BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
HUỲNH NGUYÊN THẢO
TỘI HIẾP DÂM THEO LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TỘI HIẾP DÂM THEO LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Thị Thúy
Học viên: Huỳnh Nguyên Thảo
Lớp: Cao học Luật hình sự và Tố tụng hình sự khóa 30
Mã số học viên: 18300410189
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Huỳnh Nguyên Thảo
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ TỘI HIẾP DÂM..................................................................................................7
1.1. Những vấn đề lý luận của tội hiếp dâm............................................................7
1.1.1. Quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
của con người…..........................................................................................................7
1.1.2. Khái niệm xâm phạm tình dục và các tội xâm phạm tình dục…………………..9
1.1.3. Khái niệm hiếp dâm và tội hiếp dâm…………………………………………12
1.2. Quy định của luật hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm qua các thời kỳ lịch
sử...............................................................................................................................14
1.2.1. Quy định của luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến về tội hiếp dâm…....14
1.2.2. Quy định của luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1985 về
tội hiếp dâm……………………………...................................................................16
1.2.3. Quy định của BLHS năm 1985 về tội hiếp dâm………………………………....19
1.2.4. Quy định của BLHS năm 1999 về tội hiếp dâm………………………………....20
1.2.5. Quy định của BLHS năm 2015 về tội hiếp dâm………………………...........22
1.3. Dấu hiệu định tội và định khung hình phạt của tội hiếp dâm theo BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)……………………………...............................23
1.3.1. Dấu hiệu định tội của tội hiếp dâm....…………………………..........................23
1.3.2. Các tình tiết định khung hình phạt của tội hiếp dâm…...................................33
1.4. Phân biệt tội hiếp dâm với một số tội xâm hại tình dục khác..................... .37
1.4.1. Phân biệt tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS năm 2015) với tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi (Điều 142 BLHS năm 2015)………………….........................................37
1.4.2. Phân biệt tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS năm 2015) với tội cưỡng dâm (Điều
143 BLHS năm 2015)................................................................................................39
1.4.3. Phân biệt tội hiếp dâm (Điều 141BLHS năm 2015) với tội giao cấu hoặc thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều
145 BLHS năm 2015).................................................................................................41
1.5. Quy định về tội hiếp dâm theo luật hình sự một số quốc gia..........................42
1.5.1. Tội hiếp dâm theo luật hình sự Liên bang Nga.…………………......................42
1.5.2. Tội hiếp dâm theo luật hình sự Cộng hòa Pháp ………………........................43
1.5.3. Tội hiếp dâm theo luật hình sự Cộng hòa Philippine.......................................46
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1…………………………………………………………49
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ HOÀN THIỆN
QUY ĐỊNH VỀ TỘI HIẾP DÂM CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.............50
2.1. Thực tiễn áp dụng quy định của luật hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm
...................................................................................................................................50
2.1.1. Những kết quả đạt được trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với
tội hiếp dâm...............................................................................................................50
2.1.2. Những vướng mắc trong quá trình định tội danh...........................................54
2.1.3. Những vướng mắc trong quá trình quyết định hình phạt...............................58
2.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định về tội hiếp dâm.............................................69
2.2.1. Kiến nghị sửa đổi một số quy định của Điều 141 BLHS năm 2015...............69
2.2.2. Kiến nghị sửa đổi văn bản hướng dẫn áp dụng các tội xâm phạm tình
dục.............................................................................................................................72
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .......................................................................................75
KẾT LUẬN..............................................................................................................76
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự
:BLHS.
:BLTTHS.
Trách nhiệm hình sự
:TNHS.
Bộ luật Dân sự
:BLDS.
Bộ luật Tố tụng dân sự
: BLTTDS.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những nhiệm vụ cơ bản của luật hình sự là bảo vệ quyền con người,
quyền công dân (Điều 1 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bên cạnh đó,
cùng với sự phát triển của xã hội thì các giá trị của con người, các quyền con người
càng được nâng cao. Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định rõ
“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất
kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm”. Để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mục tiêu quan trọng nhà
nước Việt Nam luôn đặt ra đó là bảo đảm quyền con người - quyền mà hầu hết các
nước trên thế giới đều thừa nhận và là một trong những thước đo sự phát triển của đất
nước. Chính vì thế vấn đề tội phạm xâm phạm tình dục đang thu hút sự quan tâm của
toàn xã hội. Tội phạm xâm phạm tình dục xâm phạm danh dự, nhân phẩm con người,
gây hậu quả nghiêm trọng cho nạn nhân nói riêng và xã hội nói chung. Trong các loại
tội phạm xâm phạm tình dục thì tội phạm hiếp dâm là loại tội phạm có tính chất nguy
hiểm nhất. Bởi vì tội phạm hiếp dâm không những xâm phạm danh dự, nhân phẩm
con người mà nó còn xâm phạm sức khỏe, thậm chí xâm phạm tính mạng con người
trong một số trường hợp. Thời gian gần đây có nhiều vụ hiếp dâm xảy ra mà thủ đoạn
và hành vi của nó hết sức tàn bạo, dã man. Điều này đã gây ra tâm lý lo sợ cho người
dân, tạo nên sự bất ổn về an ninh, trật tự cho xã hội. BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, đã khắc phục được
những hạn chế của luật hình sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu thể hiện chính sách hình
sự của nhà nước ta trong giai đoạn đổi mới, góp phần phòng, chống và ngăn chặn tội
phạm. Tuy nhiên khi đưa vào áp dụng trong thực tiễn đã gặp phải một số vướng mắc.
Đối với quy định về tội hiếp dâm cũng vậy. Hiện nay quy định về dấu hiệu định tội
hiếp dâm nói riêng và một số tội xâm hại tình dục nói chung vẫn gây ra những cách
hiểu, cách vận dụng khác nhau khi định tội danh và quyết định hình phạt.
Áp dụng pháp luật là một quá trình khó khăn, phức tạp bởi vì lý luận và thực
tiễn là hai phạm trù không thống nhất. Thực tiễn đòi hỏi phải nghiên cứu quy định
của pháp luật hình sự nói chung, quy định của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), gọi tắt là BLHS năm 2015 về tội hiếp dâm nói riêng để phân tích, nhận định,
đánh giá khách quan, toàn diện về tội hiếp dâm. Từ đó mới có thể giải quyết những
2
vướng mắc khi áp dụng trong thực tiễn. Với mong muốn hoàn thiện quy định của
pháp luật hình sự về tội hiếp dâm và góp phần phòng, chống loại tội phạm này một
cách hiệu quả hơn, tác giả chọn đề tài: "Tội hiếp dâm theo quy định của luật hình
sự Việt Nam" để làm luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng
hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu về đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài:
- Các bài viết trên báo, tạp chí khoa học, pháp luật:
“Các tội xâm phạm tình dục: So sánh giữa Bộ luật Hình sự năm 1999 và
năm 2015”, Nguyễn Thị Ngọc Linh, Tạp chí Khoa học & công nghệ Việt Nam điện
tử, tập 58, số 8, tháng 8 năm 20161: Trong bài viết tác giả đã so sánh quy định về các
tội xâm phạm tình dục giữa BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và BLHS
năm 2015. Từ đó chỉ ra những diểm mới của BLHS năm 2015 khi quy định các tội
xâm phạm tình dục về: Số lượng các tội, tên điều luật, một số khái niệm, hình phạt
và hình phạt bổ sung, một số tình tiết định khung, ... Bài viết chỉ nêu những ưu điểm
trong quy định mới đối với các tội xâm hại tình dục, kể cả tội hiếp dâm mà không bàn
đến những điểm bất cập. Trong luận văn “Tội hiếp dâm theo quy định của luật hình
sự Việt Nam” tác giả sẽ phát triển định hướng nghiên cứu về những bất cập trong
những điểm mới của quy định về tội hiếp dâm.
“Dấu hiệu định tội hiếp dâm trong BLHS một số nước trên thế giới và
BLHS Việt Nam năm 2015, một số đề xuất, kiến nghị”, ThS.Nguyễn Thị Ngọc Linh,
Tạp chí Tòa án nhân dân số 01, năm 2018: Đối với bài viết tác này, tác giả nêu dấu
hiệu tội hiếp dâm theo quy định của pháp luật một số nước. Từ đó so sánh với dấu
hiệu định tội hiếp dâm trong luật hình sự Việt Nam, cụ thể là BLHS năm 2015. Thông
qua việc so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với pháp luật hình sự nước ngoài tác giả
đề xuất một số biện pháp hoàn thiện những quy định về dấu hiệu định tội hiếp dâm.
Vì phạm vi giới hạn nên bài vết tập trung nghiên cứu về dấu dấu hiệu định tội hiếp
dâm chứ không nghiên cứu về các tình tiết định khung của tội hiếp dâm. Trong luận
văn “Tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự Việt Nam” tác giả sẽ phát triển
định hướng nghiên cứu cụ thể về những tình tiết định khung của tội hiếp dâm.
Nguyễn Thị Ngọc Linh, So sánh giữa Bộ luật Hình sự năm 1999 và năm 2015 (2016), Tạp chí khoa học &
công nghệ Việt Nam điện tử, tập 58, số 8, tháng 8 năm 2016.
https://b.vjst.vn/index.php/ban_b/article/view/413, truy cập ngày 22/3/2021.
1
3
“Các tội xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi – Những vướng mắc và
kiến nghị”, TS. Phạm Minh Tuyên, Tạp chí Khoa học kiểm sát điện tử, tập 2, số 37,
năm 20202: Bài viết nghiên cứu những vấn đề bất cập trong cách giải thích của Nghị
quyết 06/2019/NQ-HĐTP về một số dấu hiệu định tội và các tình tiết định khung của
các tội xâm phạm tình dục, đồng thời đề xuất các biện pháp giải quyết những bất cập.
Tác giả chỉ đề xuất những biện pháp giải quyết bất cập trong mặt lý luận, chứ không
nghiên cứu thực tiễn áp dụng Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP. Trong luận văn “Tội
hiếp dâm theo quy định của luật hình sự Việt Nam”, tác giả sẽ phát triển định hướng
chỉ ra việc áp dụng Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP trong thực tiễn có những ưu điểm
và hạn chế gì, đồng thời đề ra biện pháp giải quyết những vướng mắc khi áp dụng
trong thực tiễn.
- Sách tham khảo, chuyên khảo:
“Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015, Phần thứ hai: Các tội phạm,
Chương XIV: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
người (Bình luận chuyên sâu)”, Đinh Văn Quế, Nxb Thông tin và truyền thông, năm
2018: Tác giả bàn về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
con người, trong đó có tội hiếp dâm theo quy định mới của BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017). Tác giả tập trung nêu ra những vấn đề lý luận về các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người bao gồm dấu hiệu
định tội và các tình tiết định khung chứ không chỉ ra những vướng mắc. Trong luận
văn “Tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự Việt Nam” tác giả sẽ phát triển
định hướng nêu cụ thể những vướng mắc của tội hiếp dâm và vấn đề áp dụng quy
định về tội hiếp dâm trong thực tiễn.
“Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - phần các tội phạm”, Trường Đại học
Luật Hà Nội (Nxb Công an nhân dân, năm 2018): Quyển sách là giáo trình do nhiều
tác giả cùng nghiên cứu tất cả các tội danh trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) để phục vụ quá trình giảng dạy. Các tác giả có nêu sơ lược những vấn đề
lý luận về tội hiếp dâm, nhưng không chỉ ra những bất cập trong quy định mới về tội
hiếp dâm. Trong luận văn “Tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự Việt Nam”
tác giả sẽ phát triển định hướng nghiên cứu nêu cụ thể về các tình tiết định khung của
tội hiếp dâm và những vướng mắc của tội hiếp dâm.
TS. Phạm Minh Tuyên, Các tội xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi – Những vướng mắc và kiến nghị,
Tạp chí Khoa học kiểm sát điện tử, tập 2, số 37, năm 2020.
https://vjol.info.vn/index.php/tks/article/view/49661, truy cập ngày 22/3/2021.
