Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trách nhiệm bồi thường nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự...

Tài liệu Trách nhiệm bồi thường nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự

.PDF
99
268
128

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THỊ HOÀI TR¸CH NHIÖM BåI TH¦êNG nhµ n-íc Trong ho¹t ®éng tè tông d©n sù LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THỊ HOÀI TR¸CH NHIÖM BåI TH¦êNG nhµ n-íc Trong ho¹t ®éng tè tông d©n sù Chuyên ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN MINH TUẤN HÀ NỘI - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Hoàng Thị Hoài MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG DÂN SỰ .................................................................................. 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm, cơ sở hình thành và ý nghĩa của về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự .......................................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự .............................................................................. 7 1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong tố tụng dân sự ......................................................................................... 10 1.1.3. Ý nghĩa của qui đinh về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự ........................................................... 19 1.2. Cơ sở để qui định về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự ....................................................... 20 1.2.1. Cơ sở pháp lí ...................................................................................... 20 1.2.2. Cơ sở lý luận ...................................................................................... 23 1.2.3. Cơ sở thực tiễn ................................................................................... 24 1.3. Lịch sử hình thành trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự ....................................................... 25 Chương 2: QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG DÂN SỰ ......................................................................... 31 2.1. Chủ thể trong quan hệ về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong tố tụng dân sự ............................................................... 31 2.2. Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường ...................................... 35 2.2.1. Có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật .................................. 38 2.2.2. Có thiệt hại thực tế do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra đối với người bị thiệt hại ........................................... 40 2.3. Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự .......................................................................... 48 2.3.1. Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc người thứ ba .............................................................................. 48 2.3.2. Tòa án ra bản án, quyết định mà biết rõ là trái pháp luật hoặc cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án .................................................................. 55 2.4. Thủ tục bồi thường........................................................................... 56 2.4.1. Yêu cầu giải quyết việc bồi thường ................................................... 56 2.4.2. Thụ lý đơn yêu cầu bồi thường .......................................................... 58 2.4.3. Hồ sơ yêu cầu bồi thường .................................................................. 59 2.4.4. Xác minh thiệt hại .............................................................................. 59 2.4.5. Thương lượng việc giải quyết bồi thường ......................................... 60 2.4.6. Ra quyết định giải quyết bồi thường .................................................. 61 2.4.7. Thủ tục chuyển giao quyết định giải quyết bồi thường ..................... 62 2.4.8. Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Toà án.............................. 64 Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG DÂN SỰ .................. 66 3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự ..................................... 66 3.1.1. Thành quả đạt được trong quá trình thực thi trách nhiệm bồi thường nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự .............................. 66 3.1.2. Thực trạng vi phạm hoạt động tố tụng của Tòa án trong quá trình xét xử các vụ việc dân sự........................................................... 67 3.1.3. Khó khăn, vướng mắc trong áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự ................. 74 3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự .............................. 78 3.2.1. Về điều kiện thực hiện quyền yêu cầu bồi thường............................. 78 3.2.2. Cơ quan có trách nhiệm bồi thường ................................................... 79 3.2.3. Về thời hiệu yêu cầu bồi thường ........................................................ 80 3.2.4. Đối với trách nhiệm của người bị thiệt hại trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ ................................................................................ 82 3.2.5. Việc xác định lỗi của cơ quan nhà nước để xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường ...................................................................... 82 3.2.6. Vấn đề xác định thiệt hại và mức bồi thường .................................... 83 3.2.7. Cơ chế cấp phát kinh phí bồi thường ................................................. 84 3.2.8. Về trách nhiệm hoàn trả ..................................................................... 85 KẾT LUẬN .................................................................................................... 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 88 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự BTNN : Bồi thường nhà nước HĐXX : Hội đồng xét xử HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TNBTCNN : Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 3.1: Tổng hợp việc thụ lý đơn và giải quyết bồi thường của các cơ quan tố tụng từ năm 2010 đến tháng 6/2014 66 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới hiện nay là tiến tới xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; trong đó điều kiện đặt ra đối với một Nhà nước thực sự dân chủ là Nhà nước không thể đứng cao hơn và vận hành chỉ trong khuôn khổ của pháp luật dù rằng Nhà nước là chủ thể duy nhất trong xã hội ban hành pháp luật. Nhà nước với tư cách là một chủ thể công quyền duy nhất trong xã hội, được hình thành từ nhân dân và thực hiện quyền điều hành, quản lý xã hội trong đó có những nhiệm vụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi những quyền và lợi ích hợp pháp này bị xâm phạm. Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là một vấn đề còn rất mới cả về mặt khoa học lẫn thực tiễn pháp luật thực định trên thế giới. Trước đây do sự bức xúc của xã hội công dân trước những hậu quả thiệt hại cho công dân và xã hội xuất phát từ những hành xử, việc làm của một số cán bộ, công chức vô tình hay cố ý gây ra, trong tình hình còn thiếu các văn bản luật pháp qui định, Nhà nước Việt Nam đã có sáng kiến đáp ứng giải quyết có tính chất tình thế, nhất là trong lĩnh vực tố tụng hình sự, bằng hai văn bản: Nghị định số 47/CP ngày 03/05/1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra cùng một số văn bản hướng dẫn thi hành và nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Việc ưu tiên ban hành sớm các văn bản pháp luật trên, do quan tâm trước hết về việc bồi thường các oan sai trên lĩnh vực tố 1 tụng hình sự là hoàn toàn đúng đắn và thể hiện tính cấp bách, vì sự oan sai này sẽ đưa đến những hậu quả hết sức nghiêm trọng vì xâm phạm đến nhân thân, danh dự và cả tính mạng con người. Các văn bản đó mang tính chữa cháy hết sức cần thiết trong giai đoạn còn thiếu luật. Và trong thời gian qua, kết hợp hai văn bản trên với các qui định của Luật Hình sự, Luật Dân sự và cả Luật khiếu nại, tố cáo, các cơ quan thẩm quyền Nhà nước (trong đó có cả cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân) đã bước đầu giải quyết được một số vụ bồi thường thiệt hại về oan sai trong lĩnh vực tố tụng hình sự, cũng như một số thiệt hại trên lĩnh vực dân sự, quản lý hành chính, thậm chí tiến xa hơn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với số cán bộ, công chức có hành vi gây thiệt hại lớn, thiệt hại nghiêm trọng cho công dân, cho đơn vị tổ chức và doanh nghiệp ngoài nhà nước. Nhưng hiện nay, đã đến lúc cần có yêu cầu luật hóa cao hơn về trách nhiệm bồi thường của nhà nước trên nhiều lĩnh vực không chỉ có tố tụng hình sự mà cả tố tụng dân sự, quản lý hành chính Nhà nước, hoạt động thi hành án. Chính vì vậy, mà việc ban hành “Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước” do Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 18/6/2009 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010, theo tôi, là kịp thời để đáp ứng các yêu cầu trên của xã hội công dân, trong một xã hội Việt Nam đang phát triển đa dạng nhiều mặt. Suốt 3 năm qua, với sự nỗ lực, cố gắng của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương, việc thực hiện Luật TNBTCNN đã đạt được những kết quả đáng kể trên các mặt công tác. Cụ thể, về tổ chức bộ máy, biên chế làm công tác bồi thường nhà nước, đã thành lập Cục BTNN thuộc Bộ Tư pháp để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án, đồng thời, phối hợp với TANDTC và VKSNDTC thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động tố tụng. 2 2. Tình hình nghiên cứu Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu có một số chuyên đề nghiên cứu và bài viết liên quan đến nội dung của đề tài như: - Tạp chí Kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 8/2009 tr. 37 – 40 của tác giả Hoàng Thị Quỳnh Chi “Bàn về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính theo dự thảo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”. - Tạp chí Kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 10/2009 tr. 41 – 43 của tác giả Nguyễn Tá Cơ, Thái Thị Thu: “Một số vấn đề về bồi thường Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự - hành chính”. - Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Mai Anh: "Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra". Luận văn này nghiên cứu nhiều vấn đề như đặc điểm, nội dung, bản chất của trách nhiệm Nhà nước trong việc bồi thường thiệt hại do cơ quan có thẩm quyền gây ra trong khi thi hành công vụ và một số khái niệm, trình tự thủ tục cách thức giải quyết BTNN do người có thẩm quyền gây ra khi tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Đồng thời tác giả cũng đề xuất phương hướng hoàn thiện và giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc khắc phục thiệt hại cho công dân. Trong luận án này tác giả tham khảo được nhiều khía cạnh nhất định như: Đặc điểm, cơ sở, nội dung, bản chất của trách nhiệm nhà nước trong việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. - Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thái Phương “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước”. Luận văn đã khái quát một số nội dung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thực trạng pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trong đó tác giải so sánh một số chế định cụ thể của pháp luật Việt Nam với chế định tương ứng của một số nước trên thế giới. 3 - Bài viết "Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" của TS Phùng Trung Tập - Trưởng bộ môn Luật Dân sự, Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong bài viết này có đề cập đến nhiều vấn đề trong đó có nội dung có tính chất tham khảo quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài của tác giả như: Việc phân tích những hành vi có lỗi trong một số loại trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng (về cơ sở xác định lỗi, hình thức lỗi), hay khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Ngoài ra, còn có nhiều chuyên đề, bài viết, bài nghiên cứu của một số tác giả làm công tác xây dựng pháp luật với nội dung đề cập đến nhiều vấn đề cơ bản phục vụ cho quá trình soạn thảo Luật Bồi thường của Nhà nước (trong chương trình chuẩn bị trong năm 2006 của Quốc hội khóa 11) cũng là những tài liệu nghiên cứu quan trọng được tác giả lựa chọn tham khảo khi thực hiện đề tài nghiên cứu. 3. Phạm vi nghiên cứu Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu trách nhiệm bồi thường Nhà nước phát sinh từ hoạt động giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự. Trong bài luận văn này tác giả không nghiên cứu trong lĩnh vực thi hành án dân sự. 4. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài 4.1. Mục đích - Phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳng định rằng Nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại đã gây ra cho cá nhân, tổ chức trong hoạt động tố tụng dân sự. - Trên cơ sở những vấn đề lý luận đã nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự, liên hệ với thực tiễn của Việt Nam để khẳng định sự cần thiết của việc thừa nhận 4 trách nhiệm của Nhà nước và phải thiết lập một cơ chế thực thi nghiêm chỉnh và đầy đủ. - Phân tích những bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự và của thực tiễn thi hành; - Kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự. 4.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu để tìm hiểu sơ lược về lịch sử hình thành của tư tưởng về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự. - Bước đầu phân tích một số vấn đề lý luận để thừa nhận trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự; nêu và đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự ở Việt Nam. - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự. - Trình bày, phân tích và so sánh một số chế định cơ bản trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước của một số quốc gia trên thế giới. - Kiến nghị để hoàn thiện pháp luật của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự. 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, ứng dụng cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài, luận văn còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học tin cậy khác như: Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp và một số phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp khác. 6. Những nét mới của luận văn Phân tích làm rõ sự cần thiết ban hành Luật trách nhiệm bồi thường của 5 Nhà nước, một cơ chế pháp lý hiệu quả ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực nhà nước, nâng cao trách nhiệm công vụ, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Chế định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự ở Việt Nam một mặt xuất phát từ yêu cầu đảm bảo quyền cơ bản của con người trong thực tiễn, một mặt phù hợp với công ước quốc tế về quyền yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức nhà nước gây ra là một trong những quyền cơ bản về dân sự, chính trị của con người. Luận văn đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự. 7. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn Trên cơ sở những phân tích một số vấn đề lý luận cơ bản, luận văn khẳng định việc thừa nhận trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự là hoàn toàn phù hợp, đồng thời luận văn đưa ra cách tiếp cận mới về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự. Chương 2: Qui định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự. Chương 3: Thực trạng áp dụng trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, cơ sở hình thành và ý nghĩa của về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự 1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự Bất kỳ một chế độ xã hội nào chỉ có thể tồn tại và phát triển trên cơ sở có sự ổn định về trật tự xã hội. Các quan hệ xã hội rất phong phú, đa dạng, phức tạp, luôn ở trạng thái vận động và phát triển như trong một “trật tự” nhất định bởi chúng chịu sự điều chỉnh của nhiều loại quy phạm khác nhau. Chủ thể của các quan hệ xã hội khi tham gia vào các quan hệ này chịu sự chi phối của nhiều loại quy phạm và tương ứng với mỗi loại quan hệ do các loại quy phạm khác nhau điều chỉnh, chủ thể phải gánh vác những trách nhiệm xã hội nhất định như trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm chính trị, trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm pháp lý… Hiểu một cách chung nhất, trách nhiệm là sự ràng buộc trong các mối liên kết của con người, trong đó cá nhân hay tổ chức phải thực hiện các nghĩa vụ vì người khác hoặc vì cộng đồng. Trách nhiệm pháp lý là loại trách nhiệm phát sinh trên cơ sở pháp luật, được bảo đảm thực hiện bằng pháp luật. Theo nghĩa rộng, trách nhiệm pháp lý là nghĩa vụ thực hiện tất cả các yêu cầu của pháp luật để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội và gánh chịu những hậu quả bất lợi khi có hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Theo nghĩa hẹp, trách nhiệm pháp lý là việc phải gánh chịu hậu quả bất lợi khi có hành vi trái pháp luật. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm pháp lý đã 7 được quy định ngay từ thời kỳ đầu khi mới có Nhà nước và pháp luật. Trải qua các giai đoạn phát triển, bản chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã có sự thay đổi rõ rệt. Ở thời kỳ cổ đại, khi chính quyền trong xã hội chưa được tổ chức chặt chẽ, cá nhân được phép dùng hình phạt để trừng trị những người có hành vi gây thiệt hại cho mình theo nguyên tắc “trả thù ngang bằng”, “nợ gì trả nấy”. Vì vậy, thời kỳ này được gọi là “chế độ tư nhân phục thù”. Giai đoạn thứ hai, trách nhiệm bồi thường chuyển sang một bước phát triển mới. Thay vì phải chịu hình phạt do nạn nhân trả thù, người gây thiệt hại có thể được “chuộc tội” bằng một số tiền hay thục kim, vì vậy giai đoạn này được gọi là “chế độ thục kim”. Thời kỳ đầu khi chưa có sự can thiệp của pháp luật, việc chuộc lỗi là tự nguyện nên các bên tự thỏa thuận với nhau về tiền chuộc. Giai đoạn sau khi đã có sự điều chỉnh của pháp luật, số tiền chuộc lỗi của bên gây thiệt hại được xác định theo ngạch mức do pháp luật quy định [34, tr.49]. Trong giai đoạn này, hình phạt vẫn được áp dụng cho cả các quan hệ thuộc lĩnh vực luật tư, vì vậy mà chưa có sự phân biệt rõ rệt giữa trách nhiệm hình sự - mục đích để trừng phạt người phạm tội với trách nhiệm dân sự - nhằm mục đích đền bù thiệt hại cho nạn nhân. Đến giai đoạn thứ ba, trách nhiệm bồi thường đã tiến lên một bước phát triển mới khi được tách ra khỏi trách nhiệm hình sự. Bộ máy Nhà nước cùng chức năng quản lý trật tự công dần hoàn thiện và chặt chẽ hơn. Nhà nước có sự can thiệp để bảo vệ trật tự xã hội bằng cách dùng hình phạt để trừng phạt tội phạm. Cá nhân mất quyền tự phục thù mà thay vào đó chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về dân sự để khôi phục, bù đắp những thiệt hại mà họ phải gánh chịu. Như vậy, trải qua một quá trình phát triển lâu dài, cho đến nay, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm pháp lý chịu sự điều chỉnh của Luật tư, cụ thể là một loại trách nhiệm dân sự. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, trách nhiệm bồi 8 thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự, theo đó người gây thiệt hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình đã gây ra. Theo qui định của BLDS: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” [21, Điều 604]. Người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại đó là nguyên tắc cốt lõi trong trách nhiệm bồi thường dân sự của các quốc gia trên thế giới nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức trong xã hội, duy trì công bằng xã hội. Theo nguyên tắc xác định trách nhiệm trong dân sự, người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm bồi thường. Trong mối quan hệ giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại, có những trường hợp người gây thiệt hại ở một vị thế rất đặc biệt - họ là những cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước, gây thiệt hại khi đang thực hiện nhiệm vụ nhân danh Nhà nước. Nhà nước là “tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị” thực hiện các chức năng quản lý nhằm duy trì trật tự xã hội thông qua những cán bộ, công chức trong các cơ quan Nhà nước. Trong quá trình thực thi công vụ, công chức Nhà nước có thể gây thiệt hại trái pháp luật cho bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Mặc dù quan hệ này có liên quan đến việc thực hiện những hoạt động thuộc chức năng quản lý, điều hành mang tính quyền lực của Nhà nước, không thể nói rằng Nhà nước đứng trên pháp luật và không phải chịu trách nhiệm khi gây thiệt hại trái pháp luật cho chủ thể khác. Pháp luật dân sự ghi nhận nguyên tắc khi quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị xâm phạm bởi cá nhân, tổ chức khác thì những chủ thể có hành vi xâm phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật. Trong quan 9 hệ bồi thường thiệt hại vốn là quan hệ mang tính chất dân sự, cơ quan Nhà nước và công dân cần phải được đối xử bình đẳng với nhau. Tuy là chủ thể của công quyền nhưng khi Nhà nước gây ra thiệt hại cũng phải có trách nhiệm bồi thường theo những nguyên tắc chung của luật dân sự như bất cứ chủ thể nào khác. Mục đích cơ bản của việc xác lập trách nhiệm pháp lý này là nhằm bảo vệ quyền lợi của bên bị thiệt hại. Hơn nữa, nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đang trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền – Nhà nước mà trong đó không chỉ mỗi cá nhân, tổ chức mà bản thân Nhà nước và những người đứng đầu chính quyền đều phải tôn trọng pháp luật và bảo đảm các quyền con người. Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với các thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra cho các cá nhân, tổ chức trong xã hội được thiết lập trên cơ sở những tư tưởng về Nhà nước pháp quyền dân chủ theo đó Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về tính hợp pháp trong các hoạt động của mình. Nội dung cơ bản nhất của trách nhiệm bồi thường Nhà nước chính là cam kết của Nhà nước rằng khi cán bộ, công chức có hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức trong xã hội và gây thiệt hại thì Nhà nước sẽ phải bồi thường cho các thiệt hại mà cá nhân, tổ chức này đã gánh chịu. Như vậy, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý trong đó Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra [18, tr.4]. 1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong tố tụng dân sự 1.1.2.1. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường của Nhà nước Nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật có thể mang tư cách chủ thể của quyền lực công (đối với các quan hệ phát sinh trong hoạt động 10 quản lý Nhà nước) hoặc chủ thể thông thường (đối với các quan hệ thuộc lĩnh vực luật tư). Trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý xã hội mà Nhà nước gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì giữa Nhà nước và bên bị thiệt hại phát sinh một quan hệ pháp luật, theo đó Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã gây ra. Xét về bản chất, đây là mối quan hệ dân sự, vì vậy, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là một loại trách nhiệm dân sự. Ngoài những đặc điểm của trách nhiệm dân sự nói chung như do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước áp dụng, áp dụng đối với người có hành vi vi phạm, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế Nhà nước trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có những đặc điểm riêng biệt sau: Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là loại trách nhiệm phát sinh từ hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, vì vậy, nó có những đặc trưng riêng biệt sau đây: Thứ nhất: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là loại “trách nhiệm trực tiếp”. Lý luận về trách nhiệm trực tiếp dựa trên lý do cơ bản: Hành vi của người thi hành công vụ được coi là hành vi của Nhà nước, vì vậy nếu người thi hành công vụ có hành vi gây thiệt hại thì được coi là Nhà nước gây thiệt hại và đương nhiên Nhà nước có trách nhiệm bồi thường.Các quốc gia trên thế giới có hai cách thức tiếp cận vấn đề trách nhiệm bồi thường của Nhà nước: (i) trách nhiệm Nhà nước là trách nhiệm thay thế; và (ii) trách nhiệm Nhà nước là trách nhiệm trực tiếp [4, tr.40]. Nếu coi hành vi của công chức không phải là hành vi của Nhà nước thì trách nhiệm của Nhà nước được xác định là trách nhiệm thay thế. Nhà nước gánh chịu trách nhiệm thay cho công chức Nhà nước khi thi hành công vụ gây thiệt hại bởi một số lý do cơ bản sau: (i) Công chức hành động vì lợi ích của 11 Nhà nước, vì vậy với tư cách là người được hưởng lợi ích, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do công chức của mình gây ra; (ii) Nếu xác định trách nhiệm bồi thường cho công chức thì với khả năng tài chính của mình, công chức không thể bồi thường, và như vậy thì người bị thiệt hại không được bảo đảm quyền lợi. Vì Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nên Nhà nước sẽ thực hiện trách nhiệm bồi thường thay, sau đó công chức Nhà nước có trách nhiệm hoàn trả cho Nhà nước. Tuy nhiên quan điểm này có một số hạn chế: (i) dẫn đến suy diễn là Nhà nước được miễn trách nhiệm – quan niệm lỗi thời ảnh hưởng bởi thuyết “Vua không thể làm gì sai”; (ii) có thể hạn chế phạm vi bồi thường trong các trường hợp công chức Nhà nước gây thiệt hại nhưng không có lỗi; (iii) mâu thuẫn giữa thuyết trách nhiệm thay thế và trách nhiệm bảo vệ công dân của Nhà nước, bởi lẽ nếu Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ công dân thì tại sao Nhà nước lại không chịu trả tiền bồi thường cho công dân với tư cách là trách nhiệm tự thân [4, tr.44]. Thuyết trách nhiệm trực tiếp hiện nay đang chiếm ưu thế trên thế giới. Việc coi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là trách nhiệm trực tiếp dựa trên lý do căn bản: hành vi của cán bộ, công chức là hành vi của Nhà nước, vì vậy, nếu cán bộ, công chức có hành vi gây thiệt hại thì được coi là Nhà nước gây thiệt hại và đương nhiên Nhà nước có trách nhiệm phải bồi thường. Việc coi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là loại trách nhiệm trực tiếp có những ưu thế sau: (i) thuyết này thừa nhận Nhà nước có thể sai và phải chịu trách nhiệm như các chủ thể khác trong xã hội; (ii) có phạm vi áp dụng rộng rãi vì Nhà nước phải bồi thường ngay cả trong trường hợp cán bộ, công chức không có lỗi khi gây thiệt hại; (iii) trong một số trường hợp có thể miễn trách nhiệm cho cán bộ, công chức vì về mặt pháp lý, hành vi gây thiệt hại là hành vi của Nhà nước. Điều này sẽ tránh được việc công chức không thực 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan