BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
VÕ XUÂN HUY
TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI
HỢP ĐỒNG KHI MỘT BÊN THAM GIA BẢO HIỂM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG KHI MỘT BÊN THAM GIA BẢO HIỂM
Chuyên ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Văn Đại
Học viên: Võ Xuân Huy
Lớp: Cao học Luật tại Phú Yên
Khóa: 1
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan toàn bộ nội dung luận văn “Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt
hại ngoài hợp đồng khi một bên tham gia bảo hiểm” là kết quả của quá trình tổng
hợp và nghiên cứu của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS Đỗ Văn
Đại. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong luận văn đã được nêu rõ trong
phần trích dẫn tài liệu tham khảo; các bản án, thông tin được nêu trong luận văn là
trung thực và hoàn toàn chính xác, đúng sự thật.
Ngƣời cam đoan
Võ Xuân Huy
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ ĐƢỢC VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
1
Bộ luật Dân sự
BLDS
2
Kinh doanh bảo hiểm
KDBH
3
Tòa án nhân dân tối cao
TANDTC
4
Tòa án nhân dân
TAND
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................................2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .........................................................4
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài ..........................................................5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu......................................................................................5
6. Dự kiến kết quả nghiên cứu và giá trị ứng dụng ................................................5
7. Các vấn đề cần giải quyết và bố cục luận văn ....................................................6
CHƢƠNG 1................................................................................................................7
TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG KHI BÊN
GÂY THIỆT HẠI CÓ THAM GIA BẢO HIỂM ...................................................7
1.1. Phƣơng thức bồi thƣờng thiệt hại.....................................................................8
1.2. Chủ thể liên quan trong quan hệ bồi thƣờng thiệt hại .................................14
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................19
CHƢƠNG 2..............................................................................................................20
TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG KHI BÊN
BỊ THIỆT HẠI CÓ THAM GIA BẢO HIỂM .....................................................20
2.1. Chủ thể có trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại.................................................21
2.2. Quyền yêu cầu đối với ngƣời thứ ba...............................................................27
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................33
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................34
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan trọng
của luật dân sự nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa bên gây thiệt hại
và bên bị gây thiệt hại. Thực tiễn pháp lý lại phát sinh trường hợp trách nhiệm bồi
thường thiệt hại khi một bên có tham gia bảo hiểm. Đây là một vấn đề pháp lý phát
sinh từ thực tiễn áp dụng pháp luật mà hiện nay pháp luật dân sự nước ta chưa có
quy định hoặc hướng dẫn cụ thể. Chính vì thiếu các quy phạm pháp luật điều chỉnh
vấn đề này dẫn đến việc áp dụng pháp luật khi giải quyết các tranh chấp về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có một bên tham gia bảo hiểm trong
các Tòa án tại Việt Nam chưa có sự thống nhất.
Việc phân tích quyền, lợi ích chính đáng của các bên chủ thể liên quan đối
với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có bên tham gia bảo hiểm
là cần thiết. Hai vấn đề pháp lý cần được tìm hiểu hiện nay chính là các nội dung
pháp lý xoay quanh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường
hợp bên gây thiệt hại có tham gia bảo hiểm và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong trường hợp bên bị thiệt hại có tham gia bảo hiểm.
Đối với trường hợp bên gây thiệt hại có tham gia bảo hiểm thì phương thức
yêu cầu bồi thường thiệt hại nào giúp người bị thiệt hại nhanh chóng được thanh
toán khoản tiền bảo hiểm: bồi thường qua yêu cầu của bên mua bảo hiểm hay bồi
thường trực tiếp cho người bị thiệt hại. Quy định pháp lý hiện nay cho thấy phương
thức yêu cầu bồi thường thiệt hại thông qua yêu cầu của bên mua bảo hiểm là
phương thức chính yếu. Tuy nhiên, thực tế áp dụng lại cho thấy tính bất cập của
phương thức này thể hiện ở thủ tục rườm rà, mất thời gian, không đảm bảo tính kịp
thời khi bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Như vậy, liệu rằng có nên cân
nhắc đến phương thức bồi thường thiệt hại trực tiếp cho người bị hại mà không cần
thông qua yêu cầu của người gây thiệt hại có tham gia bảo hiểm.
Đối với trường hợp bên bị thiệt hại có tham gia bảo hiểm: hiện nay, không có
quy định pháp luật nào về việc liệu rằng người bị thiệt hại có tham gia bảo hiểm sẽ
được hưởng khoản thanh toán nào: tiền bảo hiểm từ doanh nghiệp bảo hiểm, tiền
bồi thường thiệt hại của bên gây thiệt hại hay cả hai khoản tiền vừa nêu. Thực tế xét
xử tại các Tòa án hiện nay thể hiện sự không đồng nhất khi giải quyết vấn đề này.
Chính vì thế, cần có công trình nghiên cứu để đưa ra các kiến nghị về vấn đề
pháp lý vừa nêu là điều tất yếu. Hiện nay, cũng đã có một số tác giả đề cập đến vấn
2
đề này, nhưng mỗi công trình nghiên cứu, bài viết chỉ khai thác một hoặc một vài
khía cạnh khác nhau. Xuất phát từ tình hình thực tiễn trong quá trình áp dụng quy
định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp có một bên tham gia
bảo hiểm, việc tìm hiểu vẫn còn mang tính thời sự trong giai đoạn hiện nay. Do đó,
để nhận thức rõ hơn quy định pháp luật cũng như những hạn chế tồn tại trong thực
tiễn áp dụng, từ đó đưa ra định hướng hoàn thiện cơ chế pháp lý về vấn đề nêu trên,
tác giả lựa chọn đề tài: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có
một bên tham gia bảo hiểm” để làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tuy vẫn còn tính mới nhưng các nội dung xoay quanh đề tài “Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có một bên tham gia bảo hiểm” đã được
một số công trình nghiên cứu đề cập đến. Phải kể đến những giáo trình đại học, bài
báo trên các tạp chí khoa học pháp lý, sách chuyên khảo bình luận khoa học và các
luận văn, luận án:
Giáo trình:
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập
2), Nxb Công an nhân dân. Giáo trình phân tích các vấn đề lý luận chung và các
trường hợp cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về phương
diện lý luận (Chương X). Tuy nhiên, giáo trình này lại chưa phân tích sâu về các
vấn đề có liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có một bên tham gia
bảo hiểm.
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Pháp luật
về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb Hồng Đức - Hội luật gia
Việt Nam. Giáo trình này thể hiện các vấn đề cơ bản liên quan đến trách nhiệm dân
sự bồi thường thiệt hại. Tác giả sử dụng các kiến thức cung cấp trong giáo trình để
phục vụ cho việc nghiên cứu các vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường dân sự.
Tuy không có nội dung trực tiếp liên quan đến tách nhiệm bồi thường thiệt hại khi
có một bên tham gia bảo hiểm nhưng công trình nghiên cứu này giúp tác giả luận
văn nắm chắc lý luận về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; từ đó định hướng kiến
nghị của riêng đề tài phù hợp với nền tảng kiến thức chung.
Sách:
- Nguyễn Xuân Quang - Lê Nết - Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật dân sự
Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Các tác giả phân tích
các vấn đề lý luận chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về
3
phương diện lý luận (Chương IV) nhưng chưa đề cập đến các vấn đề liên quan đến
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi một bên có tham gia bảo hiểm,
cũng như các vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Tác giả luận văn nghiên cứu tài
liệu này để làm tiền đề xây dựng các kiến nghị cho luận văn.
- Đỗ Văn Đại (2022), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam Bản án và bình luận bản án (tập 1, 2), Nxb Hồng Đức. Công trình nghiên cứu này
đã phân tích thực trạng bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp có
tham gia bảo hiểm, về các trường hợp người gây ra thiệt hại có tham gia bảo hiểm,
người bị thiệt hại có tham gia bảo hiểm, quyền yêu cầu bồi thường (yêu cầu trực
tiếp doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hoặc yêu cầu người gây ra thiệt hại bồi
thường), thời hiệu yêu cầu bồi thường, phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, xác định
người bị thiệt hại và người chịu trách nhiệm bồi thường và quyền yêu cầu đối với
người thứ ba. Ngoài ra tác giả còn so sánh với quy định pháp luật nước ngoài về
trường hợp này. Tác giả tham khảo nhiều vấn đề tại luận văn, đặc biệt là các nội
dung so sánh pháp luật giữa các nước về vấn đề nghiên cứu. Tuy nhiên, tác giả và
tác giả luận văn này phân tích thực tiễn xét xử khác nhau nên cả hai công trình
nghiên cứu đều góp phần làm phong phú hơn vấn đề nghiên cứu.
- Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân
sự năm 2015, Nxb Hồng Đức. Công trình khoa học này giới thiệu và bình luận
chuyên sâu những điểm mới của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005. Theo đó,
tác phẩm này nêu lên những điểm mới trong các quy định có liên quan đến những
trường hợp bồi thường cụ thể. Đồng thời, quy định mới về việc bỏ yếu tố lỗi là một
trong các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được
phân tích trong công trình này trực tiếp liên quan đến các phân tích về yếu tố lỗi
trong luận văn này. Tác giả đi từ việc nghiên cứu những căn cứ chung để phân tích
những yếu tố riêng làm phát sinh trách nhiệm bồi thường khi có một bên tham gia
bảo hiểm.
Các bài viết khác:
- Thanh Thịnh (2020), “Tư cách tham gia tố tụng của Công ty bảo hiểm y tế
trong vụ án vi phạm giao thông đường bộ”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử. Bài
viết đề cập và phân tích về tư cách pháp lý của doanh nghiệp bảo hiểm khi tham gia
vào quá trình tố tụng giải quyết các vụ án vi phạm giao thông đường bộ. Luận văn
phân tích và bình luận các bản án có nội dung liên quan đến bài viết này, từ đó nêu
lên các kiến nghị về việc đưa các doanh nghiệp bảo hiểm vào tham gia tố tụng trong
4
vụ án về tai nạn giao thông nhằm giải quyết triệt để các khoản thanh toán và quyền
yêu cầu bồi hoàn tiền chi trả bảo hiểm.
- Đỗ Văn Đại, Nguyễn Thị Khánh Ngân (2022), “Chuyển quyền yêu cầu
trong pháp luật bảo hiểm”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 06 tháng 3 năm 2022.
Bài viết đề cập và phân tích về khi một người bị thiệt hại và thiệt hại này có người
chịu trách nhiệm bồi thường nhưng người bị thiệt hại có bảo hiểm do có hợp đồng
với doanh nghiệp bảo hiểm, người bị thiệt hại có thể lựa chọn phương án yêu cầu
doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền. Trong trường hợp này, pháp luật đương đại cho
phép doanh nghiệp bảo hiểm quay sang yêu cầu người chịu trách nhiệm bồi thường
bồi hoàn khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm trả cho người bị thiệt hại.
Như vậy, đến thời điểm hiện tại chỉ có công trình của tác giả Đỗ Văn Đại
(2022), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận
bản án (tập 1, 2), Nxb Hồng Đức mới đề cập đến vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong trường hợp một bên có tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, chưa có công
trình khoa học nào khác tập trung đi sâu nghiên cứu làm rõ những khó khăn, vướng
mắc, bất cập và hướng khắc phục việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng khi một bên tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, các công trình nghiên
cứu nêu trên cũng là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng để tác giả nghiên cứu các
vấn đề chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong quá trình thực hiện đề tài
của mình.
Mỗi tài liệu nêu trên đều rất có ý nghĩa trong việc hình thành luận văn này.
Tuy nhiên, tác giả luận văn tiếp cận vấn đề theo định hướng ứng dụng. Do vậy, trên
cơ sở tham khảo các nội dung trong các công trình vừa nêu, tác giả luận văn cũng
phân tích vấn đề theo nhận thức riêng. Từ đó, đưa ra các đề xuất có tính riêng đối
với luận văn này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Phân tích quy định pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp có một bên tham gia bảo hiểm.
Làm rõ những hạn chế, thiếu sót, khó khăn, không thống nhất trong thực tiễn xét xử
các quan hệ pháp luật có tồn tại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi
có một bên tham gia bảo hiểm tại Việt Nam.
- Mục đích nghiên cứu: Đưa ra kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện quy định
pháp lý liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có một
bên tham gia bảo hiểm.
5
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Những quy định của pháp luật Việt Nam và thực
tiễn áp dụng của quy định đó tại Tòa án (được thể hiện thông qua các bản án) về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có một bên tham gia bảo hiểm.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi của đề tài, tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong
trường hợp có một bên tham gia bảo hiểm. Từ hiểu biết thực tiễn áp dụng quy định
pháp luật về đề tài nêu lên quan điểm cá nhân để hoàn thiện cơ chế pháp lý về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có một bên tham gia bảo hiểm. Các
tài liệu nghiên cứu gồm các bản án của Tòa án qua các năm. Đồng thời, có so sánh,
đối chiếu pháp luật của một số nước đối với quy định về nội dung tương tự.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng xuyên suốt luận văn bằng các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích để lý giải, đánh giá nội dung, làm rõ quy định pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có một bên tham gia
bảo hiểm. Phương pháp này được áp dụng trong tất cả các mục của luận văn này.
Mục đích sử dụng để phân tích cơ sở pháp lý, làm rõ nội dung của các bản án được
dẫn chứng, đồng thời, để đưa ra bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật.
- Phương pháp liệt kê để trình bày thực tiễn áp dụng pháp luật của các vấn
đề pháp lý đề tài đề cập đến và đối chiếu với các quan điểm khác cũng như làm rõ
quy định pháp luật của nước khác liên quan đến nội dung đưa ra.
- Phương pháp so sánh để so sánh hướng xét xử của TAND các huyện khác
nhau tại Phú Yên và giữa các tỉnh về vấn đề nghiên cứu và so sánh một số quy định
BLDS các nước khác.
- Phương pháp bình luận án được sử dụng để phân tích các bản án đã được
Tòa án xét xử về vấn đề pháp lý đang nghiên cứu; từ đó tìm ra những bất cập trong
quy định của pháp luật, làm cơ sở cho đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để đánh giá khái quát những vấn đề
nghiên cứu; từ đó đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật và đưa ra được
kết luận vấn đề đã nghiên cứu.
6. Dự kiến kết quả nghiên cứu và giá trị ứng dụng
Kết quả nghiên cứu nêu ra các bất cập trong thực tiễn xét xử, áp dụng pháp
luật và đề xuất hướng giải quyết. Đề tài có giá trị tham khảo đối với những người
6
hành nghề luật, như luật gia, luật sư khi tư vấn cho đương sự để đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn có giá trị tham khảo đối với cơ
quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án khi giải quyết các vụ án tương tự.
7. Các vấn đề cần giải quyết và bố cục luận văn
Xuất phát từ những vấn đề pháp lý cần nghiên cứu được nêu tại phần mở đầu
của luận văn, tác giả nhận thấy đối với đề tài này cần phân chia thành hai chương cụ
thể để thuận tiện cho việc phân tích, bình luận và định hướng kiến nghị.
Theo đó, có thể nhận thấy nổi bật là hai vấn đề cơ bản: bồi thường thiệt hại
khi bên gây thiệt hại tham gia bảo hiểm và bồi thường thiệt hại khi bên bị thiệt hại
tham gia bảo hiểm: nên cho biết khác nhau cơ bản ở đâu. Đây là hai nội dung chính
yếu của luận văn này, được tác giả phân chia thành hai chương nhằm khái quát nội
dung chính của luận văn, đồng thời giúp triển khai nội dung công trình nghiên cứu
phù hợp hơn.
Do vậy, ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi bên gây
thiệt hại tham gia bảo hiểm.
Chương 2: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi bên bị thiệt
hại tham gia bảo hiểm.
7
CHƢƠNG 1
TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG KHI BÊN
GÂY THIỆT HẠI CÓ THAM GIA BẢO HIỂM
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là loại trách nhiệm bồi
thường không phát sinh từ quan hệ hợp đồng. Tại Điều 584 BLDS năm 2015 quy
định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì
phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự 2015, luật khác có liên quan quy
định khác”.
Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm
phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho
bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.1
Hiện nay, ngoài các quy định chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
thì BLDS năm 2015 chưa đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng khi bên gây thiệt hại có tham gia bảo hiểm. Nhưng có quy định nghĩa vụ của
bên vận chuyển hành khách tại khoản 2 Điều 524 “Mua bảo hiểm trách nhiệm dân
sự đối với hành khách theo quy định của pháp luật” và nghĩa vụ của bên vận chuyển
tài sản tại khoản 4 Điều 534 “Mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự theo quy định của
pháp luật”.
Do đó, cần nghiên cứu các quy định pháp luật chuyên ngành cũng như thực
tiễn xét xử khi giải quyết các tranh chấp này. Khi bên gây thiệt hại có tham gia bảo
hiểm thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ khác so với trường hợp không tham gia
bảo hiểm, bởi khi đó có ba bên tham gia vào mối quan hệ này: Bên gây thiệt hại,
bên bị thiệt hại và bên bảo hiểm. Vậy, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm2 thì bên bảo
hiểm chi trả tiền bảo hiểm cho bên gây thiệt hại tham gia bảo hiểm hay trực tiếp cho
bên bị thiệt hại, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu bên bảo hiểm trực tiếp chi trả
tiền bảo hiểm cho mình hay không.
Ngoài ra, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm thì ai là người có quyền đối với số tiền
bảo hiểm, trường hợp số tiền bảo hiểm nhiều hơn hoặc ít hơn thiệt hại phải bồi
1
Điều 567 BLDS năm 2005.
Khoản 10 Điều 3 Luật KDBH quy định: “Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận
hoặc pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người
thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm”. Khoản 27 Điều 4 Luật KDBH năm 2022 quy định:
“Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định mà khi sự kiện đó
xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài, tổ chức tương
hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô phải bồi thường, trả tiền bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm”.
2
8
thường thì ai có quyền đối với khoản chênh lệch. Bên cạnh đó, khi bên bị thiệt hại
cũng đồng thời là bên gây thiệt hại thì có xảy ra sự kiện bảo hiểm hay không, bên
bảo hiểm có nghĩa vụ chi trả tiền bảo hiểm hay không phải chi trả. Mặc dù, Luật
Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 được sửa đổi, bổ sung năm 2010, 2019 (sau đây
gọi tắt là Luật KDBH) chưa có quy định, nhưng đến nay Luật KDBH năm 2022 sắp
có hiệu lực thi hành vẫn bỏ ngỏ về các vấn đề nêu trên. Vì vậy, để làm rõ những
vướng mắc, bất cập này tác giả phân chia thành hai nội dung để nghiên cứu.
1.1. Phƣơng thức bồi thƣờng thiệt hại
Phương thức bồi thường trong lĩnh vực bảo hiểm có thể được hiểu là cách
thức mà doanh nghiệp bảo hiểm3 thực hiện chi trả tiền bảo hiểm cho bên mua bảo
hiểm, người được bảo hiểm, người thụ hưởng hoặc người thứ ba bị thiệt hại.
Bên mua bảo hiểm là khái niệm pháp lý được sử dụng trong BLDS năm 2005
và được giải thích tại khoản 6 Điều 3 Luật KDBH như sau: “Bên mua bảo hiểm là
tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm4 và đóng
phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm hoặc
người thụ hưởng.”
Theo khoản 7 Điều 3 Luật KDBH thì “Người được bảo hiểm là tổ chức, cá
nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo
hiểm. Người được bảo hiểm có thể đồng thời là người thụ hưởng”. Khoản 8 Điều 3
Luật KDBH quy định: Người thụ hưởng là tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm
chỉ định để nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con người.
Khoản 1 Điều 580 BLDS năm 2005 quy định: “bên bảo hiểm phải trả tiền
bảo hiểm cho người thứ ba theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm đối với thiệt hại mà
bên mua bảo hiểm đã gây ra cho người thứ ba theo mức bảo hiểm đã thỏa thuận
hoặc theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 lại bỏ chương Hợp đồng
bảo hiểm, đồng nghĩa với việc bỏ đi các quy định chung về hợp đồng bảo hiểm. Do
đó, chỉ có Luật KDBH và các văn bản hướng dẫn Luật KDBH điều chỉnh vấn đề
pháp lý vừa đề cập.
3
Khoản 5 Điều 3 Luật KDBH quy định “Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và
hoạt động theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo
hiểm, tái bảo hiểm”.
4
Theo Bộ Tài chính, hiện có 77 doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường, bao gồm: 31 công ty
bảo hiểm phi nhân thọ, 19 công ty bảo hiểm nhân thọ, 2 công ty tái bảo hiểm, 24 công ty môi giới bảo hiểm
và 1 chi nhánh công ty bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài. Ngoài ra, số liệu từ Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
cho thấy, tính đến hết tháng 5/2022, tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường ước đạt 94.279 tỷ đồng
(tăng trưởng 16% so với cùng kỳ 2021), https://vneconomy.vn/mo-xa-lo-cho-thi-truong-bao-hiem.htm, truy
cập ngày 13/9/2022.
9
Theo quy định tại Luật KDBH hiện hành thì khi bên gây thiệt hại có tham
gia bảo hiểm, người bị gây thiệt hại có thể được bồi thường bằng số tiền bảo hiểm
của bên gây thiệt hại bằng 2 cách: một là được bồi thường thiệt hại thông qua yêu
cầu của bên mua bảo hiểm (tức người gây thiệt hại) với doanh nghiệp bảo hiểm; hai
là, có thể được bồi thường trực tiếp từ doanh nghiệp bảo hiểm trong một số trường
hợp khác do pháp luật quy định mà không cần yêu cầu của bên gây thiệt hại có mua
bảo hiểm. Tuy nhiên, phương thức bồi thường và thực tiễn xét xử các vụ án liên
quan đến vấn đề này hiện nay như thế nào sẽ được phân tích dưới đây.
1.1.1. Bồi thường thiệt hại thông qua yêu cầu của bên mua bảo hiểm
Điều 57 Luật KDBH năm 2000 cũng có quy định tương tự tinh thần của quy
định tại BLDS năm 2005, cụ thể: “Theo yêu cầu của người được bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm có thể bồi thường trực tiếp cho người được bảo hiểm hoặc người
thứ ba bị thiệt hại”. Điều 71 Luật KDBH năm 2022 quy định “Theo yêu cầu của
người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ nước ngoài có thể bồi thường trực tiếp cho người được bảo hiểm hoặc
cho người thứ ba bị thiệt hại.”
Như vậy, về vấn đề này thì Luật KDBH năm 2022 không có thay đổi gì so
với Luật KDBH, theo quy định trên thì khi người mua bảo hiểm (tức người được
bảo hiểm) có yêu cầu thì doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu trách nhiệm thanh toán
tiền bảo hiểm cho người bị thiệt hại. Điều này hoàn toàn hợp lý bởi vì bên mua bảo
hiểm là bên có quyền định đoạt đối với khoản tiền bảo hiểm họ được nhận khi có sự
kiện bảo hiểm phát sinh. Trong trường hợp này, người mua bảo hiểm đồng thời là
người gây thiệt hại, người này vừa có quyền hưởng tiền bảo hiểm phát sinh theo
quy định của pháp luật bảo hiểm; đồng thời lại có nghĩa vụ bồi thường cho người bị
thiệt hại theo cơ chế bồi thường nghĩa vụ ngoài hợp đồng theo quy định pháp luật
dân sự. Chính vì vậy, người gây thiệt hại hoàn toàn có quyền chuyển quyền nhận số
tiền bảo hiểm sang cho người bị thiệt hại thông qua “quyền yêu cầu” đối với doanh
nghiệp bảo hiểm. Theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm phải có trách nhiệm trực tiếp
chuyển tiền thanh toán bảo hiểm cho bên bị người được bảo hiểm gây ra thiệt hại.
Hoặc cũng có thể chuyển cho người mua bảo hiểm để họ bồi thường cho bên bị
thiệt hại.
Tác giả luận văn cho rằng việc quy định như trên có cả mặt thuyết phục và
không thuyết phục. Thứ nhất, quy định này chứng tỏ việc tôn trọng quyền định đoạt
của người mua bảo hiểm đối với số tiền bảo hiểm chính họ đã mua bảo hiểm. Trong
10
mọi trường hợp, kể cả trường hợp người mua bảo hiểm đã gây thiệt hại cho bên thứ
ba thì khoản tiền đã đóng bảo hiểm cũng không được tự động chuyển cho người thứ
ba bị thiệt hại mà cần phải thực hiện theo yêu cầu của người mua bảo hiểm. Việc
này thể hiện việc bảo vệ triệt để quyền lợi của bên mua bảo hiểm. Thứ hai, quy định
này lại thể hiện một số mặt chưa phù hợp. Điển hình là việc doanh nghiệp bảo hiểm
trả tiền cho bên bị thiệt hại phải trên cơ sở “yêu cầu” của người mua bảo hiểm
(cũng đồng thời là người gây ra thiệt hại). Tuy nhiên, việc thể hiện “quyền yêu cầu”
ra sao thì vẫn chưa có quy định cụ thể. Có thể người mua bảo hiểm sẽ gửi cho
doanh nghiệp bảo hiểm một văn bản yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải thanh
toán tiền bảo hiểm cho bên bị thiệt hại hoặc có thể bằng các hình thức khác.
Hiện nay, pháp luật dân sự nước ta chưa có quy định cụ thể việc phương thức
người mua bảo hiểm thực hiện quyền yêu cầu đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Điều
này sẽ gây ra tình trạng không rõ ràng, gây mất thời gian cho các bên; đặc biệt gây
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người bị thiệt hại. Bởi lẽ, khi việc chuyển
tiền bồi thường thông qua một khâu trung gian (tức yêu cầu của bên mua bảo hiểm)
sẽ ảnh hưởng đến tính kịp thời5 trong bồi thường thiệt hại cho người thứ ba bị thiệt
hại. Lúc này, thiệt hại cần được bồi thường cấp thiết cho người bị hại nhưng bị các
thủ tục yêu cầu rắc rối làm chậm đi thời gian bồi thường.
Chính vì thế, việc bên mua bảo hiểm gây thiệt hại cho người thứ ba có thể
yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chi trả tiền bồi thường cho bên bị thiệt hại là hoàn
5
Theo điểm c khoản 2 Điều 17 Luật KDBH thì doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ “trả tiền bảo hiểm kịp
thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
Tuy nhiên, trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc tiền bồi thường cho người thụ
hưởng, người được bảo hiểm hoặc có tranh chấp về số tiền bảo hiểm, tiền bồi thường. Tòa án giải quyết tranh
chấp đã quyết định doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm hoặc tiền bồi thường theo yêu cầu của
nguyên đơn thì có tính lãi hay không. Nếu tính lãi thì từ thời điểm nào, mức lãi suất như thế nào, hiện còn có
hai quan điểm như sau: Thứ nhất, doanh nghiệp bảo hiểm chậm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc
tiền bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm là thuộc trường hợp chậm thực hiện
nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại Điều 357 BLDS năm 2015. Theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải trả lãi
trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả tính từ ngày tiếp theo của ngày đến hạn trả tiền bảo
hiểm theo quy định tại Điều 29 Luật KDBH cho đến khi thanh toán xong theo mức lãi suất hai bên thỏa thuận
trong hợp đồng bảo hiểm. Nếu các bên không thỏa thuận thì mức lãi suất quy định tại Điều 468 BLDS năm
2015 là 10%/năm. Thứ hai, do các bên tranh chấp về số tiền bảo hiểm hoặc tiền được bồi thường nên sẽ
không phải chịu lãi trên số tiền bảo hiểm hoặc tiền bồi thường cho đến khi bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu lực.
Trong thực tiễn, đây là một nội dung thường có tranh chấp và văn bản chưa quy định rõ, nên thực tiễn xét xử
của Tòa án còn chưa có sự thống nhất. Vấn đề đặt ra là khoản tiền bảo hiểm hoặc tiền bồi thường được thanh
toán ở thời điểm nào. Trong trường hợp hợp đồng không có nội dung về chủ đề này, theo quan điểm cá nhân
nên theo hướng doanh nghiệp bảo hiểm phải thanh toán tiền bảo hiểm từ thời điểm nhận đủ hồ sơ. Nếu doanh
nghiệp bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ này thì phải trả lãi chậm trả tính từ ngày nhận đủ hồ sơ mà chưa thanh
toán.
11
toàn hợp lý nhằm đảm bảo tối đa quyền định đoạt số tiền bảo hiểm của bên mua bảo
hiểm. Tuy nhiên, việc áp dụng trong thực tiễn có thể phát sinh những bất cập xuất
phát từ thời gian, thủ tục để yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm thanh toán trực tiếp cho
người bị thiệt hại. Vấn đề này hoàn toàn có thể khắc phục được nếu các bên thiện
chí thực hiện đúng các yêu cầu của quy định bảo hiểm nhưng trong trường hợp các
bên không thiện chí, đây sẽ là một thực tiễn pháp lý đáng lưu tâm nghiên cứu do
những bất cập về thủ tục, thời gian phát sinh trong thực tế áp dụng.
Như vậy, bất cập của phương thức thứ nhất này thể hiện ở trình tự thời gian,
thủ tục kéo dài phát sinh từ thực tiễn. Trong trường hợp mặc dù bên gây thiệt hại có
mua bảo hiểm nhưng không yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường ngay cho
người bị thiệt hại mà người gây thiệt hại lại chờ phán quyết của Tòa án tuyên buộc
về nghĩa vụ (số tiền bồi thường) hoặc nếu giữa người gây thiệt hại và doanh nghiệp
bảo hiểm chưa thống nhất được mức chi trả người gây thiệt hại phải bồi thường cho
bị hại thì phải mất thời gian chờ phán quyết của Tòa án thì người bị thiệt hại mới
được bồi thường.
Muốn khắc phục được mặt hạn chế của phương thức bồi thường thông qua
yêu cầu của bên mua bảo hiểm, ta có thể nghiên cứu tiếp phương thức thứ hai là
doanh nghiệp bảo hiểm thanh toán tiền bảo hiểm trực tiếp cho người bị thiệt hại.
1.1.2. Bồi thường thiệt hại trực tiếp cho người bị thiệt hại
Ngoài việc người được bảo hiểm có yêu cầu thì doanh nghiệp bảo hiểm phải
thanh toán tiền bảo hiểm cho người bị thiệt hại như vừa phân tích ở mục trên. Bên
bồi thường thiệt hại còn có thể bồi thường thiệt hại trực tiếp cho người bị thiệt hại
mà không cần thông qua yêu cầu của bên mua bảo hiểm. Tại Khoản 2 Điều 53 Luật
KDBH quy định “Người thứ ba không có quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo
hiểm trả tiền bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. (khoản 2
Điều 58 Luật KDBH năm 2022 quy định “Người thứ ba không có quyền trực tiếp
yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
nước ngoài bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”). Như vậy,
ngoài nguyên tắc chung chính là người thứ ba không có quyền yêu cầu doanh
nghiệp bảo hiểm trả tiền bồi thường thì điều luật có loại trừ trường hợp người thứ ba
được quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bồi thường mà
không cần người mua bảo hiểm phải yêu cầu.
Cụ thể, khoản 1 Điều 14 Nghị định số 03/2021/NĐ-CP ngày 15/01/2021 của
Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, quy định
12
“Khi tai nạn xảy ra, trong phạm vi mức trách nhiệm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo
hiểm phải bồi thường cho người được bảo hiểm số tiền mà người được bảo hiểm đã
bồi thường hoặc sẽ phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
Trường hợp người được bảo hiểm chết, mất năng lực hành vi dân sự theo
quyết định của Tòa án, doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường trực tiếp cho người bị
thiệt hại hoặc người thừa kế của người bị thiệt hại (trong trường hợp người bị thiệt
hại đã chết) hoặc đại diện của người bị thiệt hại (trong trường hợp người bị thiệt
hại mất năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án hoặc chưa đủ sáu
tuổi)”. (Điều 14 Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008 của Chính phủ về
bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, quy định “Trường hợp
chủ xe cơ giới chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn, doanh nghiệp bảo hiểm bồi
thường trực tiếp cho người bị hại”). Ngoài ra, chưa tìm thấy quy định nào khác cho
phép người bị thiệt hại trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải thanh toán tiền
thiệt hại do bên mua bảo hiểm gây ra.
Đây là trường hợp ngoại lệ thể hiện sự linh hoạt của pháp luật trong thực tế
cuộc sống. Để đảm bảo quyền lợi cho người bị thiệt hại khi chủ xe cơ giới (là người
có mua bảo hiểm) đã chết hoặc bị tàn tật vĩnh viễn, không thể tự mình thực hiện
“quyền yêu cầu” bồi thường cho bên thứ ba thì người bị thiệt hại có thể căn cứ trên
thiệt hại thực tế do bên mua bảo hiểm gây ra để thực hiện quyền yêu cầu thanh toán.
Pháp luật các nước có xu hướng cho phép bên bị thiệt hại trực tiếp yêu cầu
doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường cho họ thay vì thực hiện yêu cầu bồi thường
thông qua bên mua bảo hiểm. Điển hình là pháp luật dân sự nước Pháp cũng có các
quy định liên quan đến vấn đề này. Pháp luật Pháp cho phép người bị thiệt hại được
yêu cầu trực tiếp doanh nghiệp bảo hiểm chi trả tiền bồi thường.6 Như vậy, theo tác
giả thì việc cho phép bên bị thiệt hại trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi
thường sẽ đảm bảo được tính kịp thời trong bồi thường thiệt hại. Điều này giúp cho
quyền lợi của người bị thiệt hại trong trường hợp này được đảm bảo tuyệt đối và
nhanh chóng.
Như phân tích trên, hiện nay pháp luật nước ta chỉ cho phép người bị thiệt
hại trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm thanh toán tiền bồi thường trong
trường hợp ngoại lệ chính là khi chủ xe cơ giới chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh
viễn. Thiết nghĩ, không nên chỉ giới hạn ở một trường hợp vừa nêu mà cần xem việc
6
Đỗ Văn Đại (2022), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án (tập
2), Nxb Hồng Đức, tr. 842.
13
người thứ ba bị thiệt hại được quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chi
trả tiền bồi thường cho họ là một vấn đề pháp lý chính thức chứ không còn là ngoại
lệ. Dĩ nhiên, việc thay đổi quy định đồng nghĩa với việc tạo ra một loạt các thủ tục
mới để thi hành quy định mới. Có nghĩa muốn người bị thiệt hại có thể trực tiếp yêu
cầu doanh nghiệp bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm cho họ như một khoản thanh toán
họ đáng được hưởng từ người mua bảo hiểm gây thiệt hại thì người bị thiệt hại phải
có nghĩa vụ chứng minh với doanh nghiệp bảo hiểm về thiệt hại do bên mua bảo
hiểm gây ra.
Theo tác giả Đỗ Văn Đại thì trường hợp này nên khai thác chế định “thực
hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba” được quy định tại Điều 415 BLDS năm
2015 để cho phép người bị thiệt hại yêu cầu trực tiếp người bảo hiểm. Cho rằng,
người gây thiệt hại mua bảo hiểm là một trường hợp “thực hiện hợp đồng vì lợi ích
của người thứ ba” và người thứ ba đó chính là người bị thiệt hại (người có nghĩa vụ
là người bảo hiểm) nên căn cứ điều luật này thì người thứ ba có quyền trực tiếp yêu
cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Việc giải thích theo
hướng này tạo điều kiện thuận lợi cho người bị thiệt hại, tuy nhiên thực tiễn xét xử
chưa được áp dụng và chưa có hướng dẫn cụ thể để thống nhất áp dụng pháp luật.7
Từ các phân tích trên, tác giả đưa ra một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, sau khi làm rõ những vấn đề không thống nhất trong quá trình áp
dụng pháp luật liên quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp
bên gây thiệt hại có tham gia bảo hiểm, xác định cần có hướng dẫn bằng nghị quyết
của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hoặc án lệ về việc không nên chỉ giới hạn ở
một trường hợp người mua bảo hiểm mới được quyền yêu cầu thanh toán bảo hiểm
kể cả khi bên mua bảo hiểm gây ra thiệt hại hoặc bị thiệt hại. Cần xem việc người
thứ ba bị thiệt hại từ người mua bảo hiểm được quyền trực tiếp yêu cầu doanh
nghiệp bảo hiểm chi trả tiền bồi thường cho họ là một vấn đề pháp lý chính thức
chứ không còn là ngoại lệ theo quy định của pháp luật bảo hiểm hiện nay, các lý do
đã được tác giả phân tích tại từng mục cụ thể nêu trên.
Tuy nhiên, nguyên nhân cốt lõi nhất vẫn là bản chất khoản tiền bồi thường từ
bảo hiểm là để khắc phục thiệt hại do bên mua bảo hiểm gây ra. Chính vì vậy, cần
thiết trao quyền yêu cầu cho bên bị thiệt hại để thiệt hại của họ được đảm bảo khắc
7
Đỗ Văn Đại (2022), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án (tập
2), Nxb Hồng Đức, tr. 844.
14
phục nhanh nhất, kịp thời nhất. Dĩ nhiên, để thực hiện được việc này cần có những
quy định, hướng dẫn mang tính hệ thống rõ ràng để quyền lợi của bên mua bảo
hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và người bị thiệt hại đều được thực hiện có hiệu quả.
Thứ hai, trước mắt khi chưa lựa chọn được một bản án chuẩn mực để phát
triển thành án lệ thì cần tổng hợp các bản án giải quyết các tình huống pháp lý
tương tự để rút ra các dấu hiệu đặc trưng, tương đồng nhằm hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật.
Thứ ba, về lâu dài để hoàn thiện pháp luật, người viết kiến nghị Quốc Hội có
chương trình, kế hoạch sửa đổi, bổ sung BLDS, Luật KDBH theo hướng bổ sung
điều luật quy định cụ thể về vấn đề nêu trên.
1.2. Chủ thể liên quan trong quan hệ bồi thƣờng thiệt hại
1.2.1. Doanh nghiệp bảo hiểm tham gia tố tụng
Vụ án thứ nhất: Lý Văn T đã mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho xe mô tô
của T với doanh nghiệp bảo hiểm A. Ngày 02/3/2021, T có hành vi điều khiển xe
mô tô của T tham gia giao thông đường bộ, do không nhường đường cho người đi
bộ, vi phạm khoản 4 Điều 11 Luật Giao thông đường bộ, đã gây tai nạn với người đi
bộ là bà Nguyễn Thị N, hậu quả bà N chết. T bị khởi tố điều tra, gia đình bị hại N
yêu cầu T phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự trên, do T không có điều kiện về kinh tế để bồi thường cho gia đình bị hại
N, nên đã yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng phải đưa doanh nghiệp bảo hiểm A vào
tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
và yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm A bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại N, vì
sau khi gây tai nạn T đã thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm A. Hiện nay, giải
quyết yêu cầu của T có hai quan điểm như sau:
Thứ nhất, cơ quan tiến hành tố tụng phải chấp nhận yêu của của bị can T,
đưa doanh nghiệp bảo hiểm A vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và xem xét, giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại
khi xét xử.
Thứ hai, cơ quan tiến hành tố tụng không chấp nhận yêu của bị can T về việc
đưa doanh nghiệp bảo hiểm A vào tham gia tố tụng trong vụ án.
Theo tác giả Nguyễn Thúy Vân thì trong thực tiễn xét xử tại tỉnh Tuyên
Quang, khi giải quyết vụ án về “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ”, các cơ quan tiến hành tố tụng không đưa doanh nghiệp bảo hiểm vào tham gia
tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc không đưa doanh
15
nghiệp bảo hiểm vào tham gia tố tụng là không đảm bảo quyền và lợi ích của chủ
phương tiện; quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm. Để giải quyết triệt
để vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như đã phân tích trên,
thì các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bắt buộc
phải đưa doanh nghiệp bảo hiểm vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan như quan điểm thứ nhất.8
Vụ án thứ hai: Vụ “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” đối
với bị cáo A là nhân viên lái xe của công ty vận tải X. Trong khi thực hiện nhiệm vụ
được công ty vận tải X phân công, A có hành vi điều khiển xe ô tô tải đi không
đúng phần đường gây tai nạn giao thông làm bị hại B chết. Trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự trên, người đại điện hợp pháp của bị hại B yêu cầu Tòa án phải
đưa công ty bảo hiểm Y là doanh nghiệp đã ký hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân
sự với công ty vận tải X đối với xe ô tô tải nêu trên vào tham gia tố tụng trong vụ án
với tư cách là bị đơn dân sự và yêu cầu công ty bảo hiểm Y trực tiếp bồi thường
thiệt hại cho gia đình bị hại B. Giải quyết yêu cầu của người đại diện hợp pháp của
bị hại B có hai quan điểm như sau:
Thứ nhất, Tòa án phải chấp nhận yêu cầu của người đại diện hợp pháp của bị
hại B, đưa công ty bảo hiểm Y tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là bị đơn
dân sự và xem xét, giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại khi xét xử vụ án.
Thứ hai, Tòa án không chấp nhận yêu cầu của người đại diện hợp pháp của
bị hại B, về việc đưa công ty Bảo hiểm Y tham gia tố tụng trong vụ án.
Tác giả Lê Thanh Vũ có quan điểm thống nhất với quan điểm thứ hai vì cho
rằng việc giải quyết bồi thường thiệt hại trong vụ án này xuất phát từ hành vi của bị
cáo A gây ra là quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; vấn đề bồi thường
thiệt hại cho bị hại B thuộc trách nhiệm bồi thường của bị cáo A hoặc công ty vận
tải X phải được giải quyết trong cùng vụ án hình sự. Còn mối quan hệ giữa công ty
vận tải X và công ty bảo hiểm Y là mối quan hệ giữa người được bảo hiểm và
doanh nghiệp bảo hiểm được phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết giữa
hai bên, không liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại B. Đồng thời,
theo quy định tại khoản 2 Điều 53 Luật KDBH, người thứ ba không có quyền trực
8
Nguyễn Thúy Vân (2021), “Bàn về tư cách tham gia tố tụng của doanh nghiệp bảo hiểm trong việc giải
quyết vụ án hình sự vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 260 Bộ luật
Hình sự”, https://vkstuyenquang.gov.vn/pHome/news/Nghien-cuu-Trao-doi-nghiep-vu/Ban-ve-tu-cachtham-gia-to-tung-cua-Doanh-nghiep-bao-hiem-trong-viec-giai-quyet-vu-an-hinh-su-Vi-pham-quy-dinh-vetham-gia-giao-thong-duong-bo-theo-quy-dinh-tai-Dieu-260-Bo-luat-Hinh-su-1134/, truy cập ngày 02/8/2022.
- Xem thêm -