2
4
- Luận văn:
Luận văn thạc sĩ: “Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Thái Nguyên”, Nguyễn Ngọc Huyền, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam,
Viện Hàn lâm khoa họ xã hội Việt Nam (năm 2018): Luận văn nghiên cứu về dấu
hiệu định tội, các tình tiết định khung đối với tội hiếp dâm theo quy định của BLHS
2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017, nêu ra những điểm mới của quy định về tội hiếp
dâm trong BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) so với BLHS 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009). Thông qua đó đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên và đề ra biện pháp giải quyết những vướng mắc. Luận văn chưa so sánh tội
hiếp dâm với một số tội xâm phạm tình dục khác như: Tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi, tội cưỡng dâm, tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Trong luận văn “Tội hiếp dâm theo quy định
của luật hình sự Việt Nam” tác giả sẽ phát triển định hướng nghiên cứu so sánh tội
hiếp dâm với một số tội xâm phạm tình dục khác, để phân biệt rõ tội hiếp dâm và một
số tội xâm phạm tình dục.
Luận văn thạc sĩ: “Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Quảng Nam”, Nguyễn Thị Quỳnh My, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam,
Viện Hàn lâm khoa họ xã hội Việt Nam (năm 2019): Luận văn nghiên cứu về dấu
hiệu định tội, hình phạt, các tình tiết định khung của tội hiếp dâm và so sánh tội hiếp
dâm với một số tội theo quy định của BLHS 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017, nêu
ra những điểm mới của quy định về tội hiếp dâm trong BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) so với BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Thông qua đó đánh giá
thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và đề ra biện pháp giải quyết những
vướng mắc. Luận văn chưa tìm hiểu quy định về tội hiếp dâm của luật hình sự một
số nước khác. Trong luận văn “Tội hiếp dâm theo luật hình sự Việt Nam” tác giả sẽ
phát triển định hướng nghiên cứu tìm hiểu quy định về tội hiếp dâm của một số nước
để học hỏi, tiếp thu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là phân tích về những vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản
về tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự Việt Nam nói chung và quy định của
BLHS 2015 đã được sửa đổi, bổ sung nói riêng và đánh giá, nhận định thực tiễn áp
dụng quy định về tội hiếp dâm của pháp luật hình sự Việt Nam. Thông qua đó nêu
5
quan điểm của tác giả về những vấn đề bất cập trong việc áp dụng quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam đối với tội hiếp dâm trong giai đoạn hiện nay để đề ra biện
pháp giải quyết những vấn đề bất cập đó.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua mục đích nghiên cứu đã đặt ra, luận văn phải thực hiện được những
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý liên quan đến quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm.
- Phân tích, so sánh, đánh giá những điểm mới trong quy định của luật hình sự
Việt Nam hiện hành về tội hiếp dâm để phát hiện những ưu điểm cũng như những
hạn chế, từ đó đề xuất biện pháp hoàn thiện nhằm dễ dàng áp dụng trong thực tiễn.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng tội hiếp dâm ở Việt Nam từ năm 2018 đến nay
để chỉ ra được những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng, từ đó đề xuất
giải pháp khắc phục.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về vấn đề lý luận và vấn đề pháp lý liên quan tội hiếp dâm
theo quy định của luật hình sự Việt Nam. Đồng thời luận văn cũng nghiên cứu vấn
đề áp dụng quy định của luật hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm trong thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn thực hiện dưới góc độ luật hình sự: Nghiên cứu các yếu tố cấu thành
tội phạm của tội hiếp dâm và các tình tiết định khung hình phạt tội hiếp dâm theo quy
định tại Điều 141 BLHS 2015 và thực tiễn áp dụng quy định Điều 141 BLHS 2015,
cũng như văn bản hướng dẫn để định tội danh và quyết định hình phạt.
Giới hạn về không gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về các vụ án hiếp
dâm do tòa án các cấp xét xử trong cả nước.
Giới hạn về thời gian nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở dữ liệu
thu thập được sau khi BLHS năm 2015 chính thức được áp dụng trong thực tiễn - từ
năm 2018 đến năm 2021.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thứ nhất, tác giả sử dụng phương pháp tư duy lôgic để nhận định, đánh giá
những vấn đề cần phân tích một cách khách quan, chặt chẽ, hệ thống và trình bày
theo bố cục hợp lý.
6
Thứ hai, tác giả sử dụng phương pháp phân tích luật: Phân tích quy định của
luật hình sự Việt Nam nói chung, quy định tại Điều 141 BLHS 2015 nói riêng để làm
rõ cơ sở pháp lý của vấn đề cần nghiên cứu.
