Tuyển chọn chủng Bacillus từ rừng ngập mặn sinh mạnh protease kiềm và bước đầu định hướng ứng dụng
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, giá trị thương mại của các enzyme công
nghiệp trên toàn thế giới đạt khoảng 1 tỷ USD, trong đó chủ yếu là các enzyme
thủy phân (75%), và protease là mô ̣t trong ba nhóm enzyme thủy phân lớn nhất
sử dụng trong công nghiệp (60%) [43].
Protease có thể được thu từ cỏc nhúm sinh vật khác nhau như thực vật,
động vật, vi sinh vật trong đó nguồn enzyme từ vi sinh vật là phong phú nhất.
Động vật và thực vật chỉ có khả năng sinh ra một trong hai loại enzyme
protease là endoprotease hoặc exoprotease, trong khi vi khuẩn có khả năng sinh
ra cả hai loại trên. Do đó, protease của vi khuẩn có phổ ứng dụng rộng, hiệu
suất sử dụng cao, có khả năng phân hủy triệt để các liên kết peptide trong phân
tử protein [66]. Các chủng vi khuẩn có khả năng tổng hợp mạnh protease thuộc
loài Bacillus subtilis, B. mesentericus, B. thermorpoteoliticus và một số loài
thuộc chi Clostridium. Trong đó, B. subtilis có khả năng tổng hợp protease
mạnh nhất. Tuy nhiên, các vi khuẩn đất hoặc vi khuẩn nước ngọt thường tổng
hợp các protease hoa ̣t động thích hợp ở vùng pH trung tính hoặc kiềm yếu và
kém chịu mặn do đó việc ứng dụng còn hạn chế.
Việc nghiên cứu các chủng Bacillus chịu mặn và sinh protease kiềm chưa
được nghiên cứu nhiều. Lần đầu tiên các chủng này được nghiên cứu là vào năm
1968, các chủng ưa kiềm phát triển thuận lợi nhất ở điều kiện pH 9 và có thể ở
pH 10 – 12, chúng không phát triển hoặc phát triển rất kém ở điều kiện pH 6.5
[44]. Những phát hiện ban đầu về những chủng ưa mặn và ưa kiềm trên là vô
cùng quan trọng, đã mở ra các hướng ứng dụng lớn trong nhiều lĩnh vực như sản
xuất như: chất tẩy rửa, thuộc da, y tế, nông nghiệp…
1
Việt Nam có đường bờ biển dài trên 3.000 km và khoảng 3.000 hòn đảo
ven bờ, do vậy các loại hình đất ngập nước ven bờ rất phong phú (như rừng ngập
mặn, bãi triều lầy, vịnh, ven đảo, cửa sông, rạn san hô...) và có tính đa dạng sinh
học cao. Theo báo cáo của Cục Môi trường (Bộ TNMT, 2007), trong tổng số
621.162 ha đất ngập nước (ngập mặn) ven biển của Việt Nam có 209.741 ha
RNM, 226.111 ha nuôi trồng thủy sản và 185.310 ha đất ngập mặn chưa có rừng
(2008) [90], kèm theo đó, nghiên cứu khu hệ vi sinh vật rừng ngập mặn đã và
đang được tiến hành tại bộ môn Công nghệ sinh học, vi sinh, với bộ sưu tập hơn
600 chủng Bacillus phân lập được. Một số nghiên cứu về Bacillus từ RNM đã
được tiến hành nhưng chưa có nghiên cứu mang tính hệ thống về khả năng sinh
protease kiềm của các chủng Bacillus phân lập được từ RNM Việt Nam.
Xuất phát từ tình hình thực tế nghiên cứu và vai trò ứng dụng quan trọng
của protease kiềm chúng tôi chọn đề tài: “Tuyển chọn chủng Bacillus từ rừng
ngập mặn sinh mạnh protease kiềm và bước đầu định hướng ứng dụng ”
Nội dung cụ thể của đề tài gồm:
1. Hoạt hóa lại các chủng Bacillus rừng ngập mặn.
2. Tuyển chọn các chủng Bacillus sinh enzime protease kiềm.
o
Xác định khả năng sinh protease kiềm (pH 9) của các chủng
Bacillus.
o
Tuyển chọn các chủng có hoạt tính protease kiềm đầu dòng.
3. Nghiên cứu đặc tính lý hóa của dịch enzyme thô đã loại bỏ sinh khối: như
ảnh hưởng của pH, nhiệt độ, nồng độ NaCl đến độ bền và hoạt tính của
enzyme.
4. Xác định môi trường thích hợp cho Bacillus sinh protease kiềm.
5. Lên men thu chế phẩm thô, xác định hoạt tính.
6. Bước đầu xác định khả năng tẩy lông của protease trên da bò.
2
PHẦN NỘI DUNG
Chương I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Các enzyme thủy phân protein
Protease thuộc enzyme nhóm 3 (enzyme phân giải) và phân nhóm 3.4
(phân cắt các liên kết peptide). Dựa vào vị trí cắt đứt liên kết trong chuỗi liên
kết peptide, người ta chia protease làm 2 nhóm: Endopeptidase và Exopeptidase
[65]. Protease xúc tác cho sự thủy phân liên kết peptide (-CO-NH 2-) trong
phân tử protein và cơ chất tương tự. Nhiều protease cũng có khả năng thủy phân
liên kết este và vận chuyển axit amin [2].
Hình 1.1. Sơ đồ enzyme protease thủy phân phân tử protein
3
Peptidase (Protease)
(E.C.3.4)
Exopeptidase
(E.C. 3.4.11.17)
Endopeptidase
(E.C. 3.4.21.99)
Serine protease (trypsin,
chymotrypsin, subtilisin)
Aminopeptidase
Cysteine protease
(papain, cathepsin B)
Aspartic protease (pepsin,
chymosin)
Carboxypeptidase
Metallo protease
(themolysin,
carboxypeptidase A)
Hình 1.2. Sơ đồ phân loại protease [65]
1.1.1. Exopeptidase
Exopeptidase chỉ tác dụng ở gần điểm kết thúc của chuỗi polypeptide, tại
đầu N hoặc đầu C. Dựa vào vị trí tác động trên mạch polypeptide, exopeptidase
được phân chia thành hai loại:
a/ Aminopeptidase xúc tác thủy phân liên kết peptide ở đầu N tự do của
chuỗi polypeptide để giải phóng ra một amino acid, một dipeptide hoặc một
tripeptide. Trong quá trình aminopeptidase xúc tác thủy phân liên kết peptide,
4
nếu giải phóng một amino acid gọi là aminopeptidase, giải phóng một dipeptide
được gọi là dipeptidyl-peptidase và giải phóng một tripeptide được gọi là
tripeptidyl-peptidase.
b/ Carboxypeptidase xúc tác thủy phân liên kết peptide ở đầu C của
chuỗi polypeptide và giải phóng ra một amino acid hoặc một dipeptide. Trong
quá trình exopeptidase tác dụng tại đầu C, nếu giải phóng một amino acid gọi là
cacboxyl-peptidase hoặc giải phóng một dipeptide gọi là peptidyl-dipeptidase.
1.1.2. Endopeptidase
Endopeptidase tác động ở vùng bên trong của chuỗi liên kết peptide, cách
xa 2 đầu C và N. Dựa vào cơ chế tác động của endopeptidase, người ta chia
chúng thành 4 nhóm: serine protease, cysteine protease, aspartic protease và
metallo protease.
a/ Serine protease (EC.3.4.21) là nhóm peptidase lớn nhất và được phát
hiện ở mọi giới sinh vật như eukaryote, prokaryote, archaea và virus. Những
enzyme này đều có chung một cơ chế xúc tác phản ứng thủy phân thông qua hai
bước chính [23]:
Bước 1, acyl hóa: hình thành liên kết cộng hóa trị giữa nhóm -OH
của serine với nguyên tử các bon trong nhóm cacboxyl của phân tử cơ chất nhờ
có hỗ trợ của nhóm imidazole từ histidine. Kết quả phản ứng này là tạo ra một
hợp chất trung gian và một ion imidazolium (phản ứng cộng). Hợp chất trung
gian không bền này nhanh chóng bị thủy phân thành một acyl-enzyme, vòng
imidazole và một amin (phản ứng khử).
Bước 2, khử acyl hóa: phức hệ acyl - enzyme bị thủy phân bởi
phân tử H2O theo chiều ngược lại của bước một. Trong đó, nhóm imidazole
chuyển proton của gốc -OH từ serine cho nhúm amin để tái sinh lại enzyme.
5
Serine protease có 1 serine ở trung tâm hoạt động, nhóm này bao gồm hai
nhóm nhỏ: chymotrypsin và subtilisin. Nhóm chymotrypsin bao gồm các
enzyme động vật như chymotrypsin, trypsin, elastase. Nhóm subtilisin bao gồm
hai loại enzyme vi khuẩn như subtilisin Carlsberg, subtilisin BPN.
Serine protease có mặt trong rất nhiều loài của Aspergillus và Bacillus. Các
enzyme này bị ức chế bởi Phenylmethylsulgonyl fluorid (PMSF) hoặc diisopropyl
fluorophosphat (DFP). Phần lớn enzyme này hoạt động tối thích trong khoảng pH
từ 7 – 11 và có trọng lượng phân tử khoảng 20000 – 35000 dalton.
b/ Cysteine protease (EC.3.4.22) có 1 cysteine ở trung tâm hoạt động.
Cysteine protease bao gồm các protease thực vật như papayin, bromelin, một
vài protease động vật và ký sinh trùng và ít thấy ở nấm. Phần lớn các enzyme
này hoạt động tối thích ở pH từ 5 – 8, có tính đặc hiệu cơ chất rộng. Chúng mẫn
cảm với các chất chứa sulphydryl như là P-chloromercuri benzoate.
c/ Aspartic protease (EC.3.4.23) có 2 axit aspartic ở trung tâm hoạt động,
là enzyme quan trọng thứ 2 trong số các protease công nghiệp, sau serine
protease. Chúng chủ yếu là các protease axit với một axit aspartic được coi như
chìa khóa phân giải trong vùng tác động. Enzyme này hoạt động tốt nhất ở
khoảng pH từ 3 – 4, với trọng lượng phân tử từ 30000 – 45000 dalton. Aspartic
protease rất phổ biến ở nấm và không ổn định ở pH 7.0.
d/ Metallo protease (EC.3.4.24) sử dụng ion kim loại trong trung tâm hoạt
động, enzyme này hoạt động tốt nhất ở pH 5 – 9, mẫn cảm với các EDTA nhưng
không bị ảnh hưởng bởi các chất ức chế của serine protease hoặc thuốc thử
sulphydryl. Kẽm, Coban hoặc Canxi, Mangan hoạt hóa trở lại khi bị EDTA làm
bất hoạt [83]. Phần lớn các metallo protease là enzyme có chứa Kẽm và cấu trúc
phân tử protein luôn ổn định bởi sự có mặt của Canxi. Đáng chú ý ở các enzyme
này là phần lớn ưa nhiệt và rất phổ biến ở Bacillus thermoproteolyticus [56].
6
NH2 – CH(R1) – CO – NH - … … - CO – NH – CH(RX) – COOH
Cacboxypeptidase Endopeptidase Aminopeptidase
Exopeptidase
Hình 1.3. Sơ đồ vị trí tác động của enzyme thủy phân trên phân tử protein
Endopeptidase là một trong những thành phần quan trọng nhất của nhóm
enzyme công nghiệp, chiếm khoảng 60% tổng số enzyme đã được sử dụng rộng
rãi [59], [26], [32]. Trong số các loại protease từ vi sinh vật, protease vi khuẩn
là đáng kể nhất. Trong số các vi khuẩn thì Bacillus là sinh vật đặc trưng sinh
protease ngoại bào. Protease có một số đặc điểm rất lý tưởng đối với công nghệ
sinh học, vì vậy chúng trở thành một trong những enzyme quan trọng nhất trong
sản xuất công nghiệp. Những protease này được ứng dụng rộng rãi trong các
nghành công nghiệp như dược phẩm, thuộc da, tẩy rửa, thực phẩm và công
nghiệp xử lý rác thải [80].
1.2. Protease từ vi sinh vật
Protease được tìm thấy ở nhiều nhóm vi sinh vật như động vật nguyên
sinh, vi khuẩn, nấm mốc, nấm men và cả virus. Động vật 8%, thực vật 4%, nấm
mốc và nấm men 50%, vi khuẩn 30%. Protein bị phân giải bởi nhiều vi sinh vật.
Những vi sinh vật này sử dụng cơ chất protein làm nguồn cung cấp nitơ, các
bon và năng lượng cho sinh trưởng và phát triển. Sự phân giải protein được bắt
đầu bởi protease được tiết ra từ vi sinh vật tiếp sau đó là peptidase ở bên trong
hay bên ngoài tế bào. Số lượng và thành phần protease được tiết ra từ vi sinh
vật phụ thuộc vào từng loài, từng chủng vi sinh vật, thậm chí các protese khác
7
nhau cũng có thể được sinh ra từ cùng một chủng dưới các điều kiện nuôi cấy
khác nhau [15].
1.2.1. Protease từ nấm men và nấm mốc
Nấm là nhóm có khả năng tạo ra nhiều loại protease hơn vi khuẩn. Nhiều
loại nấm mốc có khả năng tổng hợp một lượng lớn protease được ứng dụng
trong công nghiệp thực phẩm, ví dụ như: Aspergillus oryzae, Aspergillus
tericola,
Aspergillus
fumigatus,
Penicillium
chryfogenum,…Đặc
biệt
Aspergillus oryzae là loại nấm mốc có khả năng tổng hợp cả 3 loại protease:
protease axit, protease kiềm và protease trung tính. Tỷ lệ cấu tử enzyme có thể
thay đổi tùy thành phần môi trường, ví dụ: Aspergillus oryzae khi nuôi trong
điều kiện bình thường thì sinh tổng hợp chủ yếu protease kiềm, còn khi nuôi
trong môi trường giảm bớt gluxit thì chủ yếu tạo protease axit [2], [41]. Các loại
nấm mốc thuộc chi Rhizopus có khả năng tổng hợp chủ yếu các protease axit có
khả năng thủy phân protein ở pH 2.5-3.0 [2]. Một số nấm khác như Aspergillus
cadidates, Penicillium camberti, Penicillium roqueforti,... cũng có khả năng
tổng hợp protease làm đông tụ sữa, được sử dụng trong làm pho mát.
Bên cạnh đó, nguồn enzyme trong nấm men cũng rất phong phú và đa
dạng, là đối tượng được con người biết đến từ rất sớm. Một số loại nấm men
sinh enzyme như: Candida albicans và Candida tropicalis là những vi sinh vật
khi nhiễm vào cơ thể vật chủ, gây nhiều bệnh cơ hội khi hệ thống miễn dịch của
cơ thể vật chủ bị tổn thương. Enzyme ngoại bào của chúng (aspartic protease)
được xem giống như yếu tố virus [89].
1.2.2. Protease từ xạ khuẩn
Sự tổng hợp protease của xạ khuẩn ít được nghiên cứu hơn vi khuẩn và nấm
mốc. Tuy nhiên người ta đã tìm được 1 số chủng xạ khuẩn có khả năng tổng hợp
protease cao như Streptomyces griceus, S. fradiae, S. rimosus,… [3], [12].
8
Các chế phẩm protease từ xạ khuẩn được biết nhiều là Pronase (Nhật)
được tách chiết từ Streptomyces grieus. Enzyme này có đặc tính đặc hiệu rộng,
có khả năng thủy phân tới 90% liên kết peptide của nhiều protein thành amino
acid. Ở Liờn Xụ (cũ), người ta cũng tách được chế phẩm tương tự từ
Streptomyces grieus có tên là Protelin. Ở Mỹ, chế phẩm được sản xuất có tên là
M-Zim dùng trong sản xuất da. Protease từ Streptomyces fradiae cũng có hoạt
tính elastase cao, do đó chúng được dùng trong công nghiệp chế biến thịt.
1.2.3. Protease từ vi khuẩn
Serine protease là nhóm enzyme được dùng nhiều nhất trong thương mại,
chủ yếu là trung tính và kiềm, được sinh ra từ các vi khuẩn thuộc chi Bacillus,
đại diện của nhóm này là Bacillus subtilis [41]. Ngoài ra các serine protease
cũng được sinh ra từ cỏc nhúm vi khuẩn khác nhau như: Thermus caldophilus,
Aeromonas, Escherichia và 1 số giống thuộc Chlostridium. Các protease trung
tính hoạt động trong giải pH hẹp (từ 5 đến 8) ít bền nhiệt. Sản phẩm phân giải
của các protease này ít bị đắng hơn so với các protease động vật do tốc độ cắt
trung bình, vì thế rất có giá trị trong công nghệ thực phẩm [3]. Các protease
trung tính từ vi khuẩn có tính đặc hiệu cao với mối liên kết giữa hai axit amin
kỵ nước. Nhiệt độ tối ưu thấp rất có lợi cho việc phân giải thức ăn. Một số
metallo protease cần có các ion kim loại cho quá trình hoạt động. Các protease
kiềm của vi khuẩn hoạt động trong môi trường có pH cao, tính đặc hiệu cơ chất
rộng, nhiệt độ hoạt động tối ưu ở 60oC, vì thế rất thích hợp cho công nghiệp
chất tẩy rửa.
1.2.4. Protease từ virus
Protease từ virus có vai trò quan trọng trong quá trình lắp ráp các thành
phần của virus. Chúng có thể là serine protease, aspartic protease, cysteine
protease nhưng không có metallo protease. Tất cả các protease của virus đều là
9
endoprotease. Aspartyl protease của Retrovirus tham gia vào quá trình lắp ráp
hạt virus, tạo ra các đơn vị đồng nhất thể hiện như tiền thân của các protein vỏ.
Ngày nay người ta nghiên cứu rất nhiều về protease của virus, cũng như các
chất ức chế hoạt động của chúng nhằm chữa các bệnh nguy hiểm do virus gây
ra như ung thư và AIDS…
1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự tổng hợp protease của vi sinh vật
1.3.1. Chất cảm ứng sinh tổng hợp enzyme
Những enzyme được tạo thành do tế bào vi sinh vật không chỉ phụ thuộc
vào đặc tính riêng của từng loài vi sinh vật, mà còn phụ thuộc vào thành phần
môi trường và điều kiện nuôi cấy. Những bằng chứng đầu tiên chỉ ra rằng, các
protease ngoại bào có thể là enzyme cảm ứng được tìm thấy trong công trình
nghiên cứu của Castaneda Agullo năm 1956 [28] và sau đó là công bố của một
số tác giả khác.
Theo Drucker, 1972 [31], khi nuôi chủng Neurospora crassa-74A trên
môi trường Vogel chứa huyết thanh bò (BSA) như là nguồn các bon chính trong
việc tạo thành các protease, Ông thấy rằng: nếu chỉ có mình BSA thì bào tử sẽ
không nảy mầm, khi bổ sung 0.1% đường vào canh trường nuôi cấy là rất cần
thiết cho sự phát triển của các bào tử và việc sản xuất protease sẽ bắt đầu vào
giờ thứ 5 hoặc thứ 6 của quá trình nuôi cấy. Nếu nồng độ đường cao (0.5-2%)
sẽ ức chế sự tổng hợp protease.
Theo Wiersma và cs, sự tổng hợp enzyme sẽ bị ức chế khi môi trường
chứa các chất dễ chuyển hóa. Cụ thể là khi nuôi cấy Vibrio SA1 trên môi trường
pepton và môi trường tối thiểu chứa các axit amin thì sẽ tạo thành hai loại
enzyme là endopeptidase và aminopeptidase, nhưng khi nuôi cấy trên môi
trường hỗn hợp glucose, lactate và succinate thì enzyme sẽ bị ức chế. Tuy
nhiên, có một khám phá thú vị, người ta đã xác định được một loại axit amin là
10
phenylalanine, axit amin này đóng vai trò quan trong như là chất cảm ứng trong
quá trình tạo thành protease. Khi bổ sung 2mM phenylalanine vào môi trường
lactate cơ bản thì sẽ cảm ứng tạo thành protease [82].
Vi khuẩn Bacillus subtilis tạo thành protease có hoạt lực cao ở môi
trường có tinh bột. Nếu giảm nồng độ tinh bột từ 8% xuống 2% thì hoạt lực
protease giảm vài lần. Đối với vi khuẩn sinh protease người ta thường dùng
đường đơn hoặc đường đôi trong môi trường dinh dưỡng. Nuôi cấy
Pseudomonas myxogenus trên môi trường glucose có nồng độ từ 1-10% ngường
ta nhận thấy sự sinh tổng hợp protease tăng lên. Mặt khác glucose có tác dụng
ức chế chủng Bacillus larvae sinh protease. Khi thêm vào môi trường nuôi cấy
0.5% glucose, một số chủng Arthrobacter không bị ức chế sinh trưởng nhưng
hoạt lực protease thấp. Ngoài nguồn các bon, nguồn nitơ cũng đóng vai trò là
chất cảm ứng quan trọng. Đối với xạ khuẩn ưa nhiệt Streptomyses vulgeris 42,
pepton là chất cảm ứng tốt nhất. Thay pepton bằng casein hoạt lực protease
giảm 20-30% [12].
Theo Vũ Thị Liên, nhiều xạ khuẩn ưa nhiệt, trong đó có
Micromonospora vulgaris 42, mọc tốt và sinh tổng hợp protease cao ở môi
trường có tinh bột. Tăng nồng độ tinh bột từ 0.25% lên 1.5% thì sinh khối cũng
tăng đồng thời với hiệu suất tổng hợp protease. Nếu tăng nồng độ tinh bột cao
hơn nữa sẽ không thu được kết quả dương tính, tỉ số giữa các bon và nitơ cần
thiết là (4:1). Trên môi trường có maltose (0.5-2%) vi sinh vật phát triển bình
thường nhưng sự tổng hợp protease ngoại bào bị ức chế [8].
Có thể coi việc có chất cảm ứng là điều kiện rất cần thiết để thu được
những enzyme mong muốn. Trong công nghiệp sản xuất enzyme, cần phải lựa
chọn chất cảm ứng thích hợp và xác định nồng độ tối ưu của nó trong môi
trường để có hiệu suất sinh tổng hợp enzyme cao nhất.
11
1.3.2. Nguồn dinh dưỡng
1.3.2.1. Ảnh hưởng của nguồn các bon
Có rất nhiều chất hydratcacbon và các hợp chất khác là nguồn các bon
thích hợp sinh protease có hoạt lực cao. Tinh bột cũng là nguồn các bon tốt để
sinh protease, nhưng hiệu quả này lại phụ thuộc vào các chủng vi sinh vật có
hoạt lực amylase để thủy phân triệt để tinh bột. Vì vậy, nhiều chủng nuôi cấy
trên môi trường có tinh bột cũng cho kết quả như đối với glucose. Trong sản
xuất enzyme protease người ta có thể dùng một số cơ chất tự nhiên làm nguồn
các bon như bột mỳ đen, bột đậu tương, cám mỳ, cỏm ngụ,… Trong môi trường
dinh dưỡng nếu bổ sung mỡ cá voi thì hoạt lực protease có thể tăng 30%. Một
số chủng Penicillium aeruginosa có thể đồng hóa carbohydrate và sinh
protease. Những chủng này có hoạt lực cao trên môi trường có n-parafin với 12,
14 và 16 nguyên tử C, dầu nặng hoặc propilencol. Chúng không những chỉ đồng
hóa được hydrocacbua béo mà còn đồng hóa được cả hydrocacbua thơm [12].
1.3.2.2. Ảnh hưởng của nguồn nitơ
Đối với môi trường nuôi cấy vi sinh vật sinh protease, trong môi
trường cần phải có các chất cảm ứng-nguồn nitơ hữu cơ (bột đậu tương, bột
mì, pepton, protein…). Ngoài các nguồn nitơ hữu cơ, người ta còn bổ sung
vào môi trường nuôi cấy các nguồn nitơ vô cơ như các muối nitrat và amon
thậm chí cả HNO3, HNO2.
Nhiều loại nấm mốc khác nhau như Aspergillus oryzae, A. awmori, A.
niger, A. flavus sinh tổng hợp mạnh protease axit trên môi trường cú cỏc nguồn
nitơ hữu cơ. Trên môi trường Czapeck mà NaNO 3 được thay bằng casein thì
hoạt lực của nấm mốc tăng lên 3.5 lần, còn khi thay tinh bột bằng glucose và bổ
sung pepton, hoạt lực protease tăng lên 6 lần [7]. Nhiều kết quả nghiên cứu cho
thấy, sinh tổng hợp enzyme được nâng cao khi môi trường có cả nguồn nitơ vô
12
cơ và nitơ hữu cơ. Nếu cho thêm vào môi trường cỏm mỡ, bột đậu tương đã
tách chất béo và các nguồn nitơ vô cơ thì hoạt lực protease tăng 22 – 74%. Còn
trường hợp chỉ dựng cỏc nguồn nitơ vô cơ duy nhất thì sẽ dẫn tới ngừng sinh
tổng hợp protease nói chung [12].
Trong quá trình nuôi cấy Bacillus subtilis và B. mesentericus, các chất vô
cơ và hữu cơ được phối hợp trong môi trường sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
sinh tổng hợp protease. Nếu trong môi trường chỉ có nguồn nitơ hữu cơ thì hoạt
lực protease sẽ thấp hơn môi trường đối chứng có (NH 4)2SO4 và nước chiết đậu
tương. Những nguồn protein khác nhau (pepton, albumin, gluten, sừng móng
nghiền nhỏ, bột đậu tương) có ảnh hưởng nhất định đến việc sinh protease của
xạ khuẩn [12].
Các axit amin có ảnh hưởng rõ rệt tới sinh tổng hợp enzyme của vi sinh
vật. Glyxerin, alanin, metionin và lơxin có tác dụng làm tăng hoạt lực protease
của chủng đột biến A. oryzae 251-90 từ 6-9% và chủng nguyên thủy 132-63 tới
7-24%. Một số axit amin như valin, axit glutamic, izolơxin… làm giảm hoạt lực
protease ở A. oryzae 251-290 từ 22-42%. Treonin, izolơxin ức chế tổng hợp ở
Bacillus megaterium 60%. Còn đối với Bacillus subtilis, các axit amin ức chế
trong quá trình tổng hợp protease là glysin, metionin, alanin, lơxin, axit
glutamic…[11].
1.3.2.3. Ảnh hưởng của các nguyên tố khoáng
Ngoài nguồn các bon và nitơ, các nguyên tố khoáng cũng ảnh hưởng rõ
rệt tới quá trình tổng hợp enzyme. Các nguyên tố này bao gồm cả nguyên tố vi
lượng và đa lượng. Các nguyên tố vi lượng thường là Sắt, Kẽm, Đồng, Coban.
Các nguyên tố này có sẵn trong nước hoặc trong các thành phần hữu cơ khác
của môi trường. Các nguyên tố đa lượng đặc biệt là photpho và lưu huỳnh, có
thể được đưa vào môi trường dưới dạng muối vô cơ, cả hai nguyên tố này là
13
thành phần cấu tạo của nhiều chất trong tế bào, nhất là nucleotit, vitamin,
enzyme và protein [4].
1.3.3. Ảnh hưởng của các điều kiện nuôi cấy
1.3.3.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ
Nhiệt độ môi trường có ảnh hưởng sâu sắc không những đối với sự
sinh trưởng của vi sinh vật mà còn đối với sự trao đổi chất của chúng. Đa số
các loài vi khuẩn, sinh trưởng tối thích ở nhiệt độ từ 30-37 oC. Đối với các
loại thuộc giống Bacillus và Clostridium, chúng là các vi khuẩn ưa nhiệt,
sinh trưởng tốt ở nhiệt độ 45-50 oC. Theo Raja et al, khi nuôi cấy chủng vi
khuẩn Pseudomonas aeruginosa K đã chỉ ra rằng: khả năng sinh trưởng và
sản xuất protease trong khoảng từ 37 oC - 45oC với nhiệt độ tối ưu cho việc
tạo thành protease là 37 oC [63].
1.3.3.2. Ảnh hưởng của độ pH
Vi sinh vật sống trong các môi trường sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp và gián
tiếp của các ion H+ và OH-. Nồng độ ion H+ trong môi trường dinh dưỡng có
ảnh hưởng đến sự trao đổi chất và phát triển của vi sinh vật.
Đối với chủng vi khuẩn Pseudomonas aeruginosa K, khi khảo sát trên
môi trường có giá trị pH từ 6.0-10.0 thì thấy rằng, chúng có khả năng thích ứng
và tạo protease trong khoảng pH rộng từ 6.0-9.0 và giá trị pH tối ưu cho việc
sản sinh protease là 7.0 [63].
Giá trị pH của môi trường có ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và sinh tổng
hợp enzyme một cách không giống nhau. Có những giá trị pH mà ở đó vi sinh
vật phát triển bình thường nhưng tạo ra rất ít hoặc không tạo ra enzyme [24].
Một số vi sinh vật có khả năng tự điều chỉnh pH của môi trường. Ví dụ
Bacillus brevis B1 trong môi trường có pH ban đầu là 7.0 sau 16h lên men thì
pH môi trường là 8.5 [61].
14
1.3.3.3. Ảnh hưởng của độ thông khí
Độ thông khí có ảnh hưởng đến quá trình sinh tổng hợp protease. Tuy
nhiên, ảnh hưởng này rất khác nhau tùy chủng vi sinh vật. Tăng độ thông khí
đến một giới hạn xác định thì sự phát triển của vi sinh vật cũng tăng theo. Đối
với nhiều vi sinh vật, sự thông khí sẽ làm tăng tốc độ sinh trưởng, rút ngắn pha
tiềm phát, nâng cao sinh khối. Trong một số trường hợp, thiếu oxi tuy có kìm
hãm sinh trưởng và phát triển nhưng lại làm tăng quá trình tổng hợp protease.
Lượng oxi thích hợp cho các vi sinh vật khác nhau là không giống nhau. Ngay
cả đối với một vi sinh vật nhất định, sự hiếu khí cũng ảnh hưởng khác nhau đến
sự tổng hợp protease khác nhau. Đối với các vi khuẩn hiếu khí, trong quá trình
nuôi cấy, lượng oxi hòa tan là một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng
đến khả năng tổng hợp enzyme [5].
1.3.3.4. Ảnh hưởng của thời gian nuôi cấy
Thời gian nuôi cấy ảnh hưởng lớn đến sự tạo thành enzyme ở vi sinh vật.
một số vi sinh vật, ví dụ như Bacillus subtilis có thể tổng hợp enzyme tốt nhất ở
pha sinh trưởng, một số khác lại tổng hợp enzyme với năng suất cao ở pha cân
bằng hay ở giai đoạn tạo bào tử. Rất nhiều chủng vi sinh vật được phát hiện là
chủng sản sinh enzyme ngoại bào có khả năng tích lũy cực đại sau giai đoạn
phát triển [86].
1.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động enzyme protease
Có nhiều yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến sự hoạt động của enzyme, đó
là: sự thay đổi nồng độ cơ chất, nhiệt độ, độ pH, chất ức chế, chất cảm ứng,…
1.4.1. Ảnh hưởng của nồng độ cơ chất
Enzyme có phản ứng một cách rõ ràng với sự thay đổi của nồng độ cơ
chất. Ở nồng độ cơ chất cực nhỏ, sự tiếp xúc giữa enzyme và cơ chất xảy ra
không thường xuyên, do đó quá trình phản ứng rất chậm. Nếu tăng dần nồng độ
15
cơ chất, lúc đầu tốc độ phản ứng tăng tương ứng với sự tăng của nồng độ cơ
chất do sự tiếp xúc giữa enzyme và cơ chất diễn ra thường xuyên. Khi enzyme
bắt đầu tăng dần, tốc độ phản ứng đạt đến mức cực đại, tại đó, chúng có thể tổ
hợp với chất phản ứng và giải phóng sản phẩm, kết quả là nồng độ cơ chất
giảm. Tại thời điểm tốc độ phản ứng đạt cực đại, tăng thêm nồng độ cơ chất
cũng không làm thay đổi tốc độ phản ứng, khi đó enzyme bão hòa.
1.4.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ
Đa số trường hợp nhiệt độ cao thì hoạt tính của enzyme tăng vì khi tăng
nhiệt độ, sự chuyển động của phân tử enzyme và phân tử cơ chất tăng, do đó sự
va chạm giữa enzyme và cơ chất xảy ra thường xuyên. Tuy nhiên, nếu nhiệt độ
tăng đến ngưỡng nào đó thì hoạt tính của enzyme ở mức thăng bằng, sau đó suy
giảm mạnh. Vì khi nhiệt độ tăng, các nguyên tử của phân tử enzyme thu được
một năng lượng lớn hơn nên có xu hướng chuyển động nhanh hơn. Năng lượng
mà chúng thu được có thể đủ để thắng các tương tác yếu vốn quyết định cấu
trúc của các protein cấu hình, dẫn đến một sự biến đổi hình thể protein và do đó
làm giảm hoạt tính của enzyme [6], [12].
1.4.3. Ảnh hưởng của pH
Sự thay đổi về pH cũng ảnh hưởng đến hoạt tính của enzyme. Mỗi
enzyme có một giải pH thích hợp giúp cho nó giữ vững hình dạng bình thường
trong môi trường mà nó hoạt động. Chế phẩm protease của A. oryzae hoạt động
trong khoảng 5.0 đến 7.5, tốt nhất ở pH 5.5 và bị giảm mạnh ở các giá trị pH từ
8 đến 10 [19]. Protease của B.subtilis hoạt động tốt nhất ở các giá trị pH từ 6.4
đến 7.0 [2]. Tất cả các enzyme đều nhạy cảm với sự thay đổi pH của môi
trường. Có một vùng pH mà hoạt độ của enzyme là cực đại. Vùng pH này là kết
quả của nhiều tham số: nhiệt độ, lực ion, nồng độ cơ chất…nghĩa là những yếu
16
tố bên ngoài, cũng như bản chất của enzyme. Mỗi enzyme có một số gốc axớt
amin tham gia vào liên kết định vị cơ chất, một số khác tham gia vào phản ứng
còn đa số axớt amin dùng để duy trì hình thể của enzyme. Các gốc axớt amin
này cũng như cơ chất trong nhiều trường hợp, rất nhạy cảm với pH và thường
cú cỏc trạng thái ion hóa khác nhau phụ thuộc vào giá trị pH. Ở pH tối ưu,
protein enzyme thường có điện tích tổng cực tiểu. Nói chung pH tối ưu của
enzyme thường gần với điểm đẳng ion của protein [15].
1.4.4. Ảnh hưởng của các chất hoạt hóa và chất ức chế
Các chất hoạt hóa và chất ức chế có thể làm tăng hoặc giảm hoạt động
của enzyme bằng cách gián tiếp hay trực tiếp [2]. Đối với protease từ Bacillus
cereus, Ca2+ là yếu tố cần cho hoạt động của enzyme, tại 60oC khi bổ sung 2
mM Ca2+ thì sẽ làm tăng hoạt tính của enzyme lên 500%. Một số ion kim loại
khác như Mg2+, Mn2+ cũng có tác dụng làm tăng hoạt tính của protease và mức
tăng tương ứng là 285% và 175% tại 60oC. Mặt khác, các ion Zn2+ và Cu2+ lại có
tác dụng kìm hãm sự hoạt động của enzyme [24].
1.5. Vi sinh vật ưa kiềm và chịu kiềm (alkalophilic or alkalotolerant organisms)
1.5.1. Lịch sử nghiên cứu vi sinh vật ưa kiềm (alkaliphilic)
Vi sinh vật ưa kiềm chỉ mới được phát hiện gần đây. Đến năm 1968 mới
chỉ có 16 bài báo khoa học viết về chủ đề này. Nhật Bản là nước đi đầu và có
một quá trình lịch sử lâu dài trong việc nghiên cứu và ừng dụng các vi sinh vật
ưa kiềm. Kể từ thời cổ xưa, màu chàm đã được làm giảm dưới điều kiện hiện
diện của natri carbonat và chỉ được thực hiện bởi các kỹ năng của các nghệ
nhân. Tuy nhiên, điều đó không được tiến hành mãi cho tới những phát hiện
về alkaliphiles của Horikoshi và cs vào năm 1971 [47]. Thời đó alkalphiles
cũn ớt được chú ý và chưa có một ứng dụng công nghiệp nào [48]. Horikoshi
và cs đã đóng góp công sức rất lớn trong việc phân lập, và tuyển chọn một
17
lượng lớn các vi sinh vật ưa kiềm [46]. Hơn hai thập kỷ sau đó Horikoshi và cs
đã tập trung nghiên cứu về các vấn đề như enzyme học, sinh lý học, sinh thái
học, phân loại học, sinh học phân tử và di truyền học của các chủng vi sinh vật
ưa kiềm mới được phân lập này. Không những thế, việc ứng dụng công nghiệp
của các chủng vi sinh vật ưa kiềm cũng đã được áp dụng rộng rãi, một số
emzyme, chẳng hạn như protease kiềm, amylases kiềm và cellulases kiềm, đã
được đưa vào sử dụng trên quy mô công nghiệp. Rõ ràng vi sinh vật ưa kiềm,
trong quá trình tiến hóa của mỡnh đó tích lũy được một lượng lớn thông tin di
truyền nhằm thích nghi vời những điều kiện môi trường có độ kiềm cao.
Nguồn thông tin di truyền chứa trong các gen của các vi sinh vật ưa kiềm là
nguồn thông tin có giá trị, hứa hẹn cho những khám phá thú vị và khai thác có
hiệu quả bởi công nghệ sinh học [48]. Năm 1998, Gronstad và cs đã phát hiện,
phân tích các gen chịu trách nhiệm về tính chịu kiềm của Bacillus halodurans
C-125 và B. firmus OF4 [37], [74]. Gần đây, bộ gen hoàn chỉnh của B.
halodurans C-125 đã được giải trình tự, đó là cơ sở phân tử của vi sinh vật ưa
kiềm trong việc ứng dụng vào công nghệp.
1.5.2. Phân lập và phân loại vi sinh vật ưa kiềm (Alkalophiles)
Vi sinh vật ưa kiềm bao gồm hai nhóm sinh lý chính; vi sinh vật ưa kiềm
và vi sinh vật ưa muối và ưa kiềm. Vi sinh vật ưa kiềm (alkalophiles) đòi hỏi
pH 9.0 hoặc cao hơn cho sự phát triển của chúng và phát triển cực thuận vào
khoảng pH 10. Trong khi đó, vi sinh vật ưa kiềm và ưa muối (haloalkalophiles)
vừa đòi hỏi độ pH cao (> pH 9.0) vừa đòi hỏi độ muối cao (lên tới 33% NaCl).
Vi sinh vật ưa kiềm và ưa muối (haloalkaliphiles) được phân lập chủ yếu
từ môi trường kiềm và nồng độ muối rất cao ví dụ như hồ thung lũng Rift ở
Đông Phi và hồ sô đa ở miền tây Hoa Kỳ [48].
18
1.5.3. Những đặc tính sinh lý đặc biệt của vi sinh vật ưa kiềm (alkaliphiles)
1.5.3.1. pH nội bào
Hầu hết các vi sinh vật ưa kiềm đều sinh trưởng tối ưu tại khoảng pH 10.
Để phát triển trong môi trường khắc nghiệt như vậy, có một số giả thuyết rằng
pH tế bào chất được ước tính từ pH tối ưu của enzyme nội bào. Ví dụ như:
enzyme α-galactosidase từ Micrococcus sp chủng 31-2 có pH tối ưu là 7.5, điều
này gợi ý rằng pH nội bào của chủng này là trung tính. Hơn nữa, các hệ thống
tổng hợp protein của những vi sinh vật tự do ưa kiềm, có pH tối ưu để lắp ghép
các axit amin trong phân tử protein là từ 8.2 đến 8.5, chỉ cao hơn 0.5 đơn vị so
với các vi khuẩn tăng bạch cầu trung tính Bacillus subtilis [47].
1.5.3.2. Thành tế bào [48]
a/ Axit polyme
Thành tế bào đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các tế bào
trong môi trường kiềm. Thành phần của thành tế bào các chủng Bacillus ưa
kiềm đã được nghiên cứu, ngoài thành phần peptidoglycan, các chủng Bacillus
còn bao gồm các polyme axit nhất định như là: axit galacturonic, axit gluconic,
axit glutamic, axit aspartic, and axit phosphoric [20]. Sự biến đổi của những
thành phần không phải peptidoglycan đã làm tăng sự hấp phụ các ion Na + và
hydronium, và đẩy ra ngoài các ion hidroxit. Như vậy, có thể giúp cho tế bào có
thể sống được trong môi trường kiềm.
b/ Peptidoglycan
Peptidoglycan của các Bacillus ưa kiềm tương tự với Bacillus subtilis.
Tuy nhiên, thành tế bào của chúng được đặc trưng bởi sự vượt trội của các
hexosamin và các axit amin trong thành. Một số thành phần như: glucosamin,
axit muramic, D- và L-alanine, axit D-glutamic, axit meso-diaminopimelic và
axit acetic đã được tìm thấy trong thành phần thủy phân của thành tế bào các
19
Bacillus ưa kiềm. Mặc dù có một số biến đổi trong số các peptidoglycan từ các
chủng Bacillus ưa kiềm là tương tự với sự biến đổi trong các mẫu vi khuẩn tăng
bạch cầu trung tính được tìm thấy.
1.5.3.3. Vận chuyển ion Na+ qua màng
Các vi sinh vật ưa kiềm phát triển mạnh mẽ từ pH 9 đến 11 và đòi hỏi
Na+ trong quá trình phát triển [53]. Sự có mặt của ion Na trong môi trường xung
quanh đã được chứng minh là cần thiết cho sự vận chuyển có hiệu quả chất tan
qua màng của các chủng Bacillus ưa kiềm. Theo thuyết hóa thẩm, lực proton
trong các tế bào được sinh ra từ chuỗi vận chuyển electron hoặc sự bài tiết của
H+ bắt nguồn từ sự chuyển hóa ATP của ATPase. Sau đó H+ bám trên những cơ
chất khác nhau đi vào trong tế bào. Trong hệ thống vận chuyển thụ động Na +,
H+ được trao đổi với Na+ bởi hệ thống protein vận chuyển thứ cấp Na +/H+, như
vậy sẽ sinh ra một lực vận chuyển ion Na+ vào trong tế bào [48].
1.5.3.4. Các cơ chế điều chỉnh pH tế bào chất
Các tế bào có hai hàng rào để giảm pH từ 10.5 về 8. Thành tế bào có
chứa các polyme axít có chức năng giảm bớt giá trị pH trên bề mặt tế bào. Bề
mặt màng sinh chất của tế bào được cho là bắt buộc phải có giá trị pH dưới 9.0,
thấp hơn nhiều so với pH tối ưu cho sự sinh trưởng. Bởi vì, màng sinh chất rất
không ổn định ở giá trị pH kiềm (8.5 tới 9.0). Màng sinh chất có thể duy trì
được cơ chế nội cân bằng như vậy vì có hệ thống protein vận chuyển thứ cấp
Na+/H+, K+/H+ và bơm H+ được điều khiển bởi ATPase. Những nghiên cứu gần
đây trên những protein vận chuyển thứ cấp đã làm sáng tỏ một số tính chất đặc
trưng của chúng. Đặc tính của protein vận chuyển thứ cấp là tích cực duy trì cơ
chế nội cân bằng của pH [50], [51], [52], [57]. Hamamoto và cs đã chuyển một
gen được tách từ chủng ưa kiềm có chiều dài 3.7 kb (đoạn pALK) vào B.
20
- Xem thêm -