pháp luật.
- Đánh giá được những đóng góp của dư luận xã hội trong việc nâng cao
chất lượng và hiệu quả của việc thực hiện pháp luật.
- Đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của dư luận xã hội với việc
thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về dư luận xã hội và vai trò của dư
luận xã hội đối với việc thực hiện pháp.
Chương 2: Thực trạng của dư luận xã hội trong việc thực hiện pháp luật.
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của dư luận xã hội với
việc thực hiện pháp luật.
Chương 1
MỘT SỐVẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠBẢN
VỀ DƢLUẬN XÃ HỘI VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠBẢN VỀ DƢLUẬN XÃ HỘI
1.1.1. Các quan niệm khác nhau về dƣluận xã hội
Trong đời sống hằng ngày, trên báo chí, tài liệu, chúng ta thường thấy từ
ngữ "dư luận xã hội" hay còn gọi là "công luận" hoặc "dư luận quần chúng". Theo
cách hiểu phổ thông nhất của nhiều nhà nghiên cứu thì đó là một sự việc, một sự
kiện diễn ra trong xã hội, chúng ta không thể dừng lại ở đị nh nghĩ a ấy mà cần
tìm hiểu sâu hơn về bản chất của dư luận xã hội, những đặc điểm cơ bản của nó.
Cho đến nay trong các nhà nghiên cứu về dư luận xã hội ở các nước đã có nhiều
đị nh nghĩ a khác nhau, kể cả trong các nước xã hội chủ nghĩ a. Điều đó có nhiều
nguyên nhân một mặt do bản thân dư luận xã hội là một hiện tượng xã hội phong
phú, năng động, phức tạp, mặt khác do các nhà nghiên cứu ở các thời kỳ lị ch sử
khác nhau tìm hiểu hiện tượng này, ở các góc độ khác nhau, trên các quan điểm
lý luận khác nhau, theo các thế giới quan khác nhau.
Dư luận xã hội có gốc chữ dị ch theo tiếng Anh là Public opinion.
+ Public: công chúng, công khai
+ Opinion: ý kiến, quan điểm
Hiện nay, thuật ngữ trên đã được sử dụng rộng rãi trong công tác nghiên
cứu khoa học cũng như trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên, các nhà khoa học,
những người làm công việc chính trị , lãnh đạo lại có những cách hiểu tương đối
khác nhau về nội hàm của thuật ngữ này. Sự khác biệt xuất phát từ bản chất
phức tạp của dư luận xã hội như một hiện tượng xã hội đặc biệt, năng động và
hàm chứa mâu thuẫn biện chứng giữa cái riêng và cái chung [10].
B.K.Paderin - nhà nghiên cứu dư luận xã hội người Nga, đưa ra một đị nh
nghĩ a như sau:
Dư luận xã hội là tổng thể các ý kiến, trong đó chủ yếu là các ý
kiến thể hiện sự phán xét đánh giá, sự nhận đị nh (bằng lời hoặc không
bằng lời), phản ánh ý nghĩ a của các thực tế, quá trình, hiện tượng, sự
kiện đối với các thể chế, giai cấp xã hội nói chung và thái độ công khai
hoặc che đậy của các nhóm xã hội lớn nhỏ đối với các vấn đề của cuộc
sống xã hội có động chạm đến các lợi ích chung của họ [27, tr. 17].
Còn theo A.K.Ulêđốp - một nhà nghiên cứu dư luận xã hội người Nga
khác, dư luận xã hội là "Sự phán xét thể hiện sự đánh giá và thái độ của mọi người
đối với các hiện tượng của đời sống xã hội".
Các nhà nghiên cứu người Mỹ sử dụng khái niệm tương đồng với dư luận
xã hội là khái niệm "công luận" và cũng nêu ra những đị nh nghĩ a tương tự. Chẳng
hạn, "Công luận là sự phán xét đánh giá của các cộng đồng xã hội đối với các vấn
đề có tầm quan trọng được hình thành sau khi có sự tranh luận công khai"; hoặc
đị nh nghĩ a đơn giản hơn "Công luận là tập hợp ý kiến cá nhân ở bất kỳ nơi đâu
mà chúng ta có thể tìm được" [27].
Các nhà Khai sáng, khi bàn về bản chất của dư luận xã hội, cho rằng:
- Đặc trưng của dư luận xã hội là sự đánh giá xã hội
- Sự đánh giá của xã hội được tiến hành đối với những vấn đề có sự quan
tâm chung.
Rútxô, một đại biểu của các nhà Khai sáng Pháp, cho rằng dư luận xã hội
là sự đánh giá của xã hội về hoạt động của nghị viện hoặc của chính phủ. Trong
tác phẩm "Công ước xã hội", ông viết: các luật lệ của nhà nước cần phải phù hợp
với ý chí của nhân dân. Quyền lực của nhà nước phải được thể hiện phù hợp với
các phán xét của nhân dân. Mọi hội nghị của nhân dân nên đặt ra hai vấn đề:
- Việc duy trì hình thức lãnh đạo hiện đang tồn tại có còn có lợi cho nhân
dân hay không?
- Chính quyền của Nhà nước có còn nằm trong tay những người đang cầm
quyền hay không?
Theo Rútxô, trong các điều kiện như vậy chính phủ luôn nằm dưới sự đe
doạ bị bãi miễn và phải tuân theo những mệnh lệnh của hội nghị nhân dân.
Hêghen, nhà triết học cổ điển Đức, cho rằng bản chất của dư luận xã hội
rất mâu thuẫn. Theo ông, dư luận xã hội là "cái phổ biến, cái cốt tuỷ, cái chân lý"
gắn liền với cái đối lập của nó là các ý kiến có sắc thái "riêng và đặc thù của mọi
người". "Các nguyên tắc về sự công bằng, nội dung và kết quả của toàn bộ hệ
thống nhà nước, hệ thống pháp luật và nội dung của toàn bộ tình trạng các công
việc - được phản ánh trong dư luận xã hội dưới dạng các tư tưởng nhân văn, thông
thái".
Tuy nhiên, Hêghen lại cho rằng, cái đặc thù và cái riêng trong ý kiến của
mọi người bao gồm trong nó toàn bộ tính ngẫu nhiên của dư luận, sự dốt nát, sự
xuyên tạc, sự giả dối, sự lừa phỉ nh của nó.
Theo ông, các nguyên tắc cốt lõi tạo ra cơ sở đạo đức của mọi dư luận là
các thành kiến. Với các luận điểm trên đây, Hêghen muốn khẳng đị nh luận điểm
của mình về bản chất mâu thuẫn của dư luận xã hội, rằng "cơ sở đạo đức" của dư
luận không chỉ là "các thành kiến", "các sai lầm" mà còn là cái chân lý. Tuy
nhiên, ông lại khẳng đị nh rằng cái cốt lõi, cái chân lý trong dư luận xã hội
"không thể nhận thức từ sự biểu hiện của dư luận xã hội". Với quan niệm này,
chính Hêghen đã xa rời phương pháp biện chứng của mình. Ông đã tách nội dung
ra khỏi hình thức, đối lập nội dung và hình thức biểu hiện của dư luận xã hội, phủ
nhận khả năng nhận thức về nội dung bên trong của dư luận xã hội. Từ đó ông đi
đến khẳng đị nh: về mặt nội dung, dư luận xã hội mang tính chủ quan, nó đối lập
với kiến thức và khoa học. Còn thái độ của ông đối với dư luận xã hội là:
Dư luận xã hội đáng được kính trọng và khinh bỉ như nhau.
Đáng bị khinh bỉ nếu xem xét nó từ góc độ ý thức và phát ngôn cụ thể,
đáng được kính trọng nếu xem xét từ góc độ nền tảng bản chất của nó,
cái nền tảng chỉ thâm nhập vào cái cụ thể bằng các tia sáng bị vẩn đục
hoặc nhiều hoặc ít của mình [9].
Các quan niệm của Hêghen về dư luận xã hội trên đây đã để lại dấu ấn
sâu sắc trong xã hội học tư sản và các học giả tư sản về dư luận xã hội. Đặc biệt
là quan điểm coi dư luận xã hội như là sự tập hợp các thành kiến và sai lầm, cũng
như thái độ coi thường của ông đối với biểu hiện trực tiếp của dư luận xã hội, đã
trở thành những giáo điều trong hàng loạt học thuyết tư sản về dư luận xã hội.
Chẳng hạn, trong tác phẩm "Dư luận xã hội" và "Bóng ma công chúng",
W.Lippmann, nhà xã hội học người Mỹ, đã bác bỏ quan điểm cho rằng dường
như nhân dân thể hiện ý chí của mình thông qua dư luận xã hội. Trong tác phẩm
"Triết học xã hội", W.Lippmann vẫn tiếp tục bảo vệ quan điểm của mình và cho
rằng điều tai học đối với nền dân chủ phương Tây là ở chỗ các chính phủ buộc
phải tính toán đến dư luận xã hội và hành động trái với các nhiệm vụ cần thiết.
Bởi vì, theo ông, công chúng "lạc hậu trước các tiến trình của các sự kiện, bảo
thủ và không thể có phán xét đúng đắn về một cái gì, vì vậy công chúng không
nên can thiệp vào hoạt động của chính phủ" [9].
ỞViệt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về dư luận xã hội, trong đó
các tác giả đưa ra những đị nh nghĩ a của mình về dư luận xã hội. Theo trung tâm
nghiên cứu dư luận xã hội thuộc Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: "Dư luận xã
hội là tập hợp các luồng ý kiến cá nhân trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng, có
tính thời sự". Hoặc một đị nh nghĩ a khác: "Dư luận xã hội là sự biểu hiện trạng
thái ý thức xã hội của một cộng đồng người nào đó, là sự phán xét, đánh giá của
đại đa số trong cộng đồng người đối với các sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội
có liên quan đến nhu cầu, lợi ích của họ trong một thời điểm nhất đị nh" [9].
Theo Chung Á, Nguyễn Đình Tấn: "Dư luận xã hội là một hiện tượng xã
hội đặc biệt biểu thị sự phán xét, đánh giá của quần chúng đối với các vấn đề mà
xã hội quan tâm" [1].
Việc đưa ra các quan niệm khác nhau về dư luận xã hội xuất phát từ bản
chất phức tạp của dư luận xã hội, như một hiện tượng đặc biệt, năng động và hàm
chứa giữa cái chung và cái riêng.
1.1.2. Đị nh nghĩ a dƣ luận xã hội
Trong hầu hết các đị nh nghĩ a đều đề cập tới những nội dung chính của
khái niệm dư luận xã hội, bao gồm:
Thứ nhất, dư luận xã hội là tập hợp những ý kiến, quan điểm, thái độ mang
tính chất phán xét đánh giá của nhiều người trước một thực tế xã hội nhất đị nh.
Thứ hai, sự phán xét đánh giá đó chỉ nảy sinh khi trong xã hội có những
vấn đề mang tính thời sự, có liên quan đến lợi ích chung của các nhóm xã hội,
cộng đồng xã hội.
Thứ ba, vấn đề mang tính thời sự đó phải thu hút được sự quan tâm, chú ý
của nhiều người, của đa số các thành viên trong xã hội.
Kết hợp với vai trò, ý nghĩ a thực tiễn của dư luận xã hội, có thể đị nh
nghĩ a dư luận xã hội như sau: Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, quan điểm,
thái độ có tính chất phán xét đánh giá của các nhóm xã hội hay của xã hội nói
chung trước những vấn đề mang tính thời sự, có liên quan tới lợi ích chung, thu
hút được sự quan tâm của nhiều người và được thể hiện trong các nhận đị nh hoặc
hành động thực tiễn của họ.
Để có thể hiểu đúng đắn bản chất của dư luận xã
hội cần xem xét nó dưới nhiều góc độ: hình thức biểu hiện, cơ cấu, đối tượng và
chủ thể.
Xét theo hình thức biểu hiện, có ý kiến cho rằng, dư luận xã hội là sự phán
xét đánh giá của cộng đồng xã hội đối với những sự việc, sự kiện hay hiện tượng
xã hội mà họ quan tâm. Có ba loại phán xét là phán xét mô tả, phán xét chế đị nh
và phán xét đánh giá. Phán xét mô tả là loại phán xét mới chỉ dừng lại ở sự mô tả
các đặc điểm, biểu hiện bên ngoài của sự vật, hiện tượng; do đó nó hầu như chưa
biểu thị ý kiến, thái độ của con người trước sự vật, hiện tượng. Phán xét chế đị nh
là loại phán xét mang tính chất chỉ thị , khuyên răn; thường được thể hiện thành
những khuôn mẫu tư duy, khuôn mẫu hành động (còn gọi là phán xét chuẩn mực).
Phán xét chế đị nh được sử dụng rộng rãi trong các lĩ nh vực đạo đức và pháp luật.
Còn phán xét đánh giá là loại phán xét thể hiện quan điểm, thái độ của chủ thể
trước các sự việc, sự kiện hay hiện tượng xã hội xảy ra. Có tác giả cho rằng "phán
xét của dư luận xã hội thuộc loại phán xét đánh giá".
Nếu coi phán xét của dư luận xã hội chỉ là loại phán xét đánh giá thì sẽ
không bao quát được hết các hình thức biểu hiện của dư luận xã hội. Đồng ý rằng
phán xét đánh giá là biểu hiện chủ yếu của dư luận xã hội. Đồng ý rằng phán xét
đánh giá là biểu hiện chủ yếu của dư luận xã hội vẫn có hình thức biểu hiện là phán
xét chế đị nh và phán xét mô tả. Chẳng hạn, khi coi dư luận xã hội như công luận thì
tính chất của các cuộc trưng cầu ý dân về những vấn đề trọng đại của đất nước mà
Nhà nước tiến hành vẫn có giá trị như là "chuẩn mực pháp luật", khi đó Nhà nước dù
muốn hay không vẫn phải tôn trọng ý kiến của đa số nhân dân, của dư luận xã hội.
Hoặc khi thái độ của các cá nhân trước một sự kiện xã hội còn ở trạng thái lưỡng lự,
băn khoăn (chưa rõ nên đồng tình hay phản đối) thì ý kiến của họ mới chỉ dừng lại ở
mức độ mô tả sự kiện, hiện tượng...
Chính vì vậy, cần phải coi hình thức biểu hiện của dư luận xã hội bao
gồm cả ba loại phán xét: phán xét mô tả, phán xét chế đị nh và phán xét đánh giá,
trong đó phán xét đánh giá là hình thức biểu hiện chủ yếu. Chỉ như thế chúng ta
mới bao quát được hết tất cả các hình thức biểu hiện khác nhau của dư luận xã
hội.
Theo góc độ nhận thức, trong dư luận xã hội có chứa đựng những yếu tố tri
thức, chứa đựng chân lý khách quan, dù đó là chân lý hữu hạn, bởi vì dư luận xã
hội có căn cứ là hiện thực khách quan. Tuy nhiên, không thể đồng nhất dư luận xã
hội với tri thức, với chân lý khách quan. Tri thức trong dư luận xã hội thường ở
dạng hỗn tạp, có đúng đắn và có sai lầm. Con đường tạo ra tri thức khoa học với
con đường tạo ra dư luận xã hội hoàn toàn khác nhau. Để có tri thức khoa học, các
nhà nghiên cứu phải tuân thủ các qui trình nghiên cứu nghiêm ngặt như giả
thuyết, kiểm chứng, kiểm nghiệm... Thông qua các qui trình này, các yếu tố chủ
quan, thiên lệch của giả thuyết bị gạt bỏ, kết quả của quá trình nghiên cứu sẽ là
tri thức khoa học. Con đường tạo ra dư luận xã hội tuy không bắt buộc phải tuân
thủ các qui trình, qui tắc phải có như con đường tạo ra tri thức khoa học, nhưng nó
bị ràng buộc bởi các yếu tố chủ quan như nhu cầu, động cơ, tình cảm, đị nh
kiến..., của chủ thể. Do đó, dư luận xã hội phụ thuộc và mang sắc thái của các
nhân tố chủ quan ấy.
Đối tượng của dư luận xã hội chính là những sự kiện, hiện tượng xã hội hay
quá trình xã hội được phản ánh bởi dư luận xã hội. Đối tượng của dư luận xã hội
không phải là mọi thực tế xã hội nói chung, mà chỉ là những vấn đề, những sự
kiện, hiện tượng xã hội hay quá trình xã hội được cộng đồng xã hội quan tâm tới,
vì nó có liên quan tới các nhu cầu, lợi ích về vật chất hay về tinh thần của họ.
Chỉ những sự kiện, hiện tượng xã hội nào mang tính thời sự, cập nhật trình độ
hiểu biết của công chúng, được công chúng quan tâm tới mới có khả năng trở
thành đối tượng của dư luận xã hội. Như vậy, dư luận xã hội chỉ nảy sinh khi có
những vấn đề có ý nghĩ a xã hội đụng chạm đến lợi ích chung của cộng đồng xã
hội, có tầm quan trọng và có tính cấp bách, đòi hỏi phải có ý kiến phán xét, đánh
giá hoặc cần phải đề xuất phương hướng giải quyết cụ thể. Đó có thể là một vấn
đề kinh tế, chính trị , pháp luật, đạo đức, văn hóa, tư tưởng hay giáo dục...
Chủ thể của dư luận xã hội chính là cộng đồng người hay nhóm người
mang dư luận xã hội. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, chỉ có những luồng ý kiến
phổ biến, ý kiến của đa số mới được gọi là dư luận xã hội, do đó, chỉ có đa số mới
là chủ thể của dư luận xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu khác lại quan niệm rằng, dư
luận xã hội là bất kỳ luồng ý kiến cá nhân giống nhau nào, bất kể đó là ý kiến của
đa số hay thiểu số, suy ra, chủ thể của dư luận xã hội là các cá nhân. Dưới góc độ
lý luận cũng như thực tiễn, quan niệm thứ hai này được nhiều người đồng tình và
ủng hộ. Có thể khẳng đị nh rằng, chủ thể của dư luận xã hội không chỉ là nhóm đa
số mà còn là nhóm thiểu số (một tập thể, một nhóm xã hội, một giai cấp, tầng lớp
xã hội hoặc cả xã hội nói chung). Dư luận xã hội bao gồm mọi luồng ý kiến, luồng
ý kiến của đa số cũng như luồng ý kiến của thiểu số.
1.1.3. Cơ sở nhận thức và xã hội của dƣluận xã hội
1.1.3.1. Cơ sở nhận thức của dư luận xã hội
Dư luận xã hội phụ thuộc trước hết vào mức độ được thông tin, mức độ
hiểu biết của công chúng, chủ thể của dư luận xã hội về vấn đề mà họ quan tâm.
Đối với những vấn đề sự kiện, hiện tượng xã hội đơn giản, quen thuộc, dễ hiểu, ý
kiến của đa số dễ đúng. Đối với những vấn đề phức tạp mới nảy sinh, ý kiến đúng
thường là ý kiến của những người tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin, am hiểu sự
việc chứ chưa phải là ý kiến của đa số, những người chưa đủ thông tin, chưa am
hiểu sự việc.
Khuôn mẫu tư duy xã hội là những quan niệm, suy lý, phán xét, khái quát
về các sự vật, sự kiện, vấn đề của cuộc sống có tính phổ biến và tương đối bền
vững trong cộng đồng. Khuôn mẫu tư duy là cơ sở tạo ra sự thống nhất về nhận thức,
ý chí và hành động rộng rãi trong xã hội. Các quan niệm phức tạp, muốn đi vào
cuộc sống, phải được đơn giản hoá ai cũng có thể hiểu được; nói cách khác, phải
chuyển hoá thành những khuôn mẫu tư duy. Trong tất cả các lĩ nh vực của đời sống
xã hội đâu đâu cũng tồn tại những khuôn mẫu tư duy.
Khuôn mẫu tư duy ngoài chức năng thống nhất nhận thức, ý chí, hành
động, còn có nhiều chức năng quan trọng khác, đặc biệt là chức năng tiết kiệm trí
lực.
Chức năng tiết kiệm trí lực thể hiện trong cuộc sống hàng ngày người ta
phải luôn đối phó với nhiều tình huống. Muốn đối phó nhanh, phải hiểu được tình
huống. Khuôn mẫu tư duy giúp người ta nhanh chóng nắm bắt được tình huống,
không phải tiêu tốn cho việc tìm hiểu bối cảnh.
Mọi đị nh nghĩ a ngắn gọn, phổ cập về sự sống đều có thể được coi là
khuôn mẫu tư duy. Sự tồn tại của các khuôn mẫu tư duy là cực kỳ cần thiết, không
có nó sẽ không thành hành động xac hội. Cái sai chỉ xuất hiện khi con người tuyệt
đối hoá thành các đị nh nghĩ a, các khuôn mẫu tư duy, vẫn bám lấy chúng khi
chúng đã lỗi thời.
Chỉ có các khái quát, phán xét, suy lý phổ biến trong xã hội mới có thể trở
thành khuôn mẫu tư duy xã hội. Dư luận xã hội là phương thức tồn tại của khuôn mẫu
tư duy xã hội. Để chủ động hình thành dư luận xã hội trước hết phải hình thành
khuôn mẫu tư duy xã hội. Khi có khuôn mẫu tư duy xã hội, dư luận xã hội mà chúng
ta muốn sẽ hình thành khi gặp tình huống, bối cảnh tương ứng.
1.1.3.2. Cơ sở xã hội của dư luận xã hội
Các yếu tố xã hội trước hết là lợi ích nhóm, tầng lớp, giai cấp, quốc gia,
dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ với nội dung và sắc thái của dư luận xã hội.
Trong một nhà nước mạnh chính quyền và nhân dân gắn bó với nhau, lợi ích quốc
gia, lợi ích dân tộc thường được coi trọng hơn các lợi ích khác, trước những sự
kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội người ta thường lấy lợi ích quốc gia, lợi ích của
cộng đồng làm cơ sở đưa ra những nhận xét, đánh giá, bày tỏ thái độ của mình.
Trong một nhà nước yếu, dân chủ không được coi trọng, pháp luật, kỷ cương bị
buông lỏng, chủ nghĩ a cá nhân phát triển, người ta thường nhân danh lợi ích của
quốc gia, của cộng đồng để đưa ra ý kiến này, ý kiến kia, nhưng nếu phân tích rõ
thì không phải như vậy, lợi ích cá nhân cục bộ mới chính là động cơ phát ngôn
của họ.
Trong nền kinh tế thị trường, có nhiều lợi ích khác nhau. Về bản chất, các
lợi ích này thống nhất với nhau. Tuy nhiên, ngoài lợi ích cá nhân, đặc thù hợp lý
của các cá nhân, các tầng lớp, giai cấp, nhóm xã hội (các lợi ích gắn liền với lợi
ích quốc gia, lợi ích dân tộc), các cá nhân, các tầng lớp, giai cấp, có thể chạy
theo các lợi ích cá nhân đặc thù, cực đoan có lợi cho mình nhưng lại đi ngược lại
với lợi ích của dân tộc, của cộng đồng nói chung, của các cá nhân, các nhóm xã
hội khác nói riêng.
1.1.4. Tính chất của dƣ luận xã hội
1.1.4.1. Tính công chúng, công khai
Xét từ phương diện thực tế, tính công khai của dư luận xã hội đòi hỏi các
nhóm xã hội phải tiếp cận với thực tế, khả năng sử dụng các phương tiện phổ biến
và trao đổi thông tin nhất đị nh. Trong xã hội hiện đại, các phương tiện này chính
là hệ thống thông tin đại chúng với các loại hình chủ yếu như báo chí, phát thanh,
truyền hình, mạng máy tính... Quyền và khả năng thực tiễn sử dụng các phương
tiện thông tin đại chúng này, sẽ đảm bảo cho các thành viên tham gia đông đảo
vào việc tạo lập luồng dư luận xã hội.
Một yếu tố quan trọng cần thiết để làm sáng tỏ khi xác đị nh chủ thể của dư
luận xã hội là khả năng và sự tham gia trên thực tế của các thành viên nhóm vào các
cuộc tranh luận, trao đổi ý kiến công khai về các vấn đề đang được quan tâm. Không
thể nói rằng bất kỳ cá nhân nào cũng tham gia vào các cuộc tranh luận này và tham
gia vào cùng một thời điểm. Trong mỗi nhóm xã hội luôn tồn tại các cá nhân có
tính tích cực chính trị - xã hội cao. Họ luôn đón vai trò "thủ lĩ nh ý kiến", là đầu
mối quan tâm của các cuộc trao đổi, thảo luận trong nhóm và là người đại diện cho
nhóm tham gia vào các cuộc thảo luận với các nhóm khác. Chính nhờ vào sự tồn
tại của các thủ lĩ nh mà tiếng nói của nhóm này đưa đến nhóm khác và đưa ra
ngoài xã hội và chính các thủ lĩ nh ý kiến này là đầu mối thông tin cho các cuộc
trao đổi thảo luận giữa các nhóm với nhau.
- Đối với đối tượng của dư luận xã hội
Thông tin về các sự kiện, hiện tượng này phải được tìm kiếm thông qua
các con đường chính thức và công khai. Các con đường chính thức này là các
kênh thông tin của nhà nước, chính quyền, các đoàn thể xã hội khác có trách
nhiệm, liên quan đến các vấn đề mà dư luận xã hội quan tâm. Như năm 2006 vừa
qua, dư luận xã hội xôn xao về các thông tin trứng gà, tương ớt hay mỹ phẩm có
chứa chất sudan một chất có khả năng gây ung thư, thì những nguồn tin này cần
phải được kiểm chứng trên cơ sở khoa học.
Con đường thứ hai, để người dân nhận biết về các vấn đề đang diễn ra là
thông tin qua các kênh thông tin đại chúng. Với vai trò là một thiết chế xã hội đảm
bảo thoả mãn các nhu cầu giao tiếp và tìm kiếm thông tin của xã hội, hệ thống
thông tin đại chúng cung cấp các thông tin về tất cả các vấn đề khác nhau của
cuộc sống. Các luồng thông tin này đã trải qua quá trình phi cá nhân hoá và trở
thành sản phẩm thông tin công cộng, được đông đảo người dân đón nhận và sử
dụng nó như nguồn thông tin trong các cuộc tranh luận, trao đổi ý kiến. Chính vì
vậy, ở nơi nào có mật độ tập trung cao các phương tiện thông tin đại chúng như ở
các khu vực đô thị thì nơi đó, dư luận xã hội có điều kiện hình thành và phát
triển tốt hơn.
Tính công khai cũng là đặc điểm cơ bản để phân biệt dư luận xã hội với tin
đồn.
Theo vẻ bề ngoài, dư luận xã hội và tin đồn giống nhau, trước hết ở chỗ cả
hai đều là hiện tượng tâm lý xã hội. Cả hai đều là những kết cấu tinh thần, tâm lý
đặc trưng cho nhóm người nhất đị nh, trong những thời điểm nhất đị nh. Cả hai có
vẻ có chung nguồn gốc: từ một sự kiện ban đầu có liên quan đến nhiều người về
lợi ích, cảm xúc.
Về mặt cơ chế, dư luận xã hội và tin đồn đều có đặc tính lan truyền nhanh
và dễ biến dạng. Chúng xuất phát từ một sự thật nào đó rồi được cấu trúc lại theo qui
luật tâm lý xã hội - bao gồm cả thành phần trí tuệ, cảm xúc, ý chí.
Nhu cầu, lợi ích của cá nhân, nhóm xã hội - giai cấp đều chi phối mạnh
đến sự hình thành tin đồn và dư luận xã hội.
- Xem thêm -