Thứ ba, tác giả sử dụng phương pháp so sánh luật. Thông qua việc so sánh các
quy định pháp luật sẽ nhận định, đánh giá được ưu điểm, cũng như điểm hạn chế của
quy định tại Điều 141 BLHS 2015.
Thứ tư, tác giả sử dụng phương pháp bình luận án điển hình để phân tích và nêu
quan điểm về một số bản án mà tác giả chọn làm án điển hình cho công trình nghiên
cứu của mình. Từ đó làm rõ việc áp dụng lý luận để định tội danh, quyết định hình
phạt trong thực tiễn xét xử tội hiếp dâm.
Thứ năm, tác giả sử dụng phương pháp thống kê: Tập hợp các quy định pháp
luật có liên quan cũng như những số liệu, báo cáo, vụ việc từ thực tiễn áp dụng pháp
luật đối với tội hiếp dâm làm cơ sở dữ liệu để phân tích, đánh giá một cách toàn diện
các vấn đề pháp lý và thực tiễn.
6. Điểm mới và sự đóng góp của luận văn
Luận văn sẽ nghiên cứu những điểm mới trong dấu hiệu định tội hiếp dâm.
Đồng thời luận văn cũng nghiên cứu những điểm mới trong quy định về tình tiết định
khung tội hiếp dâm theo quy định tại Điều 141 BLHS 2015. Từ kết quả nghiên cứu
luận văn sẽ có đề xuất biện pháp giải quyết những bất cập, vướng mắc, nhằm hoàn
thiện quy định pháp luật hình sự. Áp dụng pháp luật càng đễ dàng, thuận lợi khi pháp
luật hoàn thiện. Đây là cơ sở để những cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật có
thể tham khảo, vận dụng trong thực tiễn. Từ thực tiễn sẽ góp phần giải thích, tuyên
truyền pháp luật đối với mọi người dân, nâng cao ý thức pháp luật và phòng, chống
tội phạm xâm hại tình dục nói chung và tội phạm hiếp dâm nói riêng đang biến đổi
phức tạp.
7. Bố cục luận văn
Luận văn bao gồm phần Mở đầu, phần Kết luận và 2 chương chính:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về tội hiếp dâm.
- Chương 2: Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện quy định về tội hiếp
dâm của luật hình sự Việt Nam.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
TỘI HIẾP DÂM
1.1. Những vấn đề lý luận của tội hiếp dâm
1.1.1. Quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người
Một xã hội muốn phát triển bền vững phải dựa vào yếu tố quan trọng nhất là
con người. Con người cải biến xã hội: Giao lưu để phát triển văn hóa và lao động, sản
xuất phát để triển kinh tế. Ngoài ra con người cũng làm cách mạng chính trị và cách
mạng xã hội nhằm xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột, tạo ra chế độ mới công bằng, tiến
bộ hơn. Vậy con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển, cần thiết lập môi
trường sống an toàn cho con người. Sức khỏe được xem như tài sản quý báu nhất mà
mỗi người có. Nói một cách dễ hiểu thì sức khỏe là tình trạng cơ thể không có bệnh
tật hoặc không có thương tật. Nhưng theo quan điểm sức khỏe của Tổ chức Y tế thế
giới WHO (World Health Organization) thì sức khỏe không chỉ biểu hiện giá trị về
mặt thể chất mà nó còn bao gồm cả yếu tố tinh thần: “Sức khỏe là trạng thái thoải
mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội và không phải chỉ bao gồm có tình trạng
không có bệnh hay thương tật”3. Thời đại ngày nay, gắn liền với sự tiến bộ của nhân
loại thì nhu cầu về cuộc sống của con người cũng thay đổi. Khoa học, kỹ thuật đạt
trình độ cao, kéo theo kinh tế và văn hóa, y tế, giáo dục cũng phát triển. Đời sống con
người ổn định, các nhu cầu vật chất như ăn, ở, mặc được đáp ứng đầy đủ. Họ không
chỉ cần có cuộc sống ấm no mà còn cần có hạnh phúc: Cơ thể khỏe mạnh kết hợp với
tinh thần vui vẻ, thoải mái, không rối loạn tâm lý.
Mỗi người không thể tách rời nhau trong đời sống cộng đồng. Ngay từ thời tiền
sử con người sớm cùng nhau lao động, săn bắt, hái lượm. Quy luật của phép biện
chứng duy vật đã chứng minh rằng: Con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực
thể xã hội; con người sinh ra đã liên hệ với nhau, tác động lẫn nhau và tác động vào
tự nhiên, xã hội. Cùng với sự biến đổi của xã hội thì các mối quan hệ ngày càng mở
rộng, tạo cho họ sự chú ý về vai trò, vị trí của bản thân trong xã hội. Đến khi ấy vấn
đề danh dự, nhân phẩm sẽ trở thành yếu tố cần quan tâm, bảo vệ. Dưới góc độ xã hội
học thì con người chúng ta luôn có những phẩm chất nhất định. Những phẩm chất
Theo định nghĩa về sức khỏe của WHO vào năm 1946 và năm 2006.
Constitution of the World Health Organization – Basic Documents, Forty-fifth edition, Supplement, October 2006.
3
8
này quy định giá trị của cá nhân. Đó là nhân phẩm. Vậy nhân phẩm là toàn bộ những
phẩm chất mà mỗi con người có được. Nói cách khác, nhân phẩm là giá trị tồn tại của
mỗi con người. Còn danh dự là sự coi trọng, đánh giá cao của dư luận xã hội đối với
một người dựa trên các giá trị tinh thần, đạo đức của người đó. Tôn trọng danh dự,
nhân phẩm là tôn trọng giá trị con người, tôn trọng các quy tắc, chuẩn mực đạo đức.
Dưới góc độ pháp lý: Danh dự, nhân phẩm gắn liền với quyền nhân thân. Danh dự,
nhân phẩm là sự công nhận của cá nhân, của tổ chức, của nhà nước về những giá trị
của con người và sự coi trọng vai trò, vị trí của chủ thể trong quan hệ pháp luật.
Mọi người, mọi công dân không phân biệt dân tộc, giới tính, tôn giáo, điều kiện
kinh tế đều có quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm trở
thành nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật nói chung, ngành luật hình sự nói
riêng. Bảo hộ ở góc độ chính trị thường hiểu là sự cai trị, sự áp đặt, sự yêu cầu của
giai cấp nắm quyền đối với giai cấp yếu thế. Tuy nhiên xét về ý nghĩa pháp lý thì bảo
hộ chính là bảo vệ, giữ gìn, che chở đối với quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể tham
gia quan hệ pháp luật. Vậy phải hiểu như sau: Mọi người, mọi công dân đều có quyền
được pháp luật bảo vệ về các giá trị liên quan đến sức khỏe, danh dự và nhân phẩm.
Công nhận quyền này sẽ bảo đảm không bị sự xâm phạm giữa những cá nhân với
nhau, đồng thời ngăn chặn sự lạm quyền, tùy tiện của chủ thể đại diện quyền lực.
Quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm được ghi
nhận trong pháp luật quốc tế khi Điều 3, Điều 5 và Điều 12 Tuyên ngôn thế giới về
Quyền Con người năm 1948 (The Universal Declaration of Human Rights, thường
được gọi tắt: UDHR) quy định: “Ai cũng có quyền được sống, tự do, và an toàn thân
thể”; “Không ai có thể bị tra tấn hay bị những hình phạt hoặc những đối xử tàn ác,
vô nhân đạo, làm hạ thấp nhân phẩm”; “Không ai có thể bị xâm phạm một cách độc
đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hay bị xúc phạm đến danh dự hay thanh
danh. Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại những xâm phạm ấy”. Xét
ở góc độ tư tưởng – chính trị thì tuyên ngôn không có giá trị pháp lý. Do đó Liên hiệp
quốc ban hành hai công ước bảo vệ các quyền cơ bản của con người: “Công ước về
các quyền dân sự và chính trị” năm 1966 (Việt Nam gia nhập ngày 24 – 9 – 1982) và
“Công ước về các quyền kinh tế - xã hội và văn hóa” năm 1966 (Việt Nam gia nhập
ngày 24 – 9 – 1982). Điều 7 và Điều 17 Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và
Chính trị năm 1966 (International Covenant on Civil and Political Rights, thường
được gọi tắt: ICCPR) quy định: “Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt
một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm…”; “Không ai bị can thiệp
9
một cách tuỳ tiện hoặc bất hợp pháp vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín,
hoặc bị xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín” và “Mọi người đều có quyền
được pháp luật bảo vệ chống lại những can thiệp hoặc xâm phạm như vậy”. Khoản
1 Điều 12 Công ước quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa năm 1966
(International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights, viết tắt: ICESCR)
quy định: “Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận quyền của mọi người được
hưởng một tiêu chuẩn sức khoẻ về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể được”.
Việt Nam là thành viên của ICCPR và ICESCR nên “nội luật hóa” quyền được bảo
hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm trong hệ thống pháp luật quốc gia. Quyền này
được quy định từ Hiến pháp Việt Nam năm 1980. Sau các lần sửa đổi, bổ sung thì
khoản 1 Điều 20 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định rõ hơn: “Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và
nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối
xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.
Quy định và chế tài của luật hình sự nghiêm khắc nhất. Bởi vì luật hình sự điều
chỉnh các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Chương XIV BLHS năm 2015 quy định
về Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người (từ
Điều 123 đến Điều 156). Đây là cơ sở để chể tài các hành vi phạm tội, nhằm bảo đảm
an ninh, trật tự xã hội, bảo đảm quyền con người. Riêng BLTTHS thể chế hóa thành
một nguyên tắc cơ bản để bảo đảm việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự. Điều 12 của Chương II (chương về những nguyên tắc cơ bản) BLTTHS
2015 quy định: “Mọi người có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, tài sản” và “Mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; xâm phạm danh dự, uy tín, tài
sản của pháp nhân đều bị xử lý theo pháp luật”.
1.1.2. Khái niệm xâm phạm tình dục và các tội xâm phạm tình dục
Quyền về tình dục là quyền thuộc nhóm quyền sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
đã được WHO, Liên hiệp quốc và pháp luật các quốc gia công nhận. Hiện nay có
nhiều cách định nghĩa về quyền tình dục, tuy nhiên chưa có một định nghĩa chính
thức nào được quốc tế thừa nhận. Theo Liên đoàn quốc tế các bậc cha mẹ có kế hoạch
(International Planed Parenthood Federation, viết tắt: IPPF) thì quyền về tình dục là
một tập hợp các quyền đang được củng cố liên quan đến tình dục mà góp phần vào
tự do, bình đẳng và nhân phẩm của tất cả mọi người. Theo PGS.TS.Vũ Công Giao
và ThS.Nguyễn Minh Tâm thì quyền về tình dục là khả năng của mọi cá nhân, theo
10
một cách thức tự do và có trách nhiệm, được biểu lộ xu hướng, thực hành và hưởng
thụ đời sống tình dục một mình hoặc với người khác mà không phải chịu bất kỳ sự
cản trở, trừng phạt, lạm dụng, bóc lột hay phân biệt đối xử nào, miễn là không làm
ảnh hưởng đến các quyền, tự do và lợi ích chính đáng của người khác và của cộng
đồng4. Tuyên ngôn toàn cầu về quyền tình dục (thông qua tại Hội nghị thế giới lần
thứ 14 về tình dục, tổ chức tại Hồng kông, Trung Quốc, năm 1999) ghi nhận một số
nội hàm về quyền tình dục cơ bản như: Quyền tự do tình dục; quyền tự chủ về tình
dục, toàn vẹn về tình dục và được an toàn thân thể trong hoạt động tình dục; quyền
về sự riêng tư trong tình dục; quyền được công bằng trong tình dục; quyền được
hưởng khoái lạc tình dục; quyền được bày tỏ xúc cảm tình dục; quyền được tự do kết
hợp về tình dục; quyền được tự do quyết định một cách có trách nhiệm về việc sinh
đẻ; quyền được tiếp nhận những thông tin khoa học về tình dục; quyền được giáo dục
tình dục toàn diện; quyền được chăm sóc sức khỏe toàn diện5.
Pháp luật Việt Nam chưa có định nghĩa chung cho khái niệm xâm phạm tình
dục, chỉ có định nghĩa khái niệm xâm hại tình dục trẻ em và khái niệm xâm hại tình
dục người dưới 16 tuổi. Theo đó: “Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan
đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng
trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức” (khoản 8 Điều 4 Luật
Trