Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng dân sự...

Tài liệu Trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng dân sự

.PDF
100
292
91

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ THANH HÀ TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Năm 2018 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ THANH HÀ TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN BÍCH THẢO Hà Nội – 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Lê Thị Thanh Hà MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .................................................................... 8 1.1. Khát quát về trợ giúp pháp lý ..................................................................... 8 1.2. Quy định về Trợ giúp viên pháp lý tại một số nƣớc và khái niệm, lịch sử hình thành của Trợ giúp viên pháp lý tại Việt Nam........................................ 14 1.3. Đặc điểm của Trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng dân sự ...................... 21 1.4. Sự cần thiết quy định về sự tham gia của Trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng dân sự ...................................................................................................... 25 1.5. Các điều kiện đảm bảo cho sự tham gia của Trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng dân sự .................................................................................................. 36 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 43 CHƢƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ............................................ 44 2.1. Các nguyên tắc của tố tụng dân sự có liên quan trực tiếp đến Trợ giúp viên pháp lý ..................................................................................................... 44 2.2. Tƣ cách tham gia tố tụng dân sự của Trợ giúp viên pháp lý.................... 45 2.3. Quy định về Trợ giúp viên pháp lý với vai trò là ngƣời đại diện trong tố tụng dân sự ...................................................................................................... 46 CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ ...................... 63 3.1. Thực trạng tham gia tố tụng dân sự của Trợ giúp viên pháp lý ở Việt Nam ......................................................................................................................... 63 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia tố tụng dân sự của Trợ giúp viên pháp lý ..................................................................................................... 78 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 85 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 88 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN TGPL : trợ giúp pháp lý BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự BLDS : Bộ luật Dân sự TTDS : tố tụng dân sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghị quyết của Bộ Chính trị số 48 –NQ/TW ngày 24/05/2005 về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020 đã chỉ rõ “Đẩy mạnh hoạt động trợ giúp pháp lý cho ngƣời nghèo và các đối tƣợng chính sách theo hƣớng xã hội hoá”. Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận “Ngƣời bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sƣ hoặc ngƣời khác bào chữa” (khoản 4 Điều 31 Hiến pháp) và “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử đƣợc bảo đảm” (khoản 5 Điều 103 Hiến pháp). Thế chế hóa những quy định trên, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đảm bảo tranh tụng trong xét xử là một trong những quyền dân sự của công dân đã đƣợc pháp luật xác định thành một nguyên tắc cơ bản trong TTDS. Những ngƣời thuộc diện đƣợc TGPL (ngƣời nghèo, ngƣời khuyết tật, trẻ em….) khi tham gia TTDS với tƣ cách là đƣơng sự có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc nhờ Trợ giúp viên pháp lý bảo vệ (miễn phí). Trợ giúp viên pháp lý là một chức danh trong ngành Tƣ pháp thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nƣớc đối với ngƣời nghèo và đối tƣợng chính sách trên phƣơng diện pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho ngƣời chịu thiệt thòi trong xã hội đƣợc bình đẳng tiếp cận với pháp luật, công bằng trƣớc pháp luật. Trợ giúp viên pháp lý là chức danh nghề nghiệp đặc thù có kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm để tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời thuộc diện đƣợc TGPL, có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động tố tụng, góp phần thực hiện mục tiêu cải cách tƣ pháp, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân và vì dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện 1 nay, đất nƣớc ta đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và hoà mình vào dòng chảy chung của xu thế toàn cầu hoá, vai trò của Trợ giúp viên pháp lý trong các lĩnh vực pháp luật nói chung cũng nhƣ vai trò của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS là không thể thiếu đƣợc trong xã hội và ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Chức danh Trợ giúp viên pháp lý đƣợc thể chế hóa chính thức tại Luật TGPL 2006, và tiếp tục đƣợc ghi nhận tại Luật TGPL (sửa đổi) đƣợc Quốc hội khoá XIV thông qua tại kỳ họp thứ 3 ngày 20/6/2017. Trợ giúp viên pháp lý đƣợc thực hiện đầy đủ các hình thức TGPL, trong đó có tham gia TTDS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời nghèo, đối tƣợng chính sách và ngƣời có hoàn cảnh khó khăn, đồng thời, góp phần nâng cao nhận thức của ngƣời dân về pháp luật. Trong pháp luật tố tụng dân sự, chức danh Trợ giúp viên pháp lý đƣợc ghi nhận lần đầu tiên tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011 với tƣ cách là ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự và đƣợc tiếp tục ghi nhận trong BLTTDS 2015. Trong thời gian gần đây, số lƣợng vụ việc TTDS có sự tham gia của Trợ giúp viên pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự ngày một nhiều hơn. Với sự am hiểu pháp luật, với kinh nghiệm và kỹ năng nghề nghiệp, Trợ giúp viên pháp lý đã góp phần không nhỏ vào việc làm sáng tỏ sự thật khách quan, giúp Tòa án giải quyết đúng đắn các vụ việc dân sự, bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, góp phần bảo vệ pháp chế XHCN. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt đƣợc, hoạt động của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS vẫn còn gặp khó khăn, bất cập nhƣ: một số quy định trong pháp luật TGPL và pháp luật TTDS chƣa tạo điều kiện thuận lợi để Trợ giúp viên pháp lý thực hiện tốt vai trò của mình; nhận thức về vai trò của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS chƣa thống nhất; chất lƣợng đội ngũ Trợ 2 giúp viên pháp lý trong TTDS chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu cải cách tƣ pháp. Xuất phát từ những đòi hỏi của việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam, thực hiện cải cách tƣ pháp và việc đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao về đảm bảo quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, đảm bảo tranh tụng trong TTDS thì việc nghiên cứu đề tài: "Trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng dân sự" là yêu cầu khách quan, cần thiết cả về phƣơng diện lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS, góp phần xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu ở cấp độ luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, đề tài cấp Bộ và một số bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan về Trợ giúp viên pháp lý cho ngƣời nghèo và đối tƣợng chính sách. Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về tổ chức và hoạt động TGPL nói chung, chẳng hạn: Luận án Tiến sĩ “Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới” của Tạ Thị Minh Lý (2013); Luận văn Thạc sĩ "Phát triển trợ giúp pháp lý ở cơ sở" của tác giả Đặng Thị Loan (2009); Luận văn thạc sĩ “Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý” của tác giả Phan Thị Thu Hà (2010); Luận văn Thạc sĩ “Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo” của tác giả Lê Thị Thúy (2012) ; đề tài cấp Bộ: "Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay” và “Luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng Pháp lệnh trợ giúp pháp lý” (2004) do Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tƣ pháp chủ trì thực hiện, Chủ nhiệm Đề tài: Tạ Thị Minh Lý, đề tài cấp Bộ: “Luận cứ khoa học và thực tiễn sửa đổi, bổ sung Luật Trợ giúp pháp lý” (2016), do Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tƣ pháp chủ trì thực hiện, Chủ nhiệm Đề tài: 3 Nguyễn Thị Minh. Thứ hai, các công trình nghiên cứu về ngƣời thực hiện TGPL, trong đó có Trợ giúp viên pháp lý, chẳng hạn: Luận văn Thạc sĩ: “Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện TGPL ở Việt Nam” của tác giả Vũ Hồng Tuyến (2004); Luận văn Thạc sĩ: “Hoàn thiện chế định về người thực hiện TGPL ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Trần Văn Tùy (2014), bài viết “Cần tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ người thực hiện TGPL” của Đỗ Xuân Lân, Phạm Thị Bích Ngọc, Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Số chuyên đề 11/2008. Tuy nhiên, các công trình này nghiên cứu về ngƣời thực hiện TGPL nói chung, chứ không đi sâu vào vấn đề Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS. Thứ ba, các công trình nghiên cứu về TGPL trong hoạt động tố tụng, chẳng hạn, một số bài viết trên các tạp chí khoa học pháp lý có liên quan đến Trợ giúp viên pháp lý nhƣ: “Vai trò của Trợ giúp viên pháp lý trong hoạt động tố tụng” của Nguyễn Thị Minh và Trịnh Thị Thanh, Số chuyên đề tháng 6/2014 về “TGPL trong hoạt động tố tụng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật; “Tham gia hoạt động tố tụng của Trợ giúp viên pháp lý” của Nguyễn Minh Chánh, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Số 9/2015, “Công tác phối hợp về TGPL trong hoạt động tố tụng của ngành tòa án” của Nguyễn Hải An, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Số chuyên đề tháng 6/2014.; Nhƣ vậy, về vấn đề Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS, đến nay chƣa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về lý luận và thực tiễn, đặc biệt chƣa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề này trên cơ sở quy định mới của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Vì vậy, với đề tài " Trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng dân sự", tác giả Luận văn sẽ đi sâu phân tích làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan cả về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần tìm ra giải pháp khoa học nâng cao 4 hiệu quả hoạt động của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS để ngƣời nghèo, ngƣời dân tộc, ngƣời đƣợc hƣởng chính sách ƣu đãi và ngƣời có hoàn cảnh đặc biệt khác khi tham gia TTDS đƣợc TGPL khi có yêu cầu. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn a. Mục đích nghiên cứu luận văn: Luận văn tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia TTDS của Trợ giúp viên pháp lý trong thời gian tới. b. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Hệ thống hoá, phân tích, khái quát làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực trạng quy định pháp luật về sự tham gia của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS. - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS trong thời gian qua, phát hiện những hạn chế, khó khăn, vƣớng mắc, bất cập và nguyên nhân để có giải pháp hoàn thiện. - Đề xuất, luận chứng các quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS ở Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật TGPL và pháp luật TTDS Việt Nam về Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS. Hiện nay, ngoài chế định TGPL đƣợc quy định ở Luật TGPL thì thuật ngữ TGPL cũng đƣợc sử dụng tại Luật Luật sƣ nhƣ là một nghĩa vụ xã hội của luật sƣ và còn có một số hình thức tƣơng tự, chẳng hạn “án chỉ định” và “pro bono” là 5 thực hiện TGPL tự nguyện của luật sƣ. Tuy nhiên, trong phạm vi của luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về TGPL với tƣ cách là hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí của tổ chức thực hiện TGPL nhà nƣớc để làm nổi bật vai trò của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS. - Nghiên cứu quy định của một số nƣớc trên thế giới về vai trò của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS; - Nghiên cứu thực trạng hoạt động của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS, kiến nghị các giải pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn - Đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật, những quan điểm của Đảng về hoạt động tƣ pháp nói chung và hoạt động TGPL nói riêng. - Luận văn sử dụng phƣơng pháp luận của triết học Mác - Lênin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ phƣơng pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn. 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống về Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS, góp phần luận chứng cho sự cần thiết quy định Trợ giúp viên pháp lý tham gia TTDS, xây dựng mô hình lý luận về các quy định pháp luật nhằm đảm bảo cho Trợ giúp viên pháp lý tham gia TTDS và các điều kiện đảm bảo khác. Luận văn đánh giá sâu sát, toàn diện tình hình thực hiện các quy định pháp luật về TTDS và TGPL, phân tích các yêu cầu đặt ra về mặt pháp lý để phục vụ cho việc nâng cao hoạt động tham gia TTDS của Trợ giúp viên pháp lý; đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về tố tụng dân sự và 6 trợ giúp pháp lý. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn về hoạt động của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS. Trên cơ sở đó đƣa ra quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật TTDS và TGPL trong thời gian tới, phục vụ có hiệu quả cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS. Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác công tác nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện pháp luật và công tác quản lý nhà nƣớc về TGPL. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng: Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS Chƣơng 2: Các quy định pháp luật Việt Nam về Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS Chƣơng 3: Thực trạng tham gia TTDS của Trợ giúp viên pháp lý và giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia TTDS của Trợ giúp viên pháp lý 7 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Khát quát về trợ giúp pháp lý 1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý Xuất phát ban đầu, trợ giúp pháp lý là một loại hoạt động phúc lợi xã hội đã có lịch sử lâu đời và đƣợc bắt nguồn tại nƣớc Anh từ thế kỷ XV – XVI và xuất hiện trong một số đạo luật đƣợc ban hành tại Pháp vào khoảng năm 1851. Cùng với xu hƣớng phát triển của nhiều quốc gia châu Âu, tƣ duy về quyền đƣợc trợ giúp pháp lý trở thành trào lƣu chung với khái niệm “luật cho ngƣời nghèo”. Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý”(“Legal aid”) đƣợc sử dụng phổ biến từ giữa thế kỷ 19. Từ điển Anh – Anh của Collins (1979) định nghĩa “Legal aid” là: “financial assistance available to person unable to meet the full cost of legal proceedings”, có nghĩa là “hỗ trợ tài chính cho những ngƣời không đủ khả năng chi trả đầy đủ chi phí tố tụng pháp lý”. Ở mỗi quốc gia, quan niệm trợ giúp pháp lý cũng có sự khác biệt, phụ thuộc vào chế độ chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội của từng nƣớc. Tại Anh, đạo luật về trợ giúp pháp lý năm 1998 của Vƣơng quốc Anh định nghĩa “trợ giúp pháp lý” là sự trợ giúp trong việc sử dụng bất kỳ biện pháp nào mà một ngƣời có thể sử dụng, gồm cả các biện pháp đối với thủ tục tố tụng, liên quan đến việc áp dụng pháp luật Anh quốc trong các trƣờng hợp cụ thể phát sinh có liên quan đến ngƣời đó, bằng cách hoặc nhân danh ngƣời này để thực hiện các biện pháp đó (bao gồm cả việc trợ giúp bằng hình thức đại diện) hoặc giúp đỡ anh ta tự thực hiện các biện pháp đó [22]. Luật TGPL tại Phần Lan định nghĩa: “trợ giúp pháp lý bao gồm quy định về tƣ vấn pháp luật, các biện pháp cần thiết, việc đại diện trƣớc Toà án và cơ quan có thẩm quyền khác và việc miễn trừ các chi phí giải quyết vụ việc cụ thể theo quy định của Luật này” [22]. 8 Luật TGPL 1993 tại Hà Lan định nghĩa: “trợ giúp pháp lý là hỗ trợ về pháp luật cho một đối tƣợng đang có một vấn đề pháp lý ảnh hƣởng trực tiếp đến cá nhân ngƣời đó nhƣ đƣợc quy định trong Luật TGPL và các quy định khác dựa trên Luật này” [22]. Luật TGPL năm 1995 của Hàn Quốc quy định tại Điều 1 nhƣ sau: “Mục đích của Đạo luật này là nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của con ngƣời và tăng số ngƣời đƣợc hƣởng lợi từ hệ thống pháp luật bằng cách trợ giúp pháp lý cho những ngƣời gặp khó khăn về kinh tế hoặc những ngƣời không đƣợc pháp luật bảo vệ một cách đầy đủ do những sơ hở trong pháp luật.” Theo đó, “trợ giúp pháp lý” đƣợc hiểu là việc một Luật sƣ hoặc một cán bộ pháp lý Nhà nƣớc cung cấp dịch vụ tƣ vấn pháp luật, đại diện hoặc các dịch vụ trợ giúp khác có liên quan đến pháp luật để đạt đƣợc mục đích nêu tại Điều 1 [22]. Theo Điều 5 Luật TGPL tại Bang Queensland, Úc thì trợ giúp pháp lý có nghĩa là cung cấp dịch vụ pháp lý bao gồm tƣ vấn pháp lý, đại diện, bào chữa miễn phí hoặc cho thu phí nhƣng với mức thấp hơn giá trị thực tế của dịch vụ [22]. Điều 2 Luật TGPL của Nhà nƣớc Litva 2005 quy định: “1. Trợ giúp pháp lý của Nhà nƣớc có nghĩa là TGPL sơ cấp và TGPL thứ cấp. 2. Trợ giúp pháp lý sơ cấp - cung cấp thông tin pháp lý, tƣ vấn pháp luật và soạn thảo các văn bản phục vụ cho các thiết chế của Nhà nƣớc và thành phố, loại trừ các văn bản về thủ tục, theo các thủ tục quy định tại Luật này. Bên cạnh đó, loại trợ giúp pháp lý này cũng bao gồm cả việc tƣ vấn giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án, các hành vi giải quyết tranh chấp trên cơ sở hòa giải và soạn thảo các thỏa thuận hòa giải. 3. Trợ giúp pháp lý thứ cấp có nghĩa là soạn thảo các văn bản, bào chữa và đại diện trong các vụ việc, bao gồm cả quá trình thi hành, đại diện trong các vụ việc” [22]. 9 Theo nghĩa tiếng Việt, Từ điển Anh – Anh – Việt của của Ban Biên soạn từ điển New era, Nxb Văn hóa Thông tin thì “Legal aid” có nghĩa là “Trợ cấp pháp lý (trích từ quỹ phúc lợi công cộng)”. Trong một số tài liệu khác dịch "Legal aid" là “hỗ trợ pháp luật”, “hỗ trợ pháp lý” hoặc “hỗ trợ tƣ pháp” [34]. Nhƣ vậy, tại Việt Nam có nhiều cách gọi khác nhau về thuật ngữ này. Từ năm 1986 khi nƣớc ta chính thức tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nƣớc, Nhà nƣớc Việt Nam đã thông qua Chiến lƣợc toàn diện về tăng trƣởng và xóa đói giảm nghèo (Chiến lược xóa đói giảm nghèo), trong đó có chính sách TGPL cho ngƣời nghèo và đối tƣợng chính sách. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trƣơng “thực hiện tốt dân chủ XHCN, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân”, “vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [28]. Để góp phần thực hiện các mục tiêu trên, Đảng và Nhà nƣớc đã quan tâm chỉ đạo “cần phải mở rộng loại hình tư vấn pháp luật phổ thông, đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp nhân dân... cần nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật” [28]. Thực hiện các quan điểm nêu trên, ngày 06/9/1997, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho ngƣời nghèo và đối tƣợng chính sách. Nhƣ vậy, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” đƣợc chính thức sử dụng trong hệ thống văn bản pháp luật. Ngày 29/6/2006, Quốc hội thông qua Luật TGPL, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007. Điều 3 Luật TGPL nêu khái niệm TGPL: “Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL giúp họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật”. Ngày 20/6/2017, Quốc hội thông qua Luật 10 TGPL thay thế Luật TGPL năm 2006, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Theo đó, định nghĩa trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho ngƣời đƣợc TGPL trong vụ việc TGPL theo quy định của Luật TGPL, góp phần bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trƣớc pháp luật. Khái niệm trợ giúp pháp lý theo Luật TGPL năm 2017 đã thể hiện những thuộc tính chung, bản chất và cả mục đích, ý nghĩa của hoạt động TGPL ở Việt Nam. Bên cạnh đó, thuật ngữ trợ giúp pháp lý cũng đƣợc sử dụng tại Luật Luật sƣ nhƣ là một nghĩa vụ xã hội của luật sƣ. Điều 21 Luật Luật sƣ 2006 quy định về quyền, nghĩa vụ của luật sƣ, trong đó luật sƣ có nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí. Nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý của luật sƣ đƣợc thực hiện theo Điều lệ của luật sƣ. Theo quy định hiện nay, luật sƣ thực hiện nghĩa vụ xã hội TGPL của mình là 8h/ngày/năm. Tuy nhiên, lĩnh vực, đối tƣợng, phạm vi TGPL này không hoàn toàn trùng với hoạt động TGPL theo quy định của Luật TGPL 2006. Ngoài trợ giúp pháp lý theo hệ thống của nhà nƣớc cung cấp và nghĩa vụ của luật sƣ, còn có một số hình thức tƣơng tự. Chẳng hạn “án chỉ định” theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và “pro bono” là thực hiện TGPL tự nguyện của luật sƣ. Có thể thấy, trên thế giới và ở Việt Nam, mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về TGPL, nhƣng nhìn chung đều thống nhất ở chỗ “trợ giúp pháp lý” là hoạt động mang cả hai tính chất: pháp lý và nhân đạo. Tính pháp lý thể hiện thông qua hoạt động tƣ vấn pháp luật, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích trƣớc Tòa án và các dịch vụ pháp lý khác (nhƣ hòa giải, đại diện ngoài tố tụng) của đội ngũ ngƣời thực hiện TGPL đƣợc pháp luật quy định. Tính nhân đạo thể hiện ở chỗ hoạt động này nhằm giúp đỡ cho những đối tƣợng không có khả năng tài chính hay để chi trả cho các chi phí khi tiếp cận với các dịch vụ pháp lý và họ đƣợc giảm hoặc miễn phí dịch vụ pháp lý này. 11 1.1.2. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý Thứ nhất, TGPL đƣợc coi là một loại hình dịch vụ pháp lý bởi hình thức và phƣơng thức thực hiện tƣơng tự nhƣ dịch vụ pháp lý nói chung. Điểm khác biệt ở đây là TGPL có đối tƣợng, phạm vi, lĩnh vực trợ giúp, tổ chức, ngƣời thực hiện hẹp hơn; TGPL của Nhà nƣớc đƣợc thực hiện theo một trình tự, thủ tục khác so với trình tự thủ tục thực hiện dịch vụ pháp lý chung do tổ chức và cá nhân khác thực hiện. Thứ hai, đối tƣợng hƣởng TGPL là những ngƣời có hoàn cảnh đặc biệt, có khó khăn về tài chính, không đủ điều kiện tiếp cận với các loại dịch vụ pháp lý có thu. Ngƣời thụ hƣởng TGPL không phải trả bất kỳ một khoản lệ phí nào. TGPL chứa đựng tính nhân văn sâu sắc, bởi mục tiêu hƣớng tới đối tƣợng phục vụ là những ngƣời có hoàn cảnh đặc biệt cần phải đƣợc Nhà nƣớc và xã hội quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ. Sự hỗ trợ này sẽ làm giảm bớt những khó khăn của nhóm đối tƣợng yếu thế, góp phần tạo sự công bằng trong xã hội; Thứ ba, TGPL do những ngƣời có trình độ am hiểu pháp luật thực hiện trên trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Những ngƣời thực hiện TGPL có thể là ngƣời đƣợc tuyển dụng vào làm việc trong hệ thống nhà nƣớc, cũng có thể là luật sƣ hoạt động độc lập. Tuy nhiên, họ đều là những ngƣời có trình độ pháp luật. Thứ tƣ, TGPL là một trong các biện pháp thực thi pháp luật, đƣa pháp luật vào cuộc sống bởi nhà nƣớc phải có trách nhiệm tạo ra các cơ chế để giúp ngƣời dân biết các quy định pháp luật để thực hiện, sử dụng, tuân thủ trong cuộc sống để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thứ năm, TGPL là một loại dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp, là hoạt động vì lợi ích chung do Nhà nƣớc đảm nhiệm. Đối tƣợng đƣợc hƣởng TGPL là những ngƣời không có khả năng tài chính, có hoàn cảnh đặc biệt, không có 12 đủ điều kiện tiếp cận với các loại dịch vụ pháp lý có thu, cần có sự trợ giúp của Nhà nƣớc để có thể bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Thứ sáu, TGPL thể hiện tính chính trị - xã hội. TGPL đƣợc xác định là trách nhiệm của Nhà nƣớc, Nhà nƣớc giữ vai trò nòng cốt, hoạt động TGPL thuộc chức năng xã hội của Nhà nƣớc nhằm góp phần khắc phục sự bất bình đẳng trong tiếp cận pháp luật, góp phần thiết lập sự ổn định chính trị và các quan hệ xã hội. TGPL là một trong những phƣơng thức có hiệu quả để Nhà nƣớc giải quyết các mối quan hệ xã hội đang có sự bất ổn, giữ đoàn kết cộng đồng, bảo đảm ổn định trật tự và an toàn xã hội. 1.1.3. Ý nghĩa của trợ giúp pháp lý Một là, TGPL bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trƣớc pháp luật. Nhà nƣớc và xã hội cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho ngƣời đƣợc TGPL nhằm giúp họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Thông qua việc tƣ vấn pháp luật giúp họ có kiến thức pháp luật để tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ đƣợc pháp luật quy định hoặc thông qua việc cử ngƣời tham gia tố tụng thay họ sử dụng pháp luật để thực hiện bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Hai là, TGPL thể hiện trách nhiệm của Nhà nƣớc đối với công dân, trách nhiệm của xã hội đối với các thành viên trong cộng đồng, nhất là là nhóm các đối tƣợng không có khả năng tự mình thực hiện hoặc không có điều kiện tiếp cận với pháp luật. Riêng tại Việt Nam, TGPL còn thể hiện chính sách đãi ngộ của Nhà nƣớc đối với ngƣời có công với nhà nƣớc. Nhƣ một tất yếu khách quan của kinh tế thị trƣờng, sự phân hoá giàu nghèo đã dẫn đến sự bất bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế và trong đó có cả việc tiếp cận với pháp luật. Ngƣời nghèo và những đối tƣợng có hoàn cảnh đặc biệt thƣờng không có điều kiện để đến với các dịch vụ pháp lý có thu phí. Với tƣ cách là công cụ duy trì 13 trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng, đại diện cho toàn thể dân cƣ trong lãnh thổ quốc gia, Nhà nƣớc phải có trách nhiệm giúp đỡ, tạo lập những cơ chế để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tƣợng đó. Đây là cơ sở cho sự ra đời của tổ chức TGPL. Chế độ TGPL là một loại trợ giúp tƣ pháp đƣợc đại đa số các nƣớc trên thế giới áp dụng. Nó là kết quả tất yếu của sự phát triển trong xã hội, là công cụ để Nhà nƣớc thực hiện nghĩa vụ đối với công dân của mình. Hệ thống pháp luật ngày càng nhiều và mức độ phức tạp ngày càng tăng, nhiều ngƣời đƣợc đào tạo về pháp luật cũng không hiểu hết các quy định của pháp luật và khi có vƣớng mắc pháp luật hay phải đứng trƣớc toà án cũng không chắc chắn có thể bảo vệ thành công quyền lợi của mình. Vì vậy, một công dân không có kiến thức pháp luật và không có kỹ năng thì khó có thể bảo vệ đƣợc quyền lợi của mình trƣớc tòa án. Do đó, Nhà nƣớc phải có cơ chế bảo đảm để tất cả mọi ngƣời không phân biệt điều kiện kinh tế, khả năng tài chính đều có thể tiếp cận các dịch vụ pháp lý nhằm bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích của họ, nhất là khi họ đang là bị can, bị cáo hoặc đƣơng sự trong tố tụng. 1.2. Quy định về Trợ giúp viên pháp lý tại một số nƣớc và khái niệm, lịch sử hình thành của Trợ giúp viên pháp lý tại Việt Nam 1.2.1. Quy định về Trợ giúp viên pháp lý tại một số nước Trên thế giới, tùy thuộc mô hình TGPL, thể chế kinh tế, chính trị, xã hội mà mỗi nƣớc quy định chức danh ngƣời thực hiện TGPL khác nhau. Nghiên cứu pháp luật các nƣớc có thể khái quát những chủ thể sau đƣợc thực hiện TGPL: - Luật sƣ công/Luật sƣ Nhà nƣớc/Luật sƣ TGPL: Là công chức Nhà nƣớc hoặc đƣợc Nhà nƣớc tuyển dụng vào làm việc tại tổ chức TGPL để trực tiếp thực hiện TGPL, hƣởng lƣơng từ ngân sách Nhà nƣớc và thực hiện vụ việc theo sự phân công của tổ chức TGPL. Các chức danh này đƣợc nhiều 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan