Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi một bên tham gia bảo hiểm...

Tài liệu Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi một bên tham gia bảo hiểm

.PDF
101
1
65

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ XUÂN HUY TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG KHI MỘT BÊN THAM GIA BẢO HIỂM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG KHI MỘT BÊN THAM GIA BẢO HIỂM Chuyên ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 60.38.01.03 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Văn Đại Học viên: Võ Xuân Huy Lớp: Cao học Luật tại Phú Yên Khóa: 1 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan toàn bộ nội dung luận văn “Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng khi một bên tham gia bảo hiểm” là kết quả của quá trình tổng hợp và nghiên cứu của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS Đỗ Văn Đại. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong luận văn đã được nêu rõ trong phần trích dẫn tài liệu tham khảo; các bản án, thông tin được nêu trong luận văn là trung thực và hoàn toàn chính xác, đúng sự thật. Ngƣời cam đoan Võ Xuân Huy DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CHỮ ĐƢỢC VIẾT TẮT CHỮ VIẾT TẮT 1 Bộ luật Dân sự BLDS 2 Kinh doanh bảo hiểm KDBH 3 Tòa án nhân dân tối cao TANDTC 4 Tòa án nhân dân TAND MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................................2 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .........................................................4 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài ..........................................................5 5. Phƣơng pháp nghiên cứu......................................................................................5 6. Dự kiến kết quả nghiên cứu và giá trị ứng dụng ................................................5 7. Các vấn đề cần giải quyết và bố cục luận văn ....................................................6 CHƢƠNG 1................................................................................................................7 TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG KHI BÊN GÂY THIỆT HẠI CÓ THAM GIA BẢO HIỂM ...................................................7 1.1. Phƣơng thức bồi thƣờng thiệt hại.....................................................................8 1.2. Chủ thể liên quan trong quan hệ bồi thƣờng thiệt hại .................................14 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................19 CHƢƠNG 2..............................................................................................................20 TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG KHI BÊN BỊ THIỆT HẠI CÓ THAM GIA BẢO HIỂM .....................................................20 2.1. Chủ thể có trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại.................................................21 2.2. Quyền yêu cầu đối với ngƣời thứ ba...............................................................27 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................33 KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................34 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan trọng của luật dân sự nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa bên gây thiệt hại và bên bị gây thiệt hại. Thực tiễn pháp lý lại phát sinh trường hợp trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi một bên có tham gia bảo hiểm. Đây là một vấn đề pháp lý phát sinh từ thực tiễn áp dụng pháp luật mà hiện nay pháp luật dân sự nước ta chưa có quy định hoặc hướng dẫn cụ thể. Chính vì thiếu các quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề này dẫn đến việc áp dụng pháp luật khi giải quyết các tranh chấp về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có một bên tham gia bảo hiểm trong các Tòa án tại Việt Nam chưa có sự thống nhất. Việc phân tích quyền, lợi ích chính đáng của các bên chủ thể liên quan đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có bên tham gia bảo hiểm là cần thiết. Hai vấn đề pháp lý cần được tìm hiểu hiện nay chính là các nội dung pháp lý xoay quanh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp bên gây thiệt hại có tham gia bảo hiểm và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp bên bị thiệt hại có tham gia bảo hiểm. Đối với trường hợp bên gây thiệt hại có tham gia bảo hiểm thì phương thức yêu cầu bồi thường thiệt hại nào giúp người bị thiệt hại nhanh chóng được thanh toán khoản tiền bảo hiểm: bồi thường qua yêu cầu của bên mua bảo hiểm hay bồi thường trực tiếp cho người bị thiệt hại. Quy định pháp lý hiện nay cho thấy phương thức yêu cầu bồi thường thiệt hại thông qua yêu cầu của bên mua bảo hiểm là phương thức chính yếu. Tuy nhiên, thực tế áp dụng lại cho thấy tính bất cập của phương thức này thể hiện ở thủ tục rườm rà, mất thời gian, không đảm bảo tính kịp thời khi bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Như vậy, liệu rằng có nên cân nhắc đến phương thức bồi thường thiệt hại trực tiếp cho người bị hại mà không cần thông qua yêu cầu của người gây thiệt hại có tham gia bảo hiểm. Đối với trường hợp bên bị thiệt hại có tham gia bảo hiểm: hiện nay, không có quy định pháp luật nào về việc liệu rằng người bị thiệt hại có tham gia bảo hiểm sẽ được hưởng khoản thanh toán nào: tiền bảo hiểm từ doanh nghiệp bảo hiểm, tiền bồi thường thiệt hại của bên gây thiệt hại hay cả hai khoản tiền vừa nêu. Thực tế xét xử tại các Tòa án hiện nay thể hiện sự không đồng nhất khi giải quyết vấn đề này. Chính vì thế, cần có công trình nghiên cứu để đưa ra các kiến nghị về vấn đề pháp lý vừa nêu là điều tất yếu. Hiện nay, cũng đã có một số tác giả đề cập đến vấn 2 đề này, nhưng mỗi công trình nghiên cứu, bài viết chỉ khai thác một hoặc một vài khía cạnh khác nhau. Xuất phát từ tình hình thực tiễn trong quá trình áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp có một bên tham gia bảo hiểm, việc tìm hiểu vẫn còn mang tính thời sự trong giai đoạn hiện nay. Do đó, để nhận thức rõ hơn quy định pháp luật cũng như những hạn chế tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra định hướng hoàn thiện cơ chế pháp lý về vấn đề nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có một bên tham gia bảo hiểm” để làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tuy vẫn còn tính mới nhưng các nội dung xoay quanh đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có một bên tham gia bảo hiểm” đã được một số công trình nghiên cứu đề cập đến. Phải kể đến những giáo trình đại học, bài báo trên các tạp chí khoa học pháp lý, sách chuyên khảo bình luận khoa học và các luận văn, luận án: Giáo trình: - Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập 2), Nxb Công an nhân dân. Giáo trình phân tích các vấn đề lý luận chung và các trường hợp cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về phương diện lý luận (Chương X). Tuy nhiên, giáo trình này lại chưa phân tích sâu về các vấn đề có liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có một bên tham gia bảo hiểm. - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam. Giáo trình này thể hiện các vấn đề cơ bản liên quan đến trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại. Tác giả sử dụng các kiến thức cung cấp trong giáo trình để phục vụ cho việc nghiên cứu các vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường dân sự. Tuy không có nội dung trực tiếp liên quan đến tách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có một bên tham gia bảo hiểm nhưng công trình nghiên cứu này giúp tác giả luận văn nắm chắc lý luận về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; từ đó định hướng kiến nghị của riêng đề tài phù hợp với nền tảng kiến thức chung. Sách: - Nguyễn Xuân Quang - Lê Nết - Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật dân sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Các tác giả phân tích các vấn đề lý luận chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về 3 phương diện lý luận (Chương IV) nhưng chưa đề cập đến các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi một bên có tham gia bảo hiểm, cũng như các vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Tác giả luận văn nghiên cứu tài liệu này để làm tiền đề xây dựng các kiến nghị cho luận văn. - Đỗ Văn Đại (2022), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam Bản án và bình luận bản án (tập 1, 2), Nxb Hồng Đức. Công trình nghiên cứu này đã phân tích thực trạng bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp có tham gia bảo hiểm, về các trường hợp người gây ra thiệt hại có tham gia bảo hiểm, người bị thiệt hại có tham gia bảo hiểm, quyền yêu cầu bồi thường (yêu cầu trực tiếp doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hoặc yêu cầu người gây ra thiệt hại bồi thường), thời hiệu yêu cầu bồi thường, phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, xác định người bị thiệt hại và người chịu trách nhiệm bồi thường và quyền yêu cầu đối với người thứ ba. Ngoài ra tác giả còn so sánh với quy định pháp luật nước ngoài về trường hợp này. Tác giả tham khảo nhiều vấn đề tại luận văn, đặc biệt là các nội dung so sánh pháp luật giữa các nước về vấn đề nghiên cứu. Tuy nhiên, tác giả và tác giả luận văn này phân tích thực tiễn xét xử khác nhau nên cả hai công trình nghiên cứu đều góp phần làm phong phú hơn vấn đề nghiên cứu. - Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb Hồng Đức. Công trình khoa học này giới thiệu và bình luận chuyên sâu những điểm mới của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005. Theo đó, tác phẩm này nêu lên những điểm mới trong các quy định có liên quan đến những trường hợp bồi thường cụ thể. Đồng thời, quy định mới về việc bỏ yếu tố lỗi là một trong các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được phân tích trong công trình này trực tiếp liên quan đến các phân tích về yếu tố lỗi trong luận văn này. Tác giả đi từ việc nghiên cứu những căn cứ chung để phân tích những yếu tố riêng làm phát sinh trách nhiệm bồi thường khi có một bên tham gia bảo hiểm. Các bài viết khác: - Thanh Thịnh (2020), “Tư cách tham gia tố tụng của Công ty bảo hiểm y tế trong vụ án vi phạm giao thông đường bộ”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử. Bài viết đề cập và phân tích về tư cách pháp lý của doanh nghiệp bảo hiểm khi tham gia vào quá trình tố tụng giải quyết các vụ án vi phạm giao thông đường bộ. Luận văn phân tích và bình luận các bản án có nội dung liên quan đến bài viết này, từ đó nêu lên các kiến nghị về việc đưa các doanh nghiệp bảo hiểm vào tham gia tố tụng trong 4 vụ án về tai nạn giao thông nhằm giải quyết triệt để các khoản thanh toán và quyền yêu cầu bồi hoàn tiền chi trả bảo hiểm. - Đỗ Văn Đại, Nguyễn Thị Khánh Ngân (2022), “Chuyển quyền yêu cầu trong pháp luật bảo hiểm”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 06 tháng 3 năm 2022. Bài viết đề cập và phân tích về khi một người bị thiệt hại và thiệt hại này có người chịu trách nhiệm bồi thường nhưng người bị thiệt hại có bảo hiểm do có hợp đồng với doanh nghiệp bảo hiểm, người bị thiệt hại có thể lựa chọn phương án yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền. Trong trường hợp này, pháp luật đương đại cho phép doanh nghiệp bảo hiểm quay sang yêu cầu người chịu trách nhiệm bồi thường bồi hoàn khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm trả cho người bị thiệt hại. Như vậy, đến thời điểm hiện tại chỉ có công trình của tác giả Đỗ Văn Đại (2022), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án (tập 1, 2), Nxb Hồng Đức mới đề cập đến vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp một bên có tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, chưa có công trình khoa học nào khác tập trung đi sâu nghiên cứu làm rõ những khó khăn, vướng mắc, bất cập và hướng khắc phục việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi một bên tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nêu trên cũng là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng để tác giả nghiên cứu các vấn đề chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong quá trình thực hiện đề tài của mình. Mỗi tài liệu nêu trên đều rất có ý nghĩa trong việc hình thành luận văn này. Tuy nhiên, tác giả luận văn tiếp cận vấn đề theo định hướng ứng dụng. Do vậy, trên cơ sở tham khảo các nội dung trong các công trình vừa nêu, tác giả luận văn cũng phân tích vấn đề theo nhận thức riêng. Từ đó, đưa ra các đề xuất có tính riêng đối với luận văn này. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Nhiệm vụ nghiên cứu: Phân tích quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp có một bên tham gia bảo hiểm. Làm rõ những hạn chế, thiếu sót, khó khăn, không thống nhất trong thực tiễn xét xử các quan hệ pháp luật có tồn tại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có một bên tham gia bảo hiểm tại Việt Nam. - Mục đích nghiên cứu: Đưa ra kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện quy định pháp lý liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có một bên tham gia bảo hiểm. 5 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu: Những quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng của quy định đó tại Tòa án (được thể hiện thông qua các bản án) về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có một bên tham gia bảo hiểm. - Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi của đề tài, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp có một bên tham gia bảo hiểm. Từ hiểu biết thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về đề tài nêu lên quan điểm cá nhân để hoàn thiện cơ chế pháp lý về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có một bên tham gia bảo hiểm. Các tài liệu nghiên cứu gồm các bản án của Tòa án qua các năm. Đồng thời, có so sánh, đối chiếu pháp luật của một số nước đối với quy định về nội dung tương tự. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng xuyên suốt luận văn bằng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích để lý giải, đánh giá nội dung, làm rõ quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi có một bên tham gia bảo hiểm. Phương pháp này được áp dụng trong tất cả các mục của luận văn này. Mục đích sử dụng để phân tích cơ sở pháp lý, làm rõ nội dung của các bản án được dẫn chứng, đồng thời, để đưa ra bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật. - Phương pháp liệt kê để trình bày thực tiễn áp dụng pháp luật của các vấn đề pháp lý đề tài đề cập đến và đối chiếu với các quan điểm khác cũng như làm rõ quy định pháp luật của nước khác liên quan đến nội dung đưa ra. - Phương pháp so sánh để so sánh hướng xét xử của TAND các huyện khác nhau tại Phú Yên và giữa các tỉnh về vấn đề nghiên cứu và so sánh một số quy định BLDS các nước khác. - Phương pháp bình luận án được sử dụng để phân tích các bản án đã được Tòa án xét xử về vấn đề pháp lý đang nghiên cứu; từ đó tìm ra những bất cập trong quy định của pháp luật, làm cơ sở cho đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật. - Phương pháp tổng hợp được sử dụng để đánh giá khái quát những vấn đề nghiên cứu; từ đó đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật và đưa ra được kết luận vấn đề đã nghiên cứu. 6. Dự kiến kết quả nghiên cứu và giá trị ứng dụng Kết quả nghiên cứu nêu ra các bất cập trong thực tiễn xét xử, áp dụng pháp luật và đề xuất hướng giải quyết. Đề tài có giá trị tham khảo đối với những người 6 hành nghề luật, như luật gia, luật sư khi tư vấn cho đương sự để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn có giá trị tham khảo đối với cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án khi giải quyết các vụ án tương tự. 7. Các vấn đề cần giải quyết và bố cục luận văn Xuất phát từ những vấn đề pháp lý cần nghiên cứu được nêu tại phần mở đầu của luận văn, tác giả nhận thấy đối với đề tài này cần phân chia thành hai chương cụ thể để thuận tiện cho việc phân tích, bình luận và định hướng kiến nghị. Theo đó, có thể nhận thấy nổi bật là hai vấn đề cơ bản: bồi thường thiệt hại khi bên gây thiệt hại tham gia bảo hiểm và bồi thường thiệt hại khi bên bị thiệt hại tham gia bảo hiểm: nên cho biết khác nhau cơ bản ở đâu. Đây là hai nội dung chính yếu của luận văn này, được tác giả phân chia thành hai chương nhằm khái quát nội dung chính của luận văn, đồng thời giúp triển khai nội dung công trình nghiên cứu phù hợp hơn. Do vậy, ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm hai chương: Chương 1: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi bên gây thiệt hại tham gia bảo hiểm. Chương 2: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi bên bị thiệt hại tham gia bảo hiểm. 7 CHƢƠNG 1 TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG KHI BÊN GÂY THIỆT HẠI CÓ THAM GIA BẢO HIỂM Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là loại trách nhiệm bồi thường không phát sinh từ quan hệ hợp đồng. Tại Điều 584 BLDS năm 2015 quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự 2015, luật khác có liên quan quy định khác”. Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.1 Hiện nay, ngoài các quy định chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì BLDS năm 2015 chưa đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi bên gây thiệt hại có tham gia bảo hiểm. Nhưng có quy định nghĩa vụ của bên vận chuyển hành khách tại khoản 2 Điều 524 “Mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với hành khách theo quy định của pháp luật” và nghĩa vụ của bên vận chuyển tài sản tại khoản 4 Điều 534 “Mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật”. Do đó, cần nghiên cứu các quy định pháp luật chuyên ngành cũng như thực tiễn xét xử khi giải quyết các tranh chấp này. Khi bên gây thiệt hại có tham gia bảo hiểm thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ khác so với trường hợp không tham gia bảo hiểm, bởi khi đó có ba bên tham gia vào mối quan hệ này: Bên gây thiệt hại, bên bị thiệt hại và bên bảo hiểm. Vậy, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm2 thì bên bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm cho bên gây thiệt hại tham gia bảo hiểm hay trực tiếp cho bên bị thiệt hại, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu bên bảo hiểm trực tiếp chi trả tiền bảo hiểm cho mình hay không. Ngoài ra, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm thì ai là người có quyền đối với số tiền bảo hiểm, trường hợp số tiền bảo hiểm nhiều hơn hoặc ít hơn thiệt hại phải bồi 1 Điều 567 BLDS năm 2005. Khoản 10 Điều 3 Luật KDBH quy định: “Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm”. Khoản 27 Điều 4 Luật KDBH năm 2022 quy định: “Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài, tổ chức tương hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô phải bồi thường, trả tiền bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm”. 2 8 thường thì ai có quyền đối với khoản chênh lệch. Bên cạnh đó, khi bên bị thiệt hại cũng đồng thời là bên gây thiệt hại thì có xảy ra sự kiện bảo hiểm hay không, bên bảo hiểm có nghĩa vụ chi trả tiền bảo hiểm hay không phải chi trả. Mặc dù, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 được sửa đổi, bổ sung năm 2010, 2019 (sau đây gọi tắt là Luật KDBH) chưa có quy định, nhưng đến nay Luật KDBH năm 2022 sắp có hiệu lực thi hành vẫn bỏ ngỏ về các vấn đề nêu trên. Vì vậy, để làm rõ những vướng mắc, bất cập này tác giả phân chia thành hai nội dung để nghiên cứu. 1.1. Phƣơng thức bồi thƣờng thiệt hại Phương thức bồi thường trong lĩnh vực bảo hiểm có thể được hiểu là cách thức mà doanh nghiệp bảo hiểm3 thực hiện chi trả tiền bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ hưởng hoặc người thứ ba bị thiệt hại. Bên mua bảo hiểm là khái niệm pháp lý được sử dụng trong BLDS năm 2005 và được giải thích tại khoản 6 Điều 3 Luật KDBH như sau: “Bên mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm4 và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.” Theo khoản 7 Điều 3 Luật KDBH thì “Người được bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể đồng thời là người thụ hưởng”. Khoản 8 Điều 3 Luật KDBH quy định: Người thụ hưởng là tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ định để nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con người. Khoản 1 Điều 580 BLDS năm 2005 quy định: “bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thứ ba theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm đối với thiệt hại mà bên mua bảo hiểm đã gây ra cho người thứ ba theo mức bảo hiểm đã thỏa thuận hoặc theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 lại bỏ chương Hợp đồng bảo hiểm, đồng nghĩa với việc bỏ đi các quy định chung về hợp đồng bảo hiểm. Do đó, chỉ có Luật KDBH và các văn bản hướng dẫn Luật KDBH điều chỉnh vấn đề pháp lý vừa đề cập. 3 Khoản 5 Điều 3 Luật KDBH quy định “Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm”. 4 Theo Bộ Tài chính, hiện có 77 doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường, bao gồm: 31 công ty bảo hiểm phi nhân thọ, 19 công ty bảo hiểm nhân thọ, 2 công ty tái bảo hiểm, 24 công ty môi giới bảo hiểm và 1 chi nhánh công ty bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài. Ngoài ra, số liệu từ Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cho thấy, tính đến hết tháng 5/2022, tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường ước đạt 94.279 tỷ đồng (tăng trưởng 16% so với cùng kỳ 2021), https://vneconomy.vn/mo-xa-lo-cho-thi-truong-bao-hiem.htm, truy cập ngày 13/9/2022. 9 Theo quy định tại Luật KDBH hiện hành thì khi bên gây thiệt hại có tham gia bảo hiểm, người bị gây thiệt hại có thể được bồi thường bằng số tiền bảo hiểm của bên gây thiệt hại bằng 2 cách: một là được bồi thường thiệt hại thông qua yêu cầu của bên mua bảo hiểm (tức người gây thiệt hại) với doanh nghiệp bảo hiểm; hai là, có thể được bồi thường trực tiếp từ doanh nghiệp bảo hiểm trong một số trường hợp khác do pháp luật quy định mà không cần yêu cầu của bên gây thiệt hại có mua bảo hiểm. Tuy nhiên, phương thức bồi thường và thực tiễn xét xử các vụ án liên quan đến vấn đề này hiện nay như thế nào sẽ được phân tích dưới đây. 1.1.1. Bồi thường thiệt hại thông qua yêu cầu của bên mua bảo hiểm Điều 57 Luật KDBH năm 2000 cũng có quy định tương tự tinh thần của quy định tại BLDS năm 2005, cụ thể: “Theo yêu cầu của người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có thể bồi thường trực tiếp cho người được bảo hiểm hoặc người thứ ba bị thiệt hại”. Điều 71 Luật KDBH năm 2022 quy định “Theo yêu cầu của người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài có thể bồi thường trực tiếp cho người được bảo hiểm hoặc cho người thứ ba bị thiệt hại.” Như vậy, về vấn đề này thì Luật KDBH năm 2022 không có thay đổi gì so với Luật KDBH, theo quy định trên thì khi người mua bảo hiểm (tức người được bảo hiểm) có yêu cầu thì doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu trách nhiệm thanh toán tiền bảo hiểm cho người bị thiệt hại. Điều này hoàn toàn hợp lý bởi vì bên mua bảo hiểm là bên có quyền định đoạt đối với khoản tiền bảo hiểm họ được nhận khi có sự kiện bảo hiểm phát sinh. Trong trường hợp này, người mua bảo hiểm đồng thời là người gây thiệt hại, người này vừa có quyền hưởng tiền bảo hiểm phát sinh theo quy định của pháp luật bảo hiểm; đồng thời lại có nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại theo cơ chế bồi thường nghĩa vụ ngoài hợp đồng theo quy định pháp luật dân sự. Chính vì vậy, người gây thiệt hại hoàn toàn có quyền chuyển quyền nhận số tiền bảo hiểm sang cho người bị thiệt hại thông qua “quyền yêu cầu” đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm phải có trách nhiệm trực tiếp chuyển tiền thanh toán bảo hiểm cho bên bị người được bảo hiểm gây ra thiệt hại. Hoặc cũng có thể chuyển cho người mua bảo hiểm để họ bồi thường cho bên bị thiệt hại. Tác giả luận văn cho rằng việc quy định như trên có cả mặt thuyết phục và không thuyết phục. Thứ nhất, quy định này chứng tỏ việc tôn trọng quyền định đoạt của người mua bảo hiểm đối với số tiền bảo hiểm chính họ đã mua bảo hiểm. Trong 10 mọi trường hợp, kể cả trường hợp người mua bảo hiểm đã gây thiệt hại cho bên thứ ba thì khoản tiền đã đóng bảo hiểm cũng không được tự động chuyển cho người thứ ba bị thiệt hại mà cần phải thực hiện theo yêu cầu của người mua bảo hiểm. Việc này thể hiện việc bảo vệ triệt để quyền lợi của bên mua bảo hiểm. Thứ hai, quy định này lại thể hiện một số mặt chưa phù hợp. Điển hình là việc doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền cho bên bị thiệt hại phải trên cơ sở “yêu cầu” của người mua bảo hiểm (cũng đồng thời là người gây ra thiệt hại). Tuy nhiên, việc thể hiện “quyền yêu cầu” ra sao thì vẫn chưa có quy định cụ thể. Có thể người mua bảo hiểm sẽ gửi cho doanh nghiệp bảo hiểm một văn bản yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải thanh toán tiền bảo hiểm cho bên bị thiệt hại hoặc có thể bằng các hình thức khác. Hiện nay, pháp luật dân sự nước ta chưa có quy định cụ thể việc phương thức người mua bảo hiểm thực hiện quyền yêu cầu đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Điều này sẽ gây ra tình trạng không rõ ràng, gây mất thời gian cho các bên; đặc biệt gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người bị thiệt hại. Bởi lẽ, khi việc chuyển tiền bồi thường thông qua một khâu trung gian (tức yêu cầu của bên mua bảo hiểm) sẽ ảnh hưởng đến tính kịp thời5 trong bồi thường thiệt hại cho người thứ ba bị thiệt hại. Lúc này, thiệt hại cần được bồi thường cấp thiết cho người bị hại nhưng bị các thủ tục yêu cầu rắc rối làm chậm đi thời gian bồi thường. Chính vì thế, việc bên mua bảo hiểm gây thiệt hại cho người thứ ba có thể yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chi trả tiền bồi thường cho bên bị thiệt hại là hoàn 5 Theo điểm c khoản 2 Điều 17 Luật KDBH thì doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ “trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Tuy nhiên, trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc tiền bồi thường cho người thụ hưởng, người được bảo hiểm hoặc có tranh chấp về số tiền bảo hiểm, tiền bồi thường. Tòa án giải quyết tranh chấp đã quyết định doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm hoặc tiền bồi thường theo yêu cầu của nguyên đơn thì có tính lãi hay không. Nếu tính lãi thì từ thời điểm nào, mức lãi suất như thế nào, hiện còn có hai quan điểm như sau: Thứ nhất, doanh nghiệp bảo hiểm chậm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc tiền bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm là thuộc trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại Điều 357 BLDS năm 2015. Theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải trả lãi trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả tính từ ngày tiếp theo của ngày đến hạn trả tiền bảo hiểm theo quy định tại Điều 29 Luật KDBH cho đến khi thanh toán xong theo mức lãi suất hai bên thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Nếu các bên không thỏa thuận thì mức lãi suất quy định tại Điều 468 BLDS năm 2015 là 10%/năm. Thứ hai, do các bên tranh chấp về số tiền bảo hiểm hoặc tiền được bồi thường nên sẽ không phải chịu lãi trên số tiền bảo hiểm hoặc tiền bồi thường cho đến khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực. Trong thực tiễn, đây là một nội dung thường có tranh chấp và văn bản chưa quy định rõ, nên thực tiễn xét xử của Tòa án còn chưa có sự thống nhất. Vấn đề đặt ra là khoản tiền bảo hiểm hoặc tiền bồi thường được thanh toán ở thời điểm nào. Trong trường hợp hợp đồng không có nội dung về chủ đề này, theo quan điểm cá nhân nên theo hướng doanh nghiệp bảo hiểm phải thanh toán tiền bảo hiểm từ thời điểm nhận đủ hồ sơ. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ này thì phải trả lãi chậm trả tính từ ngày nhận đủ hồ sơ mà chưa thanh toán. 11 toàn hợp lý nhằm đảm bảo tối đa quyền định đoạt số tiền bảo hiểm của bên mua bảo hiểm. Tuy nhiên, việc áp dụng trong thực tiễn có thể phát sinh những bất cập xuất phát từ thời gian, thủ tục để yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm thanh toán trực tiếp cho người bị thiệt hại. Vấn đề này hoàn toàn có thể khắc phục được nếu các bên thiện chí thực hiện đúng các yêu cầu của quy định bảo hiểm nhưng trong trường hợp các bên không thiện chí, đây sẽ là một thực tiễn pháp lý đáng lưu tâm nghiên cứu do những bất cập về thủ tục, thời gian phát sinh trong thực tế áp dụng. Như vậy, bất cập của phương thức thứ nhất này thể hiện ở trình tự thời gian, thủ tục kéo dài phát sinh từ thực tiễn. Trong trường hợp mặc dù bên gây thiệt hại có mua bảo hiểm nhưng không yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường ngay cho người bị thiệt hại mà người gây thiệt hại lại chờ phán quyết của Tòa án tuyên buộc về nghĩa vụ (số tiền bồi thường) hoặc nếu giữa người gây thiệt hại và doanh nghiệp bảo hiểm chưa thống nhất được mức chi trả người gây thiệt hại phải bồi thường cho bị hại thì phải mất thời gian chờ phán quyết của Tòa án thì người bị thiệt hại mới được bồi thường. Muốn khắc phục được mặt hạn chế của phương thức bồi thường thông qua yêu cầu của bên mua bảo hiểm, ta có thể nghiên cứu tiếp phương thức thứ hai là doanh nghiệp bảo hiểm thanh toán tiền bảo hiểm trực tiếp cho người bị thiệt hại. 1.1.2. Bồi thường thiệt hại trực tiếp cho người bị thiệt hại Ngoài việc người được bảo hiểm có yêu cầu thì doanh nghiệp bảo hiểm phải thanh toán tiền bảo hiểm cho người bị thiệt hại như vừa phân tích ở mục trên. Bên bồi thường thiệt hại còn có thể bồi thường thiệt hại trực tiếp cho người bị thiệt hại mà không cần thông qua yêu cầu của bên mua bảo hiểm. Tại Khoản 2 Điều 53 Luật KDBH quy định “Người thứ ba không có quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. (khoản 2 Điều 58 Luật KDBH năm 2022 quy định “Người thứ ba không có quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”). Như vậy, ngoài nguyên tắc chung chính là người thứ ba không có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bồi thường thì điều luật có loại trừ trường hợp người thứ ba được quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bồi thường mà không cần người mua bảo hiểm phải yêu cầu. Cụ thể, khoản 1 Điều 14 Nghị định số 03/2021/NĐ-CP ngày 15/01/2021 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, quy định 12 “Khi tai nạn xảy ra, trong phạm vi mức trách nhiệm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho người được bảo hiểm số tiền mà người được bảo hiểm đã bồi thường hoặc sẽ phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Trường hợp người được bảo hiểm chết, mất năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án, doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường trực tiếp cho người bị thiệt hại hoặc người thừa kế của người bị thiệt hại (trong trường hợp người bị thiệt hại đã chết) hoặc đại diện của người bị thiệt hại (trong trường hợp người bị thiệt hại mất năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án hoặc chưa đủ sáu tuổi)”. (Điều 14 Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, quy định “Trường hợp chủ xe cơ giới chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn, doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường trực tiếp cho người bị hại”). Ngoài ra, chưa tìm thấy quy định nào khác cho phép người bị thiệt hại trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải thanh toán tiền thiệt hại do bên mua bảo hiểm gây ra. Đây là trường hợp ngoại lệ thể hiện sự linh hoạt của pháp luật trong thực tế cuộc sống. Để đảm bảo quyền lợi cho người bị thiệt hại khi chủ xe cơ giới (là người có mua bảo hiểm) đã chết hoặc bị tàn tật vĩnh viễn, không thể tự mình thực hiện “quyền yêu cầu” bồi thường cho bên thứ ba thì người bị thiệt hại có thể căn cứ trên thiệt hại thực tế do bên mua bảo hiểm gây ra để thực hiện quyền yêu cầu thanh toán. Pháp luật các nước có xu hướng cho phép bên bị thiệt hại trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường cho họ thay vì thực hiện yêu cầu bồi thường thông qua bên mua bảo hiểm. Điển hình là pháp luật dân sự nước Pháp cũng có các quy định liên quan đến vấn đề này. Pháp luật Pháp cho phép người bị thiệt hại được yêu cầu trực tiếp doanh nghiệp bảo hiểm chi trả tiền bồi thường.6 Như vậy, theo tác giả thì việc cho phép bên bị thiệt hại trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường sẽ đảm bảo được tính kịp thời trong bồi thường thiệt hại. Điều này giúp cho quyền lợi của người bị thiệt hại trong trường hợp này được đảm bảo tuyệt đối và nhanh chóng. Như phân tích trên, hiện nay pháp luật nước ta chỉ cho phép người bị thiệt hại trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm thanh toán tiền bồi thường trong trường hợp ngoại lệ chính là khi chủ xe cơ giới chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Thiết nghĩ, không nên chỉ giới hạn ở một trường hợp vừa nêu mà cần xem việc 6 Đỗ Văn Đại (2022), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án (tập 2), Nxb Hồng Đức, tr. 842. 13 người thứ ba bị thiệt hại được quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chi trả tiền bồi thường cho họ là một vấn đề pháp lý chính thức chứ không còn là ngoại lệ. Dĩ nhiên, việc thay đổi quy định đồng nghĩa với việc tạo ra một loạt các thủ tục mới để thi hành quy định mới. Có nghĩa muốn người bị thiệt hại có thể trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm cho họ như một khoản thanh toán họ đáng được hưởng từ người mua bảo hiểm gây thiệt hại thì người bị thiệt hại phải có nghĩa vụ chứng minh với doanh nghiệp bảo hiểm về thiệt hại do bên mua bảo hiểm gây ra. Theo tác giả Đỗ Văn Đại thì trường hợp này nên khai thác chế định “thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba” được quy định tại Điều 415 BLDS năm 2015 để cho phép người bị thiệt hại yêu cầu trực tiếp người bảo hiểm. Cho rằng, người gây thiệt hại mua bảo hiểm là một trường hợp “thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba” và người thứ ba đó chính là người bị thiệt hại (người có nghĩa vụ là người bảo hiểm) nên căn cứ điều luật này thì người thứ ba có quyền trực tiếp yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Việc giải thích theo hướng này tạo điều kiện thuận lợi cho người bị thiệt hại, tuy nhiên thực tiễn xét xử chưa được áp dụng và chưa có hướng dẫn cụ thể để thống nhất áp dụng pháp luật.7 Từ các phân tích trên, tác giả đưa ra một số kiến nghị như sau: Thứ nhất, sau khi làm rõ những vấn đề không thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật liên quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp bên gây thiệt hại có tham gia bảo hiểm, xác định cần có hướng dẫn bằng nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hoặc án lệ về việc không nên chỉ giới hạn ở một trường hợp người mua bảo hiểm mới được quyền yêu cầu thanh toán bảo hiểm kể cả khi bên mua bảo hiểm gây ra thiệt hại hoặc bị thiệt hại. Cần xem việc người thứ ba bị thiệt hại từ người mua bảo hiểm được quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chi trả tiền bồi thường cho họ là một vấn đề pháp lý chính thức chứ không còn là ngoại lệ theo quy định của pháp luật bảo hiểm hiện nay, các lý do đã được tác giả phân tích tại từng mục cụ thể nêu trên. Tuy nhiên, nguyên nhân cốt lõi nhất vẫn là bản chất khoản tiền bồi thường từ bảo hiểm là để khắc phục thiệt hại do bên mua bảo hiểm gây ra. Chính vì vậy, cần thiết trao quyền yêu cầu cho bên bị thiệt hại để thiệt hại của họ được đảm bảo khắc 7 Đỗ Văn Đại (2022), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án (tập 2), Nxb Hồng Đức, tr. 844. 14 phục nhanh nhất, kịp thời nhất. Dĩ nhiên, để thực hiện được việc này cần có những quy định, hướng dẫn mang tính hệ thống rõ ràng để quyền lợi của bên mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và người bị thiệt hại đều được thực hiện có hiệu quả. Thứ hai, trước mắt khi chưa lựa chọn được một bản án chuẩn mực để phát triển thành án lệ thì cần tổng hợp các bản án giải quyết các tình huống pháp lý tương tự để rút ra các dấu hiệu đặc trưng, tương đồng nhằm hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Thứ ba, về lâu dài để hoàn thiện pháp luật, người viết kiến nghị Quốc Hội có chương trình, kế hoạch sửa đổi, bổ sung BLDS, Luật KDBH theo hướng bổ sung điều luật quy định cụ thể về vấn đề nêu trên. 1.2. Chủ thể liên quan trong quan hệ bồi thƣờng thiệt hại 1.2.1. Doanh nghiệp bảo hiểm tham gia tố tụng Vụ án thứ nhất: Lý Văn T đã mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho xe mô tô của T với doanh nghiệp bảo hiểm A. Ngày 02/3/2021, T có hành vi điều khiển xe mô tô của T tham gia giao thông đường bộ, do không nhường đường cho người đi bộ, vi phạm khoản 4 Điều 11 Luật Giao thông đường bộ, đã gây tai nạn với người đi bộ là bà Nguyễn Thị N, hậu quả bà N chết. T bị khởi tố điều tra, gia đình bị hại N yêu cầu T phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự trên, do T không có điều kiện về kinh tế để bồi thường cho gia đình bị hại N, nên đã yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng phải đưa doanh nghiệp bảo hiểm A vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm A bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại N, vì sau khi gây tai nạn T đã thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm A. Hiện nay, giải quyết yêu cầu của T có hai quan điểm như sau: Thứ nhất, cơ quan tiến hành tố tụng phải chấp nhận yêu của của bị can T, đưa doanh nghiệp bảo hiểm A vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và xem xét, giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại khi xét xử. Thứ hai, cơ quan tiến hành tố tụng không chấp nhận yêu của bị can T về việc đưa doanh nghiệp bảo hiểm A vào tham gia tố tụng trong vụ án. Theo tác giả Nguyễn Thúy Vân thì trong thực tiễn xét xử tại tỉnh Tuyên Quang, khi giải quyết vụ án về “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, các cơ quan tiến hành tố tụng không đưa doanh nghiệp bảo hiểm vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc không đưa doanh 15 nghiệp bảo hiểm vào tham gia tố tụng là không đảm bảo quyền và lợi ích của chủ phương tiện; quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm. Để giải quyết triệt để vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như đã phân tích trên, thì các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bắt buộc phải đưa doanh nghiệp bảo hiểm vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như quan điểm thứ nhất.8 Vụ án thứ hai: Vụ “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” đối với bị cáo A là nhân viên lái xe của công ty vận tải X. Trong khi thực hiện nhiệm vụ được công ty vận tải X phân công, A có hành vi điều khiển xe ô tô tải đi không đúng phần đường gây tai nạn giao thông làm bị hại B chết. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự trên, người đại điện hợp pháp của bị hại B yêu cầu Tòa án phải đưa công ty bảo hiểm Y là doanh nghiệp đã ký hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự với công ty vận tải X đối với xe ô tô tải nêu trên vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là bị đơn dân sự và yêu cầu công ty bảo hiểm Y trực tiếp bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại B. Giải quyết yêu cầu của người đại diện hợp pháp của bị hại B có hai quan điểm như sau: Thứ nhất, Tòa án phải chấp nhận yêu cầu của người đại diện hợp pháp của bị hại B, đưa công ty bảo hiểm Y tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là bị đơn dân sự và xem xét, giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại khi xét xử vụ án. Thứ hai, Tòa án không chấp nhận yêu cầu của người đại diện hợp pháp của bị hại B, về việc đưa công ty Bảo hiểm Y tham gia tố tụng trong vụ án. Tác giả Lê Thanh Vũ có quan điểm thống nhất với quan điểm thứ hai vì cho rằng việc giải quyết bồi thường thiệt hại trong vụ án này xuất phát từ hành vi của bị cáo A gây ra là quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; vấn đề bồi thường thiệt hại cho bị hại B thuộc trách nhiệm bồi thường của bị cáo A hoặc công ty vận tải X phải được giải quyết trong cùng vụ án hình sự. Còn mối quan hệ giữa công ty vận tải X và công ty bảo hiểm Y là mối quan hệ giữa người được bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm được phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết giữa hai bên, không liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại B. Đồng thời, theo quy định tại khoản 2 Điều 53 Luật KDBH, người thứ ba không có quyền trực 8 Nguyễn Thúy Vân (2021), “Bàn về tư cách tham gia tố tụng của doanh nghiệp bảo hiểm trong việc giải quyết vụ án hình sự vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự”, https://vkstuyenquang.gov.vn/pHome/news/Nghien-cuu-Trao-doi-nghiep-vu/Ban-ve-tu-cachtham-gia-to-tung-cua-Doanh-nghiep-bao-hiem-trong-viec-giai-quyet-vu-an-hinh-su-Vi-pham-quy-dinh-vetham-gia-giao-thong-duong-bo-theo-quy-dinh-tai-Dieu-260-Bo-luat-Hinh-su-1134/, truy cập ngày 02/8/2022.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan