Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm...

Tài liệu Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm

.DOC
18
151
108

Mô tả:

Trường Đại học Luật Hà Nội A, ĐẶT VẤN ĐỀ. Là một trong những chế định đầu tiên của pháp luật dân sự, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng luôn được ghi nhận trong pháp luật dân sự của hầu hết các quốc gia. Bộ luật dân sự năm 2005, với nhiều quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã hoàn thiện hơn nữa các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tồn tại trong những văn bản trước đó. Để bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của tập thể, quyền lợi ích hợp pháp của công dân và các chủ thể khác, BLDS quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại với tư cách là chế định độc lập nhằm khôi phục lại những lợi ích bị xâm phạm và bù đắp những thiệt hại xảy ra cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm là một trong những nội dung quan trọng về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I. Khái quát chung về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín Khi xã hội càng tiến bộ thì quyền con người nói chung và quyền nhân thân nói riêng càng được tôn trọng và bảo vệ tốt hơn. Từ nhiều năm trước đây, các quốc gia đã nhận thức được tầm quan trọng của việc công nhận và bảo vệ quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín. Điều này được thể hiện rất rõ trong các văn bản pháp luật quốc tế về quyền con người. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 đã khẳng định: “Không một ai bị xâm phạm một cách độc đoán về đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, hay thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hay tiếng tăm của mình. Mọi người đều có quyền được luật pháp bảo vệ trước những xâm phạm và xúc phạm như vậy” (Điều 12). Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 cũng nhấn mạnh: “ Không ai có thể bị xâm phạm trái phép hay độc đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xúc phạm trái phép đến danh dự và thanh danh. Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 1 Trường Đại học Luật Hà Nội Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại những xâm phạm ấy” (Điều 17). Pháp luật Việt Nam cũng có nhiều quy định nhằm bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân và bảo vệ danh dự, uy tín của tổ chức. Tuy nhiên, trong toàn bộ các quy định hiện hành không nêu khái niệm danh dự, nhân phẩm, uy tín. Bởi vậy, trước hết, cần phải xác định thế nào là danh dự, nhân phẩm, uy tín. Có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm danh dự, nhân phẩm, uy tín, nhưng có thể hiểu khái niệm này như sau: Đối với cá nhân, danh dự là sự đánh giá của xã hội đối với một cá nhân về các mặt đạo đức, phẩm chất chính trị và năng lực của người đó. Danh dự của một con người được hình thành từ những hành động và cách cư xử của người đó, từ công lao và thành tích mà người đó có được. Đối với tổ chức, danh dự là sự đánh giá của xã hội và sự tín nhiệm của mọi người đối với hoạt động của tổ chức đó. Nhân phẩm là phẩm giá con người, là giá trị tinh thần của một cá nhân với tính cách là một con người. Đối với cá nhân, uy tín là giá trị về mặt đạo đức và tài năng được công nhận ở một cá nhân thông qua hoạt động thực tiễn của mình tới mức mà mọi người trong một tổ chức, một dân tộc cảm phục tôn kính và tự nguyện nghe theo. Đối với tổ chức, uy tín là những giá trị tốt đẹp mà tổ chức đạt được trong quá trình hoạt động và được mọi người công nhận. Tuy nhiên, nội dung của ba khái niệm “danh dự”, “nhân phẩm”, “uy tín” có sự đan xen với nhau. Trong đó, khái niệm danh dự là khái niệm rộng nhất, danh dự chứa đựng cả nhân phẩm và uy tín. Do đó, xâm phạm nhân phẩm, uy tín chắc chắn sẽ xâm phạm danh dự của cá nhân, tổ chức. Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 2 Trường Đại học Luật Hà Nội Có ý kiến cho rằng chỉ xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản mới gây hậu quả nghiêm trọng cho cá nhân, tổ chức và cần phải bảo vệ. Ý kiến này hoàn toàn không chính xác. Mặc dù danh dự, nhân phẩm, uy tín là những giá trị nhân thân không trị giá được bằng tiền, tuy nhiên, xâm phạm đến những giá trị này có thể ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của chủ thể bị xâm phạm. Thiệt hại mà chủ thể bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín phải gánh chịu bao gồm cả thiệt hại vật chất và tổn thất tinh thần. Tổ chức bị xâm phạm danh dự, uy tín có thể bị giảm thu nhập, thậm chí bị tuyên bố phá sản; cá nhân bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín cũng có thể bị giảm thu nhập, ảnh hưởng đến hoạt động nghề nghiệp, đến các mối quan hệ xã hội, thậm chí đến sức khoẻ, tính mạng. Rõ ràng, hậu quả mà chủ thể bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín phải gánh chịu cũng rất nghiêm trọng. Đây chính là cơ sở để bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín. Ở nước ta, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín là quyền hiến định, được quy định trong văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất là Hiến pháp. Theo Hiến pháp năm 1992, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín là một trong những quyền cơ bản của công dân. Quyền này được quy định rõ nhất tại Điều 71 cùng với đó là những quy định tại Điều 72 và Điều 73 cũng nhằm bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín được thừa nhận trong Hiến pháp thể hiện sự tôn trọng của chúng ta đối với quyền này; đồng thời có ý nghĩa quan trọng trong việc ban hành các quy định cụ thể để bảo vệ quyền này. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín được quy định cụ thể hơn trong các văn bản pháp luật của nhiều ngành luật khác nhau tạo thành một hệ thống các quy định pháp luật về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín. Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, chủ thể có hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể bị Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 3 Trường Đại học Luật Hà Nội truy cứu trách nhiệm hình sự với các tội danh như: Tội làm nhục người khác (Điều 121), Tội vu khống (Điều 122), Tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính (Điều 226), Tội truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy (Điều 253). Còn trong quá trình tiến hành tố tụng, “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật. Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của của họ mà bị đe doạ đến tính mạng, sức khoẻ, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật” (Điều 7 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003). Cùng với pháp luật Hình sự, pháp luật Dân sự đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín. Có thể nói, pháp luật dân sự quy định chi tiết, cụ thể và đầy đủ nhất về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 31, Điều 37, Điều 38, Điều 611) và các văn bản luật khác như Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 21), Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (Điều 204, Điều 205), Luật báo chí năm 1999 (Điều 9). Trong Bộ luật dân sự năm 2005, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín được quy định tại Điều 37 “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”. Bên cạnh đó, như đã đề cập ở trên, có một số điều luật khác trong Bộ luật bổ trợ cho quy định tại Điều 37 nhằm bảo vệ hiệu quả hơn quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín. Đó là các điều: Điều 9 (Nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự); Điều 38 (Quyền bí mật đời tư); Điều 31 (Quyền của cá nhân đối với hình ảnh); Điều 611 (Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm). Quy định tại các điều luật này được chia thành hai nhóm nội dung: (1) Công nhận quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; (2) Bảo vệ quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín.Điều 37 Bộ luật dân sự quy định rất rõ ràng: “Danh dự, nhân Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 4 Trường Đại học Luật Hà Nội phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng”. Quy định này xuất phát từ Điều 71 Hiến pháp và Điều 9 (Nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự) của Bộ luật dân sự. Mặc dù Điều 37 Bộ luật dân sự chỉ đề cập đến “cá nhân”, tuy nhiên cần phải hiểu rằng: quyền này dành cho cả cá nhân và tổ chức. Theo pháp luật Việt Nam, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, quyền được bảo vệ danh dự, uy tín của tổ chức là quyền dân sự cơ bản của cá nhân, tổ chức mà tất cả các cá nhân, tổ chức khác (trong đó có Nhà nước) phải tôn trọng. Cho nên, mọi hành vi xâm phạm quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, quyền đối với danh dự, uy tín của tổ chức đều bị coi là hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín thường thể hiện bằng cách: Dùng những lời lẽ hoặc hành động có tính chất thóa mạ, khinh bỉ để làm nhục cá nhân, coi thường tổ chức hoặc gán một sự kiện xấu xa cho cá nhân, tổ chức làm cho xã hội đánh giá sai hoặc hình dung sai về cá nhân, tổ chức đó. Sự đánh giá sai sự thật không phụ thuộc vào việc người đưa ra những tin tức đó vô tình hay cố ý. Vì vậy, hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân hay tổ chức đều phải bồi thường thiệt hại. II, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, úy tín của người khác. 1, Điều kiện phát sinh và nguyên tắc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín là một chế định trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Vì vậy, điều kiện phát sinh và nguyên tắc bồi thường khi có sự xâm phạm cũng dựa trên những cơ sơ của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. 1.1, Điều kiện phát sinh. Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 5 Trường Đại học Luật Hà Nội Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại tạo ra nghĩa vụ tương ứng, là một loại trách nhiệm pháp lí được phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật quy định khi một chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm phát sinh khi: - Có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm nhân phẩm, danh dự, uy tín của cá nhân, tổ chức. Thiệt hại bao gồm thiệt hại do tổn thất tinh thần đó là do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm theo quy định của BLDS. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm chi phí hợp lí để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại. Thiệt hại do bị tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin… vì bị hiểu nhầm hoặc cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu. BLDS quy định, Tòa án có thể buộc người xâm hại bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất tinh cho người bị thiệt hại. - Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 6 Trường Đại học Luật Hà Nội chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào xâm phạm đến các quyền tuyệt đối đó. - Phải có lỗi hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại. Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi. Xét hình thức lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng lỗi cố ý hay vô ý. Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ được hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn mong muốn hoặc không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được. Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung,. Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy, những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình sẽ không có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó. Tuy nhiên, có trường hợp người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ hoặc thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại thì phải bồi thường. - Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật: Thiệt hại xảy ra là kết quả tât yếu của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây thiệt hại. Điều này được quy định tại Điều 604 BLDS dưới dạng: “ người nào…xâm phạm…mà gây Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 7 Trường Đại học Luật Hà Nội thiệt hại…thì phải bồi thường”. Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Do đó cần phải xem xét, phân tích đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và toàn diện. Từ đó mới rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân, xác định đúng trách nhiệm của người gây ra thiệt hại. 1.2, Nguyên tắc bồi thường thiệt hại. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho chủ thể phải tuân theo trong quá trình ban hành văn bản pháp luật và áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Các nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 605 BLDS, theo đó thiệt hại phải được bồi thường theo những nguyên tắc sau: - Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Xác định thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ nhằm đảm bảo tính công bằng trong pháp luật dân sự. Thiệt hại bao nhiêu thì người gây thiệt hại phải bồi thường bấy nhiêu. Khi xác định việc bồi thường cần căn cứ các quy định của của pháp luật để xem xét về các loại thiệt hại, mức độ lỗi của các bên… để quyết định mức bồi thường hợp lí, đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, nguyên tắc bồi thường kịp thời nhằm đảm bảo khôi phục lại tình trạng ban đầu trước khi thiệt hại, đảm bảo cuộc sống ổn định cho người bị gây thiệt hại như trước khi bị xâm phạm. Xuất phát từ yêu cầu bồi thường kịp thời cho người bị thiệt hại, tòa án có thể áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự để đảm bảo cuộc sống cho người bị thiệt hại. Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 8 Trường Đại học Luật Hà Nội Trên tinh thần tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ dân sự, pháp luật cho phép giữa các bên gây thiệt hại với bên bị thiệt hại có quyền thỏa thuận về mức bồi thường (có thể cao hơn thiệt hại đã xảy ra) hình thức bồi thường bằng hiện vật, tiền hoặc bằng việc thực hiện một công việc, bồi thường một lần toàn bộ thiệt hại hoặc bồi thường làm nhiều lần…làm sao thuận lợi nhất cho người gây thiệt hại cũng như người bị gây thiệt hại. - Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại qúa lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình. Thiệt hại xảy ra khi nằm ngoài mong muốn của cả hai bên. Do đó, để đảm bảo cho việc bồi thường kịp thời, hay nói cách khác để đảm bảo cho việc bồi thường có tính khả thi, pháp luật cho phép bên gây thiệt hại được giảm mức bồi thường thể hiện việc cho phép bên gây thiệt hại được giảm mức bồi thường thiệt hại. Việc cho phép bên gây thiệt hại được giảm mức bồi thường thiệt hại không được áp dụng tùy tiện mà phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện sau: Bên gây thiệt hại có lỗi vô ý khi gây thiệt hại, thiệt hại xảy ra là quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại. Pháp luật dân sự không quy định mức bồi thường thiệt hại cụ thể là bao nhiêu. Do đó, trường hợp này tòa án cần cân nhắc kỹ về mức độ lỗi cũng như hoàn cảnh kinh tế của người gây thiệt hại để quyết định giảm mức bồi thường cho hợp lí. Khi mức bồi thường thiệt hại không phù hợp với thực tế của người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường. - Vào thời điểm tòa án quyết định mức bồi thường cho người gây thiệt hại, mức bồi thường có thể phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, việc bồi thường thiệt hại có thể được diễn ra trong một thời gian nhất định, do có sự biến đổi của đời sống xã hội, sự thay đổi về tình trạng của người bị thiệt hại, những yếu tố khác ảnh hưởng đến khả năng bồi thường của người gây thiệt Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 9 Trường Đại học Luật Hà Nội hại làm cho mức độ bồi thường không còn phù hợp với thỏa thuận nữa. Theo nguyên tắc này, khi mức bồi thường không còn phù hợp với thỏa thuận, bên gây thiệt hại hoặc bên bị thiệt hại có thể yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức độ bồi thường. 2. Xác định thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Thiệt hại là điều kiện đầu tiên làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại chỉ có thể được thực hiện đầy đủ và chính xác khi xác định “toàn bộ thiệt hại” là bao nhiêu trên cơ sở đó ấn định mức độ bồi thường. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm gồm thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm; thiệt hại do danh dự, uy tín của tổ chức bị xâm phạm. Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại bao gồm: chi phí cần thiết cho việc thu hồi ấn phẩm có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị thiệt hại; chi phí cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm; tiền tàu, xe đi lại, thuê nhà trọ (nếu có) theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí để yêu cầu cơ quan chức năng xác minh sự việc, cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; chi phí cho tổ chức xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại và các chi phí thực tế, cần thiết khác để hạn chế, khắc phục thiệt hại (nếu có). Cá nhân, tổ chức bị xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín được bồi thường thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút nếu trước khi bị xâm phạm, các chủ thể này có thu nhập thực tế, tuy nhiên do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm nên thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. Đối với thiệt hại, trong mọi trường hợp khi danh dự, nhân Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 10 Trường Đại học Luật Hà Nội phẩm, uy tín bị xâm phạm, bên bị xâm phạm được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cụ thể, người có hành vi xâm phạm phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác như sau: - Chi phí hợp lí để hạn chế khắc phục thiệt hại bao gồm: chi phí cần thiết cho việc thu hồi ấn phẩm có nội dung xúc phạm danh dự nhân phẩm, uy tín của người bị gây thiệt hại; chi phí cho việc thu thập tài liệu, chứng cớ chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm; tiền tàu xe đi lại, thuê nhà trọ (nếu có) theo giá trung bình của địa phương nơi thực hiện việc chi phí để yêu cầu cơ quan chứng nhận xác minh sự việc, cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; chi phí tổ chức xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại và các chi phí thực tế cần thiết khác để hạn chế, khắc phục thiệt hại( nếu có). - Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị thiệt hại. . Nếu trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm người bị xâm phạm có thu nhập thực tế nhưng do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm người bị xâm phạm phải thực hiện hững công việc để hạn chế khắc phục thiệt hại, nên khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó. . Việc xác định thu nhập thực tế của người bị xâm phạm và việc xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị xâm phạm được thực hiện như thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Đó là, nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại. Thu nhập bị giảm sút là khoản chênh lệch giữa thu nhập trước khi có hành vi xâm phạm và sau khi xâm phạm, những thu nhập này phải là thu nhập thường xuyên hợp pháp của họ. Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 11 Trường Đại học Luật Hà Nội - Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. . Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phậm được bồi thường cho chính người bị xâm phạm. . Trong mọi trường hợp khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Người bị xâm phạm được bồi thường một khoản tiền bù đắp về tinh thần. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào hình thức xâm phạm (bằng lời nói hay đăng trên báo viết hay báo hình…) hành vi xâm phạm, mức độ lan truyền thông tin xúc phạm.. . Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần cho người bị xâm phạm trước hết do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp về tinh thần phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần nhưng tối đa không quá 10 tháng lương tối thiểu do nhà nước quy định tại thời điểm quyết định bồi thường. Danh dự, nhân phẩm, uy tín thuộc về đời sống tinh thần, về nguyên tắc không thể trị giá được bằng tiền theo nguyên tắc ngang giá trị như trao đổi và không thể phục hồi tình trạng như ban đầu. Nhưng với mục đích an ủi, động viên, bù đắp về tinh thần, cũng như một biện pháp giáo dục nhằm ngăn chặn người có hành vi trái pháp luật. BLDS quy định “bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại”. Đây là một nội dung quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xâm phạm. III, Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín – Thực tiễn ở Việt Nam. Những năm trước đây, các vụ việc xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín hiếm khi được các chủ thể liên quan yêu cầu các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết. Khi bị xâm phạm danh dự, nhân Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 12 Trường Đại học Luật Hà Nội phẩm, uy tín, bên bị xâm phạm thường chấp nhận hoặc thoả thuận với bên xâm phạm để giải quyết với yêu cầu bên xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm, vấn đề bồi thường hầu như không được đặt ra. Nguyên nhân của tình trạng này là tâm lý sợ “vạch áo cho người xem lưng” của các bên, thậm chí bên bị xâm phạm không muốn những người khác biết chuyện của mình, cho dù đó là chuyện không đúng sự thật. Những năm gần đây, số lượng những vụ việc xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín được giải quyết tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tăng lên đáng kể, đặc biệt là số vụ việc được giải quyết theo thủ tục tố tụng tại Toà án. Mặc dù những vụ việc này chủ yếu được giải quyết tại các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà nội và phần lớn liên quan đến cá nhân, tổ chức hoạt động văn học, nghệ thuật. Tuy nhiên, điều này cũng chứng tỏ mức độ nhận thức cao hơn của cá nhân, tổ chức về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín. Xuất phát từ những điểm chưa hoàn thiện của các quy định về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín các cơ quan, tổ chức gặp phải một số vướng mắc khi giải quyết loại vụ vệc này. Thứ nhất, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền gặp khó khăn trong xác định hành vi xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín. Về khó khăn này, xin minh chứng bằng vụ việc ca sĩ Phương Thanh kiện blogger Cogaidolong (Lê Nguyễn Hương Trà) vì hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của Phương Thanh. Ngày 16/10/2007, ca sĩ Phương Thanh đã khởi kiện blogger Cogaidolong (Lê Nguyễn Hương Trà) trước Toà án nhân dân quận Tân Bình (thành phố Hồ Chí Minh) vì blogger đã xúc phạm danh dự của Phương Thanh. Theo Phương Thanh, bài viết về liveshow “Mưa” và bài viết “Chuyện của…Cờ” trên blog của Hương Trà viết về cô với nội dung “sai sự thật, xúc phạm tới danh dự, hạ uy tín”. Ca sĩ Phương Thanh cho rằng trong bài viết “Mưa”, Hương Trà viết “bảo vệ mở rộng cửa cho khán giả nhào vào. Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 13 Trường Đại học Luật Hà Nội Ghế trống đầy…” là không đúng sự thật, hơn nữa hạ uy tín của một ca sĩ tên tuổi như cô. Blogger Hương Trà lại cho rằng bài viết về liveshow “Mưa” là đúng sự thật, vì tối đó trời mưa rất lớn, nơi biểu diễn không có mái che nên khán giả bị ướt, bảo vệ phải mở cửa cho khán giả vào để tránh mưa chứ không phải để miễn mua vé. Còn bài viết “Chuyện của…Cờ” không phải viết về Phương Thanh mà viết theo lối phóng tác. Về vụ việc này, có những quan điểm khác nhau xoay quanh vấn đề mấu chốt: blogger Hương Trà có xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của ca sĩ Phương Thanh hay không. Đây cũng chính là khó khăn dẫn đến vụ việc kéo dài, chưa được giải quyết. Thứ hai, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền gặp khó khăn trong xác định mức bù đắp tổn thất tinh thần. Thực tế, bên bị xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín thường chứng minh tổn thất tinh thần và yêu cầu được bồi thường nhưng mức bồi thường trong bản án, quyết định của Toà án lại rất nhỏ so với tổn thất mà bên bị xâm phạm phải ghánh chịu. Chính vì vậy, bên bị xâm phạm không thấy thoả đáng; bản án, quyết định của Toà án không mang tính thuyết phục, thậm chí còn gây khiếu kiện kéo dài. Thứ ba, tuy các quy định về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín trong Bộ luật dân sự năm 2005 tương đối đầy đủ, bao gồm quy định công nhận quyền và quy định bảo vệ quyền. Trong đó, các quy định về bồi thường thiệt hại khi quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm đầy đủ hơn cả do được Bộ luật dân sự quy định và được hướng dẫn chi tiết trong Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Những quy định về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín trong Bộ luật dân sự năm 2005 cũng thể hiện sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam và các văn bản pháp luật quốc tế về vấn đề này. Nhưng Bộ luật dân sự năm 2005 chỉ quy định cách thức xác định thiệt hại khi xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín trong phần Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 14 Trường Đại học Luật Hà Nội “Xác định thiệt hại” mà không quy định bồi thường thiệt hại do xâm phậm danh dự, nhân phẩm, uy tín là một trường hợp bồi thường thiệt hại cụ thể trong phần “Bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp cụ thể” (từ Điều 613 đến Điều 630). Điều này gây khó khăn trong thực tiễn xác định hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín. Hơn nữa, mặc dù Điều 611 Bộ luật dân sự quy định bên xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín phải bù đắp tổn thất tinh thần cho cá nhân, tổ chức bị xâm phạm. Tuy nhiên, do khó khăn của việc xác định tổn thất tinh thần dẫn đến khó khăn trong việc xác định mức bù đắp cụ thể trong mỗi trường hợp. Vì vậy, trong khi xác định khoản đền bù tòa án còn gặp không ít khó khăn. Từ những hạn chế nêu trên trong thực tiễn giải quyết các vụ việc do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, tổ chức bị xâm phạm. Chính vì vậy, cần phải hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; đồng thời cần nâng cao nhận thức của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội để quyền này được tôn trọng và bảo vệ tốt hơn. IV, Các biện pháp nhằm bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín khi bị xâm phạm. Theo nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự (Điều 9 Bộ luật dân sự), khi quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, có hai loại biện pháp được áp dụng để bảo vệ quyền: Bên bị xâm phạm quyền tự bảo vệ; Bên bị xâm phạm quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ. Biện pháp tự bảo vệ cho phép chủ thể bị xâm phạm quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín được áp dụng những biện pháp nhất định để bảo vệ quyền của mình. Các biện pháp cụ thể mà chủ thể bị xâm phạm quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể lựa chọn để áp dụng là: Thứ nhất, yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm phải công nhận quyền của cá nhân, tổ chức bị xâm phạm; yêu cầu tổ chức, cá nhân có Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 15 Trường Đại học Luật Hà Nội hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc người có hành vi xâm phạm phải xin lỗi, cải chính công khai; yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải bồi thường thiệt hại; yêu cầu chủ thể có hành vi xâm phạm phải thực hiện các nghĩa vụ dân sự khác. Cá nhân, tổ chức bị xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể sử dụng các biện pháp này bằng cách trực tiếp gặp chủ thể vi phạm hoặc sử dụng các phương thức khác như: gọi điện thoại, gửi thư qua bưu điện, gửi thư điện tử, fax; hoặc tiến hành những hành vi cụ thể để bảo vệ quyền của mình. Người bị xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể lựa chọn áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khác nhau để tự bảo vệ quyền của mình. Tuy nhiên, việc cá nhân, tổ chức áp dụng các biện pháp để tự bảo vệ quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình không được trái với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Trong thực tế, khi quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, biện pháp bảo vệ quyền đầu tiên được áp dụng là tự bảo vệ. Trước hết, biện pháp này tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ thể. Hơn nữa, mặc dù không có sự can thiệp của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng trong chừng mực nhất định, biện pháp này cũng giúp nhanh chóng ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm. Thứ hai, cá nhân, tổ chức bị xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cũng có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ. Sau khi xem xét hành vi xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có thể ra quyết định (đối với Toà án là bản án, quyết định) với một hoặc một số nội dung: công nhận quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình; buộc bên xâm phạm quyền phải chấm dứt hành vi vi phạm; buộc bên xâm phạm quyền phải xin lỗi, cải chính công khai; buộc bên xâm phạm quyền phải thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bên xâm phạm quyền phải bồi thường thiệt hại. Tuỳ thuộc vào chủ thể thực hiện hành vi xâm phạm và đặc điểm, tính chất, mức độ của hành vi xâm Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 16 Trường Đại học Luật Hà Nội phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín mà xác định tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín.Chẳng hạn, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể bị xâm phạm khi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, bởi vì hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể gây ra thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần cho tác giả của các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học: người biểu diễn; tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng” (điểm b khoản 1 Điều 204 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005). Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về tinh thần cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường trong giới hạn từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại (khoản 2 Điều 205 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005). C, KẾT THÚC VẤN ĐỀ. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, quyền được bảo vệ danh dự, uy tín của tổ chức là quyền dân sự cơ bản, quan trọng của cá nhân, tổ chức. Khi quyền này bị xâm phạm gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sự tồn tại và phát triển của bên bị xâm phạm, thì người gây thiệt hại phải bồi thường những tổn thất về tinh thần và vật chất. Việc quy định trách nhiệm bồi thường do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự. Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 17 Trường Đại học Luật Hà Nội DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO - Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009; - Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009. - Th.s Nguyễn Như Quỳnh - Khoa Luật Dân sự – Đ.H Luật Hà Nội “Quyền được bảo vệ danh dư, nhân phẩm”. - Th.s Trần Thị Huệ “Cần sửa đổi, bổ sung chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Tạp chí luật học - “Một số ý kiến về khoản tiền bù đắp về tinh thần do bị xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín quy định tại Bộ luật dân sự”, Đinh Văn Quế / TAND. TSNDTC, số 20 (10/2009). - Bộ luật dân sự năm 2005 Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật dân sự 2 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan