Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trách nhiệm dân sự của pháp nhân theo pháp luật việt nam...

Tài liệu Trách nhiệm dân sự của pháp nhân theo pháp luật việt nam

.PDF
106
312
113

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ VĂN QUÂN TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA PHÁP NHÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2018 i ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ VĂN QUÂN TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA PHÁP NHÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Anh Tuấn HÀ NỘI – 2018 ii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN LÊ VĂN QUÂN iii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... iii MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP NHÂNVÀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA PHÁP NHÂN ......................................................................... 9 1.1.Khái quát chung về pháp nhân ................................................................ 9 1.1.1. Khái niệm pháp nhân...................................................................... 9 1.1.2. Ý nghĩa và vai trò của sự ra đời pháp nhân.................................. 12 1.1.3. Các học thuyết lý giải về pháp nhân ............................................ 14 1.1.4. Các đặc trƣng cơ bản của pháp nhân............................................ 17 1.2.Nền tảng lý luận cho sự ra đời và phát triển của pháp nhân .............. 26 1.2.1. Quyền tự do ý chí ......................................................................... 26 1.2.2. Quyền tự do lập hội ...................................................................... 28 1.3.Khái quát chung về trách nhiệm dân sự ............................................... 30 1.3.1. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm dân sự ................................. 30 1.3.2. Các nguyên tắc chung và phân loại trách nhiệm dân sự .............. 34 1.3.3. dân sự Cơ sở phát sinh, xác định trách nhiệm và chủ thể của trách nhiệm ...................................................................................................... 36 1.4.Trách nhiệm dân sự của pháp nhân ...................................................... 43 1.4.1. Lịch sử phát triển chế định pháp nhân và trách nhiệm dân sự của pháp nhân trong pháp luật ở Việt Nam ........................................................... 43 1.4.2. Khái niệm trách nhiệm dân sự của pháp nhân ............................. 47 1.4.3. Các đặc trƣng trách nhiệm dân sự của pháp nhân........................ 48 1.4.4. Trách nhiệm dân sự của pháp nhân phát sinh từ hợp đồng .......... 50 1.4.5. Trách nhiệm dân sự của pháp nhân phát sịnh từ quan hệ bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng ..................................................................... 51 iv 1.5.Kinh nghiệm pháp luật của một số nƣớc quy định về trách nhiệm dân sự của pháp nhân........................................................................................... 52 1.5.1. Pháp luật Thái Lan ....................................................................... 52 1.5.2. Pháp luật của Nhật Bản ................................................................ 54 1.5.3. Pháp luật của Pháp ....................................................................... 55 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 57 CHƢƠNG 2.THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬTVÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰCỦA PHÁP NHÂN Ở VIỆT NAM ................................................................................................ 58 2.1.Thực trạng pháp luật về cơ sở phát sinh trách nhiệm dân sự của pháp nhân ................................................................................................................ 58 2.1.1. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân ....................................... 59 2.1.2. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự do ngƣời đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân. ...................................................................... 60 2.1.3. Trách nhiệm dân sự của pháp nhân do ngƣời của pháp nhân gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ đƣợc pháp nhân giao........................................ 67 2.1.4. Thực trạng quy định pháp luật về tài sản chịu trách nhiệm dân sự của pháp nhân .................................................................................................. 71 2.2.Thực trạng giải quyết các vụ án về trách nhiệm dân sự của pháp nhân ................................................................................................................. 73 2.3. Đánh giá pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân ................................................................................... 78 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 82 CHƢƠNG 3.MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬTVIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA PHÁP NHÂN . 83 3.1.Cơ sở định hƣớng nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân................................................................................................ 83 3.1.1. Cơ sở về nhu cầu sự phát triển của nền kinh tế - xã hội .............. 83 3.1.2. Cơ sở của xu hƣớng cải cách hệ thống pháp luật ở Việt Nam ..... 84 3.1.3. Cơ sở về sự đòi hỏi của hội nhập quốc tế .................................... 85 v 3.2. Các định hƣớng chủ yếu hoàn thiện pháp luật và áp dụng pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân ........................................................ 85 3.2.1. Định hƣớng hoàn thiện quy định pháp luật về pháp nhân- từ bản chất của các học thuyết pháp nhân .................................................................. 85 3.2.2. Định hƣớng hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân. ................................................................................................. 87 3.2.3. Định hƣớng nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự của pháp nhân .................................................................. 88 3.3. Các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật và áp dụng pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân ........................................................ 88 3.3.1. Các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân ...................................................................................... 89 3.3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chế định trách nhiệm dân sự của pháp nhân .................................................................. 93 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................. 94 KẾT LUẬN .................................................................................................... 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 96 vi MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong hệ thống các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự ở Việt Nam, ngoài chủ thể thể nhân (con ngƣời cụ thể) còn có các chủ thể pháp lý khác có tƣ cách chủ thể giống nhƣ con ngƣời đƣợc pháp luật gọi là pháp nhân. Các pháp nhân tham gia tích cực và là chủ thể chủ yếu trong các hoạt động kinh tế, hoạt động quản lý của nhà nƣớc trên cơ sở nhà nƣớc tôn trọng quyền tự do ý chí, tự do lập hội của công dân. Quyền tự do ý chí, tự do lập hội của công dân đƣợc ghi nhận và đảm bảo hơn kể từ khi Hiến pháp 2013 đƣợc ban hành và có hiệu lực thi hành. Điều 14 của Hiến pháp 2013 quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Cùng với đó, Bộ luật Dân sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2017) thay thế Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Doanh nghiệp 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2016) đã tạo lên một khung pháp lý cho các chủ thể trong quan hệ pháp luật hoạt động và phát triển. Trong các chủ thể quan hệ pháp luật, pháp nhân là một thực thể pháp lý trìu tƣợng, đƣợc thiết lập hay tổ chức bởi những ngƣời sáng lập theo một cách hợp pháp, hoạt động bởi mục đích lợi nhuận hay phi lợi nhuận, và dƣới hình thức sở hữu tƣ nhân hay nhà nƣớc. Chế định pháp nhân đƣợc quy định trong nhiều ngành luật, bởi pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật ở nhiều lĩnh vực pháp luật của đời sống xã hội, đặc biệt các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực dân sự, kinh tế. Khi tham gia các quan hệ pháp luật, pháp nhân phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý và chịu trách nhiệm đối với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý với tƣ cách là một chủ thể độc lập của quan hệ 1 pháp luật. Trong đó, vấn đề trách nhiệm dân sự của pháp nhân phát sinh từ các quan hệ pháp luật đƣợc các nhà làm luật của nƣớc ta hết sức trú trọng nhằm tạo ra sân chơi bình đẳng cho các loại hình chủ thể pháp luật khác. Với tƣ cách là một chủ thể độc lập, pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự từ các giao dịch dân sự mà pháp nhân xác lập, thực hiện. Trách nhiệm dân sự của pháp nhân phải tuân thủ các quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự tại Điều 93 và từ Điều 302 đến Điều 308 và một số quy định trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng (Chƣơng XXI) của Bộ luật dân sự năm 2005). Cũng nhƣ đƣợc quy định tại điều 87, từ Điều 351 đến Điều 364 và các quy định về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng (Chƣơng XX) của Bộ luật Dân sự 2015. Nhƣ vậy,trách nhiệm dân sự của pháp nhân có thể phát sinh từ nghĩa vụ ngoài hợp đồng (trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng) hoặc từ nghĩa vụ theo hợp đồng (trách nhiệm dân sự theo hợp đồng). Khi ngƣời đại diện (ngƣời đại diện theo pháp luật hoặc ngƣời đại diện theo ủy quyền) thực hiện các hành vi nhân danh pháp nhân thì làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, đồng thời cũng làm phát sinh trách nhiệm dân sự của pháp nhân. Cho nên, pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự cho ngƣời đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân. Tuy vậy, một thực trạng của pháp luật Việt Nam khi quy định về chế định pháp nhân nói chung và trách nhiệm dân sự của pháp nhân nói riêng đang nảy sinh những bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo giữa luật chung và luật chuyên ngành dẫn đến nhiều hệ quả mà phải kể đến sự xa rời về mặt lý luận và thực tiễn đời sống, gây khó khăn trong thực thi pháp luật, làm mất đi tính ổn định cần thiết của pháp luật. Một trong những hệ quả của sự bất cập của pháp luật ấy, đó là sự thoái thác trách nhiệm của pháp nhân khi mà ngƣời đại diện nhân danh pháp nhân tham gia các giao dịch bằng việc hình sự hóa trách nhiệm cá 2 nhân của ngƣời đại diện. Hậu quả làm cho các chủ thể khác giao dịch với pháp nhân bị xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp nghiêm trọng. Cho đến nay, tuy việc nghiên cứu về pháp nhân và trách nhiệm dân sự của pháp nhân hết sức quan trọng nhƣ vậy, nhƣng trong giới học thuật Việt Nam chƣa có nghiên cứu cụ thể, chi tiết về tất cả các vấn đề liên quan đến trách nhiệm dân sự của pháp nhân trong các quan hệ pháp luật dân sự. Điều này, dẫn tới sự khó khăn khi tiếp cập các quy định về trách nhiệm dân sự của pháp nhân trên cơ sở khoa học pháp lý, thiếu nền tảng lý luận cho các quy định pháp luật về pháp nhân và trách nhiệm dân sự của pháp nhân. Với mục đích tiếp cận trách nhiệm dân sự của pháp nhân trên cơ sở nghiên cứu toàn diện các mặt về lý luận và thực tiễn quy định của pháp luật ở Việt Nam, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu vấn đề“Trách nhiệm dân sự của pháp nhân trong pháp luật Việt Nam” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở các nƣớc trên thế giới, chế định về pháp nhân đã đƣợc hình thành từ khá sớm trong lịch sử và trở thành nội dung trong hệ thống pháp luật dân sự của mỗi quốc gia. Bên cạnh chủ thể quan hệ pháp luật là cá nhân, pháp nhân là chủ thể do tạo ra do đòi hỏi cần đáp ứng các hoạt động của con ngƣời khi nền kinh tế xã hội phát triển. Ở nƣớc ta, đã có nhiều công trình nghiên cứu về quan hệ pháp luật, chủ thể quan hệ pháp luật và pháp nhân làm tiền đề lý luận cho các quy định pháp luật phù hợp với đời sống thực tiễn hơn. Các công trình nghiên cứu về pháp nhân, ngay từ khi nƣớc ta còn là thuộc địa của thực dân Pháp, mô hình pháp nhân đã đƣợc các thƣơng gia ngƣời Pháp du nhập, và áp dụng trong hoạt động của mình tại các thuộc địa. Các nhà luật học thời bấy giờ đã nghiên cứu về các học thuyết pháp nhân, tìm ra các đặc tính của pháp nhân. Tiêu biểu là các tác giả nhƣ: Vũ Văn Mẫu 3 (1957), Dân luật khái luận, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản; Lê Tài Triển (1959), Luật Thương mại toát yếu, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản. Gần đây, có các bài nghiên cứu, TS Ngô Huy Cƣơng (2001), Pháp nhân, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 01, năm 2001; Nguyễn Ngọc Bích- Nguyễn Đình Cung (2008), Công ty: vốn, quản lý và tranh chấp, NXB Trí Thức 2008; Lê Việt Anh (2008), Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh, TCNCLP số 113, tháng 1/2008; TS Phạm Hồng Hải (1999), Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không?, tạp chí Luật học số 6 năm 1999; GS.TS Hồ Trọng Ngũ (2009), vấn đề tội phạm có tổ chức và trách nhiệm hình sự pháp nhân trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 143 ngày 20/03/2009. Các công trình nghiên cứu này, đã phần nào làm rõ những vấn đề cơ bản của pháp nhân, và những bất cập của bộ luật dân sự và luật doanh nghiệp, bộ luật Dân sự và những hoàn thiện các quy định về chế định pháp nhân, trong đó có đề cập đến trách nhiệm pháp lý của pháp nhân trong quan hệ pháp luật. Ngoài ra, còn có các công trình đƣợc nghiên cứu ở các luận văn thạc sĩ luật học nhƣ: Nguyễn Thị Tuyết Nhung (2011), Pháp nhân - Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, luận văn thạc sĩ tại Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Văn Lâm (2011), Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luật, luận văn thạc sĩ tại Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. Cả hai luận văn ghiên cứu về các vấn đề: cơ sở lý luận của việc hình thành và phát triển pháp nhân căn cứ vào quyền tự do ý chí và quyền tự do lập hội của công dân. Phân tích khái niệm, đặc điểm và phân loại pháp nhân của các nƣớc trên thế giới và quá trình du nhập vào Việt Nam. Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về pháp nhân và tƣ cách pháp nhân của một tổ chức từ việc phân tích và đối chiếu các văn bản pháp luật và quá trình thực thi pháp luật. Kiến 4 nghị một số định hƣớng và giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật về pháp nhân. Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Hƣơng (2008), “trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra”, tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã đề cập các cơ sở lý luận và thực tiễn để nghiên cứu một loại trách nhiệm dân sự của pháp nhân là trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do ngƣời của pháp nhân gây ra. Nguyễn Văn Lâm (2017),Bàn về trách nhiệm dân sự của pháp nhân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số định kỳ tháng 2 (299) năm 2017, trang 8-14. Trong bài nghiên cứu, tác giả đã phân tích, bàn luận cơ sở lý luận trách nhiệm dân sự của pháp nhân, phân tích quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn để giải quyết tình huống xảy ra trong thực tế còn có quan điểm khác nhau về trách nhiệm dân sự của pháp nhân. Tuy nhiên, các vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật chƣa đƣợc tác giả phân tích toàn diện. Tuy vậy, đến nay lại chƣa có một công trình nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc, mang tính hệ thống liên quan đến trách nhiệm dân sự của pháp nhân trong các quan hệ pháp luật. Cũng chƣa có một công trình nghiên cứu nào đi từ bản chất vấn đề trách nhiệm dân sự của pháp nhân, thực trạng các quy định của pháp luật và áp dụng pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân trong thực tiễn nƣớc ta hiện nay, làm cơ sở đƣa ra những kiến nghị, giải pháp cho việc hành thiện pháp luật. Vì thế, tác giả luận văn này, mong muốn sẽ góp một phần nhỏ tìm ra những nguyên nhân của bất cập trong các quy định của pháp luật về pháp nhân và định hƣớng, đƣa ra giải pháp toàn diện để hoàn thiện chế định này. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Hiện nay, pháp nhân đƣợc quy định tại các ngành luật khác nhau, bao quát các quan hệ pháp luật trong đời sống xã hội. Vì thế, khi nhắc đến pháp 5 nhân với tƣ cách chủ thể quan hệ pháp luật ngƣời ta thƣờng nhắc đến đầu tiên trong pháp luật dân sự theo nghĩa rộng bao gồm cả pháp luật kinh doanh, thƣơng mại; bên cạnh đó, là những lĩnh vực luật chuyên ngành điều chỉnh quan hệ pháp luật của chủ thể pháp nhân mang tính đặc thù hơn. Ngoài ra, pháp nhân trong lĩnh vực công cũng chịu sự điều chỉnh của Hiến pháp, của lĩnh vực luật hành chính. Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung giải quyết các vấn đề pháp lý về trách nhiệm dân sự của pháp nhân trong quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng. Quan hệ đó có thể pháp sinh từ hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và lý luận của nền luật học nƣớc ta, dựa trên những chủ trƣơng, đƣờng lối và chính sách xây dựng kinh tế - xã hội hội nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện. Luận văn đặt mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận trên cơ sở các học thuyết về pháp nhân với tƣ cách là chủ thể cơ bản của quan hệ pháp luật tôn trọng quyền tự do ý chí và quyền tự do lập hội của công dân. Nêu toàn diện thực trạng các quy định pháp luật hiện nay về pháp nhân, và những định hƣớng, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này. Bởi mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ sau: - Nêu và phân tích các học thuyết về nguồn gốc hình thành pháp nhân đã trở lên phổ biến trên thế giới. Nghiên cứu cơ sở nền tảngtrên cơ sở quyền tự do ý chí và quyền tự do lập hội của công dân; - Phân tích khái niệm, đặc điểm và phân loại pháp nhân của các nƣớc trên thế giới và quá trình du nhập vào Việt Nam. - Phân tích khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm dân sự của pháp nhân nói riêng. 6 - Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân trên cơ sở phân tích và đối chiếu các văn bản pháp luật và quá trình áp dụng pháp luật để tìm ra nguyên nhân, bất cập trong thực tiễn. - Kiến nghị một số định hƣớng và giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học và các phƣơng pháp luận của triết học Mác - Lênin; Lý luận chung về nhà nƣớc - pháp luật; các quan điểm của Đảng và tƣ tƣởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật. Các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng trong luận văn chủ yếu sử dụng: phân tích tài liệu, tổng hợp và phân tích thực tiễn chứng minh cho lý luận, bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phƣơng pháp của luật so sánh. Và các phƣơng pháp nghiên cứu riêng biệt của khoa học pháp lý: phân tích quy phạm, phân tích hệ thống, so sánh pháp luật…. 6. Những đóng góp của luận văn Những đóng góp của luận văn gồm có: Một là, về lý luận: luận văn tập trung nghiên cứu có hệ thống các khái niệm về pháp nhân, các học thuyết về sự hình thành pháp nhân, qua đó, thấy đƣợc các đặc tính của pháp nhân so với các chủ thể khác. Từ đó, tác giả đi luận giải các vấn đề cơ bản về trách nhiệm dân sự mà pháp nhân phải thực hiện trong quan hệ pháp luật. Hai là,về thực tiễn: Thực trạng quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân trong Bộ luật dân sự, và các luật chuyên ngành nhằm tìm ra các tồn tại, hạn chế của các quy định pháp luật về chế định này. Hơn hết, tác giả sẽ phân tích tình hình thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật về trách 7 nhiệm dân sự của pháp nhân để đƣa ra các vƣớng mắc, khó khăn trong thực tiễn. Ba là,về định hướng hoàn thiện: từ phân tích lý luận, tìm hiểu thực tiễn quy định pháp luật và thực hiện pháp luật, tác giả sẽ nêu lên các cơ sở hình thành các định hƣớng và các định hƣớng, giải pháp mang tính toàn diện nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và thực hiện pháp luật về chế định trách nhiệm dân sự của pháp nhân trong thực tiễn hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn bao gồm 3 chƣơng: Chương 1. Cơ sở lý luận về pháp nhân và trách nhiệm dân sự của pháp nhân Chương 2. Thực trạng các quy định pháp luật và áp dụng pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân ở Việt Nam Chương 3. Cơ sở định hướng và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật và áp dụng pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân ở Việt Nam 8 Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP NHÂN VÀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA PHÁP NHÂN 1.1. Khái quát chung về pháp nhân 1.1.1. Khái niệm pháp nhân Trong đời sống xã hội các quan hệ đƣợc hình thành không chỉ hình thành từ các cá nhân riêng biệt, mà còn bao gồm rất nhiều các hoạt động của những hội, những tổ chức, đoàn thể (bao gồm nhiều cá nhân liên kết với nhau). Nhu cầu của pháp luật mỗi quốc gia cần thiết phải điều chỉnh các hoạt động của những nhóm ngƣời đó, hay nói cách khác cần tạo ra thực thể pháp lý có tƣ cách chủ thể độc lập với những ngƣời hình thành. Trong lịch sử các nghiên cứu về vấn đề pháp nhân, những học thuyết pháp lý về pháp nhân đƣợc ra đời, đã lý giải theo nhiều hƣớng khác nhau về sự xuất hiện, phát triển của pháp nhân trong mối tƣơng quan với các chủ thể quan hệ pháp luật khác. “Thuật ngữ Pháp nhân có nguồn gốc theo tiếng latinh nghĩa là một nhóm hoặc hội đồng người. Một thực thể thực hiện các hoạt động kinh doanh và là chủ thể có các quyền năng pháp lý xuất hiện từ thời La Mã cổ đại và đế chế Maya ở Ấn độ cổ đại” [57]. Tuy ra đời từ rất sớm do nhu cầu liên kết của con ngƣời, nhƣng đến nay, pháp nhân có rất nhiều các định nghĩa khác nhau. Nhìn chung, các định nghĩa đều nêu ra rằng, pháp nhân là một thực thể pháp lý đƣợc ra đời nhằm đáp ứng điều kiện của đời sống xã hội và hoạt động lập pháp của nhà nƣớc. Có thể kể đến các định nghĩa sau: Pháp nhân là một định nghĩa trong luật pháp về một thực thể mang tính hội đoàn, thƣờng dùng trong luật kinh tế. Về pháp 9 nhân có rất nhiều quan điểm và học thuyết nhƣ: có thuyết cho pháp nhân là một chủ thể giả tạo, có thuyết cho nó là một chủ thể thực sự v.v.. nhƣng quan trọng nhất pháp nhân chỉ ra đƣợc các thực thể hội đoàn có những biểu hiện tƣơng tự nhƣ thể nhân [56]. Theo định nghĩa trên, pháp nhân là một thực thể mang tính hội đoàn gồm tập hợp nhiều ngƣời, có đời sống đầy đủ giống nhƣ một thể nhân. Trong các quan hệ pháp luật, pháp nhân có thể đƣợc tổ chức dƣới các hình thức khác nhau, hoạt động vì lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận. Vì thế, trong quy định của Hiệp định thƣơng mại giữa Cộng hoà XHCN Việt Nam và Chính phủ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ về thƣơng mại năm 2001 cho rằng: Pháp nhân là một thực thể pháp lý bất kỳ đƣợc thiết lập hay tổ chức một cách hợp pháp theo luật áp dụng, bất kể vì mục đích lợi nhuận hay phi lợi nhuận, và dƣới hình thức sở hữu tƣ nhân hay nhà nƣớc, bao gồm mọi công ty, công ty tín thác, công ty hợp danh, liên doanh, doanh nghiệp một chủ hay hiệp hội [7, chƣơng 3 điều 11]. Tuy vậy, pháp nhân không phải là một sản phẩm của luật pháp cận đại, bởi trong pháp luật thời kỳ La Mãcổ đại và đế chế Maya ở Ấn độ cổ đại, pháp nhân đã đƣợc pháp luật ghi nhận và quy định đáp ứng nhu cầu của xã hội: Trong cổ luật La Mã, tuân theo xu hƣớng nhân hóa, luật pháp đã đồng hóa những đoàn thể cá nhân hay tập hợp tài sản này với những ngƣời thƣờng và công nhận cho các thực thể ấy một nhân cách pháp lý hoặc một nhân cách dân sự, các thực thể ấy gọi là pháp nhân [33, tr 368-369]. Pháp nhân là sản phẩm do pháp luật nhân cách hóa để chỉmột chủ thể mà chung ta “không nhìn thấy được, cũng chẳng sờ mó được; tuy nhiên, nó được làm một số việc giống như một con người bình thường và có trách nhiệm lẫn quyền lợi” [1, tr65-66].Chứng ta có thể chỉ xác định đƣợc các pháp 10 nhân thông qua sự hình thành dƣới một tên riêng, có trụ sở hoạt động ổn định, có tài sản riêng độc lập với tài sản của các sáng lập viên sinh ra chúng, thông qua ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân khi tham gia các quan hệ pháp luật. Trong pháp nhân,các chủ sở hữu tham gia cùng góp vốn thành lập và hoạt động của pháp nhân, họ không phải là các đồng sở hữu chung của các tài sản đó, mà hình thành một thực thể (là pháp nhân) sẽ là chủ sở hữu của tất cả các tài sản mà các thành viên đã góp vào và pháp nhân sẽ chịu trách nhiệm pháp lý trên toàn bộ tài sản trong các quan hệ pháp luật. Pháp nhân là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, về bản chất là một phƣơng thức đặc thù về tổ chức hoạt động kinh tế, thể hiện ở sự tách bạch, cá thể hoá tài sản, nghĩa là tách ra một phần tài sản riêng biệt để tạo nên một chủ thể riêng biệt, độc lập. Chính sự cá thể hoá tài sản đã tạo cho pháp nhân sự độc lập về mặt pháp lý trong quan hệ với cá nhân những ngƣời sáng lập ra pháp nhân và có khả năng tham gia một cách độc lập trong các giao lƣu dân sự, chịu trách nhiệm một cách độc lập về tài sản với các đối tác của mình. Điều này tạo cho các chủ thể kinh doanh sự năng động, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh, trong nền kinh tế thị trƣờng với sự cạnh tranh khốc liệt [22, tr 104-105]. Các tài sản của pháp nhân đƣợc ban đầu đƣợc hình thành do các thành viên đóng góp và các tài sản phát sinh trong quá trình hoạt động hợp thành một khối tài sản riêng biệt với khối tài sản của các thành viên. Trong quá trình hoạt động của pháp nhân, nếu ngƣời thứ ba có tranh chấp tranh chấp với pháp nhân, ngƣời đó thay vì khởi kiện từng thành viên sáng lập thực hiện nghĩa vụ với mình, bên thức ba chỉ phải khởi kiện pháp nhân ra tòa án để thực hiện nghĩa vụ đó. 11 Trong pháp nhân yếu tố tài sản là hết sức quan trọng theo đó, tài sản của pháp nhân và tài sản của thành viên pháp nhân phải tách bạch nhau. Các pháp nhân tham gia các quan hệ pháp luật sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến trách nhiệm về tài sản của pháp nhân. “Một pháp nhân được hưởng được hưởng những quyền và có những nghĩa vụ tương tự như thể nhân, trừ những quyền và nghĩa vụ, vì tính chất của chúng, chỉ có thể dành cho hoặc mắc chịu bởi một thể nhân” (4, điều 70 các quyển I-VI). Nhƣ vậy, “pháp nhân là một khái niệm để chỉ một loại chủ thể quan hệ pháp luật độc lập với các chủ thể khác và thành viên của pháp nhân, pháp nhân ra đời đáp ứng điều kiện của đời sống kinh tế-xã hội và hoạt động lập pháp. Khác với các tự nhiên nhân, pháp nhân là một thực thể, có thể thực hiện chức năng của mình một cách hợp pháp, có thể kiện hoặc bị kiện và hoạt động thông qua vai trò của người đại diện” [25]. 1.1.2. Ý nghĩa và vai trò của sự ra đời pháp nhân Sự ra đời của pháp nhân nhƣ một nhu cầu tất yếu của xã hội khi mà con ngƣời muốn liên kết lại với nhau tạo lên các sức mạnh mà một thể nhân không có. Các pháp nhân, cá nhân khi tham gia quan hệ pháp luật đều là các chủ thể độc lập, bình đẳng. Khi nghiên cứu ý nghĩa và vai trò của pháp nhân trong đời sống xã hội, giáo sƣ Jean Claude Ricci chỉ ra vai trò của pháp nhân nhƣ sau [8, tr 105-106]: - Thứ nhất, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật đƣợc đơn giản hóa. Pháp nhân cho phép đơn giản hóa các quan hệ pháp luật. - Thứ hai, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật đƣợc ổn định lâu dài. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng. Ngƣời ta thƣờng hay nói rằng, pháp nhân không gặp phải những thay đổi bất ngờ nhƣ thể nhân. Thời gian tồn tại của một pháp nhân 12 thƣờng dài hơn cuộc sống của một con ngƣời. Và hoạt động của pháp nhân có thể kéo dài, thậm chí rất dài. Pháp nhân không bị ảnh hƣởng bởi những biến cố xảy ra đối với thành viên của nó. Rõ ràng sự xuất hiện của pháp nhân đã làm cho các quan hệ pháp luật mà con ngƣời tạo ra đƣợc đơn giản hóa, khi mà pháp nhân thay thế cho hai hoặc rất nhiều các chủ thể cá nhân. Sự ra đời pháp nhân là để bảo vệ tốt lợi ích chung của nhóm với những ngƣời có quan hệ, cùng mục đích liên kết với nhau, cũng nhƣ lợi ích của ngƣời thứ ba có quan hệ với nhóm, cần công nhận sự tồn tại độc lập của nhóm so với cá nhân. Vì thế, “nhóm được coi như có nhân thân của riêng mình, phân biệt với nhân thân của từng thành viên. Được nhân cách hóa, nhóm có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ, nghĩa là có năng lực hành vi, và có tài sản riêng bảo đảm cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó”[18, tr 221-222]. Tổ chức là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự đƣợc gọi là pháp nhân ra đời và tồn tại là đòi hỏi khách quan của đời sống xã hội. Các tổ chức đó không đơn thuần là sự tập hợp các thành viên riêng lẻ mà là một thực thể thống nhất, ràng buộc lẫn nhau giữa các thành viên [29, tr. 98 – 99]. Mặt khác, cũng có thể thấy sự tồn tại của pháp nhân sẽ không bị ảnh hƣởng bởi sự thay đổi của các thành viên. Một pháp nhân đƣợc hình thành, hoạt động trong một thời gian dài, qua các thế hệ của cá nhân và tạo lên một giá trị đối với xã hội mà phải thể nhân có thể không bao giờ làm đƣợc. Tuy nhiên, sự ra đời của pháp nhân sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu không đƣợc pháp luật của nhà nƣớc ghi nhận và điều chỉnh nó. Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về sự ra đời của pháp nhân là do pháp luật tạo ra hay pháp luật ghi nhận đời sống. Sự khác nhau này thể hiện trong pháp luật dựa trên ý chí của các nhà lập pháp của mỗi quốc gia. Các quy định pháp luật nêu lên tƣ 13 cách chủ thể của pháp nhân. Từ đó, thuật ngữ “tƣ cách pháp nhân” trong các quy phạm pháp luật đƣợc hiểu là là tƣ cách pháp lý đƣợc pháp luật công nhận cho một thực thể có khả năng tồn tại và hoạt động độc lập trƣớc pháp luật. 1.1.3. Các học thuyết lý giải vềpháp nhân Đến nay, khi nghiên cứu sự ra đời của pháp nhân có rất nhiều quan điểm khác nhau, đƣợc lý giải trên các cơ sở lý luận khác nhau, từ đó hình thành các học thuyết về pháp nhân, có thể kể đến: 1.1.3.1. Học thuyết pháp nhân cổ điển Học thuyết này cho rằng phán nhân là một hƣ cấu pháp lý. Theo thuyết này, ngoài thể nhân, các chủ thể quyền lợi khác chỉ là những chủ thể quyền lợi mang tính giả tạo, do luật pháp tạo ra. Tất cả các pháp nhân đƣợc hình thành đều do pháp luật tạo ra bằng việc quy định trong một sắc lệnh, đạo luật cụ thể. Từ đó, sự ra đời, tồn tại hoặc mất đi của một hình thức pháp nhân nào đó là do pháp luật quyết định. Khi một nhà nƣớc muốn khuyến khích sự ra đời, phát triển của pháp nhân thì quy định trong pháp luật tạo điều kiện thuận lợi, còn nếu không muốn một hình thức pháp nhân nào đó tồn tại thì pháp luật hủy bỏ hình thức đó. “Khi hình thành, các của cải do các thành viên đóng góp hợp thành một khối tài sản tách biệt khỏi khối tài sản của các thành viên, và bằng một hư cấu pháp lý khối tài sản này tạo nên một pháp nhân” [28, tr 168]. Trong thực tế, học thuyết về sự hƣ cấu của pháp nhân có nhiều lợi thế trong quan hệ pháp luật mà pháp nhân tham gia, khi bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba bằng việc khởi kiện pháp nhân thay vì khởi kiện từng thành viên sở hữu pháp nhân. Tuy “học thuyết này bị chỉ trích mạnh mẽ bởi không phải là học thuyết hợp lý và chưa giải thích tại sao cần đặt ra hư cấu ấy”[33, tr 379-380]. Đồng thời, nếu dựa trên khía cạnh quyền tự do kinh doanh, thì các học giả đều phê phán quan điểm của học thuyết này bởi “học thuyết này có một hệ 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan