Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng...

Tài liệu Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng

.PDF
95
1
114

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CAO NGUYỄN BẢO LIÊN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 - NĂM 2022 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT DÂN SỰ CAO NGUYỄN BẢO LIÊN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THS. LÊ HÀ HUY PHÁT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 - NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tác giả cam đoan tất cả nội dung trong khoá luận tốt nghiệp “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng” là công trình nghiên cứu của tác giả, dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sỹ Lê Hà Huy Phát – giảng viên khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Những thông tin được sử dụng đảm bảo tính trung thực, được trích dẫn cụ thể trong Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục đính kèm, tuân thủ các quy định về pháp luật sở hữu trí tuệ. Tác giả xin chịu mọi trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả Cao Nguyễn Bảo Liên MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG .....................................................................................................................................9 1.1. Khái quát trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng ..................................................................................................................9 1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ...........................................9 1.1.2. Khái niệm vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng ..............................12 1.1.3. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng...................................................................................................15 1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng ......................................................................................................17 1.3. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng ......................................................................................................20 1.3.1. Có thiệt hại thực tế xảy ra cho người tiêu dùng....................................21 1.3.2. Có hành vi sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không đảm bảo chất lượng là hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người tiêu dùng......................23 1.3.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra đối với người tiêu dùng .....................................................................26 1.4. Chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng ................................................................................................................29 1.4.1. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường ...................................................29 1.4.2. Chủ thể được bồi thường ......................................................................32 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................34 CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG - NHỮNG BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ..............35 2.1. Thực trạng áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ......................................................................................................35 2.2. Những bất cập trong nội dung quy định pháp lý và thực tiễn áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng .......................39 2.2.1. Về văn bản pháp luật .........................................................................39 2.2.1.1. Bất cập khi quy định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại 40 2.2.1.2. Quy định yếu tố lỗi chưa có sự đồng bộ............................................43 2.2.2. Về thực tiễn áp dụng .........................................................................44 2.2.2.1. Khó khăn trong việc phân định nghĩa vụ chứng minh thiệt hại ........44 2.2.2.2. Khó khăn khi xác định hành vi trái pháp luật gây thiệt hại...............46 2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng .........46 2.3.1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng .............................................................................................................46 2.3.2. Hoàn thiện quy định về trình tự, thủ tục tố tụng tại Toà án..................49 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................53 KẾT LUẬN ..............................................................................................................54 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................1 PHỤ LỤC………………………………………………………………………….. 6 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đã chính thức gia nhập Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), FTA thế hệ mới này được kỳ vọng này mang lại nhiều lợi ích chiến lược tuy nhiên cũng kèm theo những thách thức cho nền kinh tế thị trường vốn non trẻ. Trước sức ép cạnh tranh khốc liệt của thị trường, người tiêu dùng cũng phải chịu những bất cập do thực trạng cạnh tranh không lành mạnh của các thành phần kinh tế. Những cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh thiếu “ý thức”, không trung thực đã và đang xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Hành vi kinh doanh gian dối, kém đạo đức không chỉ gây ảnh hưởng đến nền kinh tế mà còn để lại những thiệt hại không nhỏ cho tính mạng, sức khoẻ, tài sản và các quyền lợi hợp pháp khác của người tiêu dùng. Quả thật, nền kinh tế thị trường đã đem đến cho người tiêu dùng sự đa dạng trong việc lựa chọn hàng hóa, người tiêu dùng tiếp cận với nhiều mặt hàng, mẫu mã trong và ngoài nước, sự thuận lợi lựa chọn sao cho phù hợp với khả năng tài chính và mục đích sử dụng. Đó cũng là điều kiện để nhà sản xuất, kinh doanh phát triển hơn nữa việc sản xuất, kinh doanh của mình, thu lợi nhuận từ tiêu dùng hàng hoá của người dân. Bên cạnh những doanh nghiệp chân chính với tôn chỉ “khách hàng là thượng đế”, thì đâu đó vẫn còn không ít các nhà sản xuất, kinh doanh vì mục đích kiếm lời mà sẵn sàng ngó lơ, chà đạp lên quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Nhiều vụ việc vi phạm quyền lợi người tiêu dùng do sản xuất, kinh doanh hàng hoá không bảo đảm chất lượng diễn ra gây hoang mang dư luận, nhiều vụ việc bị phanh phui nhưng cũng có trường hợp người tiêu dùng chưa sẵn sàng lên tiếng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình dù bị xâm phạm. Kể từ khi Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Số: 13/1999/PLUBTVQH10 ngày 27 tháng 4 năm 1999 được ban hành và gần nhất là Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 được ban hành và có hiệu lực, số vụ việc khiếu nại, khởi kiện của người tiêu dùng dần tăng lên. Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta có điểm đặc biệt khi quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức, cá nhân kinh doanh khi hàng hóa không bảo đảm chất lượng gây thiệt hại cho NTD. Nó không những có vai trò trong việc bù đắp những tổn thất mà NTD phải 1 gánh chịu mà còn nâng cao trách nhiệm của các chủ thể sản xuất, kinh doanh, có tác dụng hạn chế sự vi phạm xảy ra. Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định đó trên thực tế gặp nhiều khó khăn và không mang lại hiệu quả như mong đợi. Sự thiếu thống nhất với các văn bản pháp luật khác như Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hoá năm 2007 được sửa đổi, bổ sung năm 2018, sự không khả thi của một số quy định pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn khiến cho việc thực thi chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, cần phải có những thay đổi trong cơ chế bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng cả về lý thuyết và thực tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp, nhằm có những cơ chế hỗ trợ phù hợp và hoàn thiện khung hành lang pháp lý, tác giả quyết định thực hiện đề tài: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng” để làm khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua đã có một số bài viết pháp lý, công trình nghiên cứu có liên quan đến đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả đã tìm hiểu, khảo sát những công trình tiêu biểu như sau: ❋ Giáo trình, tập bài giảng, sách chuyên khảo: Tác giả Nguyễn Thị Vân Anh, Nguyễn Văn Cương (2014), Giáo trình luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nxb. Chính trị Quốc gia. Giáo trình đã khái quát chung những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đề cập thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định của pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế giới cũng như trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ hay chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Luật Dân sự (2011), Tập bài giảng Pháp luật về Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức. Tập bài giảng khái quát cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp 2 đồng, làm rõ bản chất pháp lý và ý nghĩa của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng dưới góc độ khoa học và thực tiễn Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức. Giáo trình đề cập các quy định chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, các trường hợp bồi thường thiệt hại cụ thể, phân tích các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Bên cạnh đó, giáo trình cũng đề cập đến trường hợp bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng tuy nhiên chưa đi sâu phân tích và khai thác yếu tố thực tiễn của bồi thường do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Tác giả Đỗ Văn Đại (2018), Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án, Tập 2, (Sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ tư), Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Thông qua việc phân tích, bình luận, đối chiếu với pháp luật nước ngoài các trường hợp cụ thể từ lý luận đến thực tiễn khi tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về cả vật chất và tinh thần được tác giả ghi nhận chi tiết từ đó kiến nghị giải pháp hoàn thiện chế định này. Tác giả Đỗ Văn Đại (2020), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015, (Sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ ba), Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam. Công trình tập trung nghiên cứu, bình luận những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015. Tác giả có đề cập đến những điểm mới của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, những vấn đề pháp lý trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu, công trình nổi bật ở các khía cạnh khoa học về bồi thường thiệt hại và hướng khắc phục những bất cập còn tồn đọng đối với bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Tập thể tác giả Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình khái quát chung về những quy định chung về luật dân sự; quyền sở hữu trí tuệ, quyền thừa kế theo quy định của pháp luật; pháp luật hợp đồng; trách nhiệm bồi thường thiệt 3 hại ngoài hợp đồng … và đề cập một cách sơ lược vấn đề bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Tác giả Phùng Trung Tập (2017), Luật Dân sự Việt Nam (Bình giải và áp dụng)- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Công an nhân dân. Tác giả làm rõ khái niệm và điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đồng thời nêu bình luận và áp dụng các quy định về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Bài viết cũng đề cập một số tình huống thiệt hại ngoài hợp đồng và phong tục, tập quán và luật tục về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Song tác phẩm chưa thực sự đi sâu khai thác trường hợp bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. ❋ Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khoá luận tốt nghiệp: Tác giả Trần Thị Thu (2013), Trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng do hàng hoá không đảm bảo chất lượng gây thiệt hại cho người tiêu dùng, Khoá luận tốt nghiệp. Tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hàng hoá không đảm bảo chất lượng gây ra cho người tiêu dùng, tuy nhiên tác giả chỉ bao quát các đối tượng nghiên cứu mà không đề cập cụ thể loại hàng hoá nào gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Miller và Goldberg, dẫn theo Phạm Thị Phương Anh (2009), Cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sản phẩm có khuyết tật nghiên cứu Luật Việt Nam và Luật Anh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn đề cập nhiều khía cạnh về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trách nhiệm sản phẩm trong luật Việt Nam và Luật Anh trong đó có trách nhiệm dựa trên lỗi và trách nhiệm nghiêm ngặt, các trường hợp miễn trừ trách nhiệm, người chịu trách nhiệm đối với khuyết tật của sản phẩm trong luật khi so sánh pháp luật Việt Nam và Anh. ❋ Các bài viết, tạp chí pháp lý Tác giả Nguyễn Hữu Phúc (2017), “Yêu cầu pháp lý của trách nhiệm sản phẩm theo pháp luật liên minh châu Âu - Bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng, số 03 (112), trang 139 - 142. Trong bài viết này, tác 4 giả chỉ đề cập khái quát pháp luật châu Âu và Việt Nam về yêu cầu pháp lý của trách nhiệm sản phẩm, chủ thể chịu trách nhiệm sản phẩm; một số quy định tiến bộ trong khung pháp lý cho trách nhiệm sản phẩm theo pháp luật Liên minh châu Âu mà Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm trong quá trình xây dựng hệ thống luật và áp dụng pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này. Tác giả chưa có sự đối chiếu cụ thể với thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện của tác giả còn chung chung. Tác giả Nguyễn Trọng Điệp (2013), “Bồi thường thiệt hại trong pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội Luật học, số 02, tập 29, trang 44 - 49. Bắt đầu bài viết tác giả đã cho biết nguồn gốc hình thành của quy định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bắt nguồn từ thời La Mã, cũng giống như những bài viết trước, tác giả đã phân tích sâu những căn cứ phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, tác giả đưa ra các quy định trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Để làm rõ hơn thế nào là hàng hoá không đảm bảo chất lượng, tác giả đã đề cập đến Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá năm 2007 sửa đổi, bổ sung năm 2018. Bên cạnh đó, tác giả phân tích rõ trách nhiệm của các chủ thể là: người sản xuất hàng hoá, người nhập khẩu và người trực tiếp bán hàng hoá cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, tất cả những vấn đề mà tác giả đề cập đến chỉ mang tính chất lý luận, dựa trên những quy định của pháp luật và các quy định khác liên quan để làm nổi bật vấn đề. Vì vậy, không thấy được sự khác biệt giữa thực tiễn và cơ sở pháp luật. Tác giả Quách Thuý Quỳnh (2013), “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng các vụ kiện tập thể - kinh nghiệm nước ngoài và các gợi ý hoàn thiện pháp luật”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 16 (248). Trong bài viết này, tác giả đã nghiên cứu kinh nghiệm của các nước Mỹ, Pháp, Ý, Nhật, … về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thông qua các vụ kiện tập thể từ đó có những kiến nghị hình thức khởi kiện tập thể phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời gian tới. Tác giả Lê Thị Hồng Vân (2016), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do thực phẩm không an toàn gây ra cho người tiêu dùng”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 09 (103)/2016. Tác giả phân tích các quy định của pháp luật và những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do thực phẩm không an toàn gây ra cho người tiêu dùng. Từ đó, tác 5 giả đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn. Tác giả Lê Thị Hồng Vân (2016), “Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hoá không bảo đảm chất lượng gây ra cho người tiêu dùng”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 07 (137)/2020. Bài viết phân tích quy định về lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hoá không bảo đảm chất lượng gây ra cho người tiêu dùng. Đồng thời, tác giả liên hệ thực tiễn xét xử và pháp luật nước ngoài để kiến nghị hoàn thiện pháp luật. 3. Mục đích nghiên cứu Qua quá trình nghiên cứu, tác giả muốn làm rõ những vấn đề như sau: Thứ nhất, xác định rõ về mặt lý luận các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, xác định quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan: nhà sản xuất, nhập khẩu và bán hàng, người tiêu dùng, … xem xét, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành đã bảo vệ tốt quyền lợi của người tiêu dùng hay chưa. Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn, tác giả nêu ra những bất cập còn tồn đọng, tìm hiểu nguyên nhân và hướng giải quyết trong thực tiễn. Đánh giá việc vận dụng pháp luật hiện hành để bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng của cá nhân, tổ chức có thẩm quyền. Thứ ba, đề xuất những giải pháp nhằm giải quyết thực trạng nêu trên và là cơ sở cho những vấn đề pháp lý tương tự. Kiến nghị sửa đổi để hoàn thiện hành lang pháp lý về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng. 4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận, tác giả sẽ tập trung phân tích, đánh giá các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá năm 2007 được sửa đổi, bổ sung năm 2018, các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan và thực trạng bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam để có góc nhìn đa 6 chiều trong việc bảo vệ người tiêu dùng bị thiệt hại. Từ thực tiễn đó, tác giả xin đưa ra những kiến nghị nhằm hạn chế những bất cập và hoàn thiện hành lang pháp lý về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng bị thiệt hại do hàng hoá không bảo đảm chất lượng gây ra. Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng chế định bồi thường thiệt hại trong trường hợp hàng hoá không bảo đảm chất lượng gây ra thiệt hại dưới góc độ bảo vệ người tiêu dùng. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Khoá luận được hình thành trên cơ sở sự kết hợp của chủ nghĩa Mác – Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng và Nhà nước về chế định bồi thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng bị thiệt hại. Về phương pháp nghiên cứu cụ thể, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp đánh giá nhằm đối chiếu các quy định của hệ thống pháp luật trong nước với nhau và giữa Việt Nam với pháp luật các quốc gia khác trên thế giới. Phương pháp phân tích - tổng hợp: phân tích những quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng dưới góc độ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Sau khi phân tích, tác giả tổng hợp nội dung và đưa ra kết luận về nội dung đã phân tích. Phương pháp đánh giá: Từ nội dung của những quy định, thực tiễn đã được đề cập, tác giả đã đưa ra một số đánh giá ở các khía cạnh khác nhau như: tính hợp lý, tính khả thi và hiệu quả khi áp dụng trên thực tế. 6. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, khóa luận được chia làm hai chương: Chương 1. Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng. 7 Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng - Những bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật. 8 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG 1.1. Khái quát trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng 1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại Trong đời sống dân sự, các quan hệ dân sự phát sinh, thay đổi và chấm dứt kèm theo những hệ quả pháp lý khác nhau nên thiệt hại của một trong các chủ thể khi tham gia vào quan hệ dân sự là điều khó tránh khỏi. Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi có thiệt hại phát sinh trong quan hệ dân sự, pháp luật thực định đã ghi nhận sự tồn tại của một hệ thống quy phạm pháp luật - trách nhiệm dân sự. Trách nhiệm dân sự là một chế định trách nhiệm pháp lý được quy định trong pháp luật dân sự. Hiện nay dưới góc độ khoa học pháp lý, trách nhiệm pháp lý được hiểu theo hai nghĩa khác nhau đó là: theo nghĩa tích cực, trách nhiệm pháp lý được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ, thái độ tích cực của cá nhân và vai trò của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện pháp luật. Theo nghĩa tiêu cực, trách nhiệm pháp lý là sự gánh chịu những hậu quả bất lợi về vật chất hoặc tinh thần của chủ thể vi phạm pháp luật, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền đã áp dụng biện pháp cưỡng chế có tính chất trừng phạt đối với chủ thể đó, mà biện pháp cưỡng chế ấy được quy định trong phần chế tài của quy phạm pháp luật 1. Từ đó, có thể hiểu, trách nhiệm dân sự là hậu quả pháp lý bất lợi đối với cá nhân hoặc tổ chức không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ dân sự, hoặc xâm hại lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần của cá nhân, pháp nhân hoặc của các chủ thể khác 2. Liên quan đến trách nhiệm dân sự, có quan điểm cho rằng trách nhiệm dân sự là một căn cứ làm phát sinh một quan hệ nghĩa vụ của chủ thể xác định được, người có hành vi trái pháp luật phải bồi thường cho người bị thiệt hại 3. Trách nhiệm Nguyễn Trung Tín (2014), Trách nhiệm bồi thường của cha mẹ đối với thiệt hại do con chưa thành niên gây ra, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 07. 2 Trường Đại học Luật TP. HCM (2017), Tập bài giảng Lý luận chung về pháp luật (Tái bản lần 1, có sửa đổi bổ sung), Nxb. Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, tr. 253. 3 Phùng Trung Tập (2017), Luật Dân sự Việt Nam (Bình giải và áp dung) – Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 05. 1 9 bồi thường thiệt hại dưới góc độ khoa học pháp lý gồm hai loại là trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cả hai loại đều được ghi nhận tại Bộ luật Dân sự năm 2015. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng phát sinh khi có sự vi phạm hợp đồng giữa các bên trong giao dịch dân sự 4 và chưa thực sự được quy định cụ thể, nằm rải rác trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được ghi nhận từ Bộ luật Dân sự năm 2005 tại Chương XXI và Bộ luật Dân sự năm 2015 kế thừa và phát triển các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Chương XX. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hình thành giữa các chủ thể bất kỳ mà trước đó không có quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không xuất phát từ thực hiện hợp đồng 5. Hai loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại nêu trên có sự khác biệt cơ bản về hệ quả pháp lý, việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo nghĩa vụ ngoài hợp đồng thông thường sẽ làm chấm dứt nghĩa vụ nhưng đối với nghĩa vụ hợp đồng thì việc bồi thường thiệt hại, ngược lại, không giải phóng người có nghĩa vụ khỏi trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ một cách thực tế 6. Bởi lẽ mục tiêu của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là buộc người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm với hành vi trái pháp luật đã gây ra, khắc phục hậu quả từ hành vi đó, đồng thời nhằm bù đắp tổn thất cho người bị thiệt hại nên khi nghĩa vụ bồi thường được thực hiện xong thì quan hệ nghĩa vụ giữa các bên cũng chấm dứt. Chính sự khác biệt trên là một trong những căn cứ phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trong hợp đồng. Khoản 1 Điều 351 Bộ luật Dân sự số: 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015.: “Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ.”. 5 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật về Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Tái bản lần thứ 1, có sửa đổi và bổ sung), Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 375. 6 Bộ Tư pháp – Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (1997), Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của Bộ luật Dân sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 231, dẫn theo Đỗ Văn Đại (2018), Luật Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – Bản án và Bình luận án (Sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ tư), Tập 1, tr.25. 4 10 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bắt nguồn từ việc gây thiệt hại cho chủ thể trong quan hệ dân sự mà không xuất phát từ nghĩa vụ trong hợp đồng, quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong quan hệ dân sự theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện xong thì đương nhiên quan hệ giữa các bên cũng chấm dứt, người gây thiệt hại được giải phóng nghĩa vụ đối với người bị thiệt hại. Thứ hai, yếu tố lỗi không còn là một trong những căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ quy định “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”, quy định này không đề cập đến yếu tố lỗi và khi xem xét các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, pháp luật thực định không yêu cầu phải tồn tại lỗi của người có hành vi gây thiệt hại mới đủ yếu tố phát sinh trách nhiệm dân sự này. Về vấn đề này, tác giả sẽ phân tích rõ hơn ở các nội dung liên quan. Thứ ba, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm bồi thường thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. “Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời” 7, theo tinh thần trên, pháp luật dân sự đặt ra trách nhiệm pháp lý đối với người gây thiệt hại phải bồi thường cả vật chất lẫn tinh thần cho người bị thiệt hại. Cụ thể, trường hợp thiệt hại không chỉ về vật chất (tài sản, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín) mà còn ảnh hưởng đến tinh thần của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại còn phải bồi thường khoản tiền bồi thường tổn thất về tinh thần. Bộ luật Dân sự Nhật Bản năm 1896 cũng có quy định tương tự như vậy, về thiệt hại được bồi thường “Một người phải chịu trách nhiệm về thiệt hại theo quy định của Điều 709 phải bồi thường kể cả thiệt hại phi vật chất, bất kể thiệt hại như vậy xảy ra đối với quyền lợi, uy tín hoặc tài sản của người khác.” 8. Thực tiễn xét xử cũng đã ghi nhận khoản chi phí bồi thường tổn thất về tinh thần, “tiền bù đắp tổn thất về tinh thần 7 8 Khoản 1 Điều 585 Bộ luật Dân sự số: 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015. Điều 710 Bộ luật Dân sự Nhật Bản (Đạo luật số 89) ngày 27 tháng 4 năm 1896 năm 1896. 11 của những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại là ông Nguyễn Đ. Hoàng: Ông Hoàng là trụ cột trong gia đình, có mẹ già con thơ, cái chết của ông Hoàng là mất mát to lớn cho gia đình ông Hoàng nên Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần bằng 70 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định là phù hợp” 9. Khoản bồi thường tổn thất về tinh thần có vai trò không nhỏ trong việc bù đắp những mất mát phi vật chất cho người bị thiệt hại. Như vậy, dưới góc độ pháp lý dân sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một chế định trách nhiệm pháp lý phát sinh do hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác và chế định này buộc người gây thiệt hại phải có trách nhiệm khắc phục những tổn thất về vật chất lẫn tinh thần cho người bị thiệt hại. 1.1.2. Khái niệm vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng Hơn 35 năm kể từ khi Việt Nam chính thức mở cửa thị trường, phát triển nền kinh tế nước ta theo hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam hiện nay đã tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và một số “Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới” trong đó nổi bật là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) – EVFTA, đây là cơ hội cũng là thách thức lớn đối với một quốc gia đang phát triển khi phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường toàn cầu. Tuy vậy, một số cá nhân, tổ chức kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, lợi dụng sự thiếu hiểu biết hay thói quen mua sắm của người tiêu dùng đã xâm phạm đến quyền lợi người tiêu dùng. Trong quan hệ bất đối xứng giữa người tiêu dùng và cá nhân, tổ chức kinh doanh, người tiêu dùng là thế yếu, “dễ bị tổn thương” trước những biến động của nền kinh tế. Pháp luật hiện nay đã có những cơ chế nhất định nhằm bảo vệ người tiêu dùng trước những vi phạm của cá nhân, tổ chức kinh doanh. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 định nghĩa: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá 9 Bản án số: 03/2022/DS-ST ngày: 20-01-2022 của Toà án nhân dân Huyện Hoà Vang, TP. Đà Nẵng. 12 nhân, gia đình, tổ chức” 10. Định nghĩa trên xác định người tiêu dùng bao gồm cả cá nhân và tổ chức thực hiện hoạt động mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt, quy định này được kế thừa từ khái niệm người tiêu dùng theo Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 11. Pháp luật các quốc gia trên thế giới cũng tồn tại những quy định khác nhau về người tiêu dùng. Chẳng hạn quốc gia láng giềng Thái Lan ghi nhận định nghĩa người tiêu dùng bao gồm những chủ thể sau: (i) người mua hoặc sử dụng dịch vụ; (ii) người được chào hàng; (iii) người được đề nghị mua hàng hoá của nhà kinh doanh 12. Còn khái niệm người tiêu dùng của Luật Bảo vệ người tiêu dùng Đài Loan được sửa đổi năm 2017 quy định khái niệm người tiêu dùng là bất kỳ người nào có liên quan đến hoạt động thương mại, hoạt động cho các mục đích tiêu dùng để nhận hàng hóa hoặc dịch vụ 13. Luật Bảo vệ người tiêu dùng Malaysia năm 1999 định nghĩa tương đối cụ thể về người tiêu dùng, theo đó, người tiêu dùng là người: (i) mua hoặc sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ cho mục đích cá nhân, gia đình; và (ii) không sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ vào mục đích cung cấp lại vì mục đích thương mại; tiêu dùng chúng vào quá trình sản xuất; hoặc trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ sửa chữa hoặc xử lý, các hàng hóa và tài sản gắn liền với đất khác 14. Luật Bảo vệ người tiêu dùng Ấn Độ năm 2019 quy định về khái niệm người tiêu dùng có thể hiểu: là bất kỳ người nào (i) mua hàng hoá đã được thanh toán hoặc hứa thanh toán hoặc thanh toán một phần hoặc trả chậm và bất kỳ người sử dụng hàng hoá không là người mua hàng hoá đó, được sự chấp thuận của người mua hàng hoá Khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số: 59/2010/QH12 ngày 17 tháng 11 năm 2010. Điều 1 Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số: 13/1999/PL-UBTVQH10 ngày 27 tháng 4 năm 1999: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, gia đình và tổ chức.”. 12 Điều 3 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Thái Lan năm 1979 (Đạo luật bảo vệ người tiêu dùng, B.E. 2522 (năm 1979) BHUMIBOL ADULYADEJ, REX., được đưa ra vào ngày 30 tháng 4 năm 2522 theo Dương lịch Thái Lan; Năm thứ 34 của Triều đại Hiện tại. 13 Khoản 1 Điều 2 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Đài Loan được sửa đổi ngày 17 tháng 6 năm 2015. 14 Khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Malaysia năm 1999 (Đạo luật 599), sửa đổi mới nhất được thực hiện bởi Đạo luật A1598 được đưa vào sử dụng vào ngày 1 tháng 10 năm 2019. 10 11 13 không bao gồm người lấy hàng hoá để bán lại; (ii) thuê lại hoặc cung cấp bất kỳ dịch vụ nào, khi các dịch vụ đó được cung cấp với sự chấp thuận của người mua hàng hoá đầu tiên, nhưng không bao gồm người sử dụng dịch vụ đó cho bất kỳ thương mại nào mục đích. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 7 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Ấn Độ năm 2019 cũng giải thích cho khái niệm "mục đích thương mại" không bao gồm việc một người sử dụng hàng hóa do người đó mua và sử dụng riêng cho mục đích kiếm sống bằng cách kinh doanh; "mua bất kỳ hàng hóa nào" và "thuê hoặc sử dụng bất kỳ dịch vụ nào" bao gồm các giao dịch ngoại tuyến hoặc trực tuyến thông qua các phương tiện điện tử hoặc điện thoại hoặc bán hàng trực tiếp hoặc tiếp thị đa cấp 15. Theo Chỉ thị của Cộng đồng Châu Âu (ECD) thì khái niệm người tiêu dùng gồm những đặc điểm sau: (i) là bất kỳ cá nhân nào; (ii) mua hàng theo hợp đồng; (iii) mục tiêu của hợp đồng không liên quan đến thương mại, kinh doanh hay nghề nghiệp 16. Khái niệm này xác định người tiêu dùng là cá nhân, mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ không vì mục đích thương mại và không bao gồm người sử dụng hàng hoá, dịch vụ mà không có quan hệ hợp đồng với cá nhân, tổ chức kinh doanh. Luật Bảo vệ người tiêu dùng Anh năm 2015 không đưa ra định nghĩa thế nào là người tiêu dùng. Tuy nhiên, Luật Quyền lợi người tiêu dùng Anh năm 2015 ghi nhận người tiêu dùng là một cá nhân hoạt động cho các mục đích khác hoàn toàn hoặc chủ yếu với mục đích thương mại, kinh doanh, thủ công hoặc nghề nghiệp của cá nhân đó 17. Khái niệm người tiêu dùng của bang Quebec (Canada) không có gì đặc biệt so với quy định của các nước khác trên thế giới. Tuy vậy yếu tố sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ không phân biệt rõ là phát sinh trực tiếp từ hợp đồng mua hàng hóa dịch vụ hay là thụ hưởng các hàng hóa dịch vụ đó từ người khác. Nội hàm của khái niệm Khoản 7 Điều 2 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Ấn Độ năm 2019, Đạo luật chính thức có hiệu lực toàn bộ từ ngày 24 tháng 7 năm 2020. 16 Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương (2009), Báo cáo chuyên đề: So sánh Luật Bảo vệ người tiêu dùng một số nước trên thế giới – Bài học kinh nghiệm và đề xuất một số nội dung cơ bản quy định trong dự thảo Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Việt Nam, Tài liệu phục vụ công tác xây dựng Luật Bảo vệ NTD Việt Nam do Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương thực hiện, tr. 14. 17 Khoản 3 Điều 2 Phần 1 Luật Quyền lợi người tiêu dùng Anh năm 2015, Đạo luật Quyền của Người tiêu dùng có hiệu lực vào ngày 01 tháng 10 năm 2015. 15 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan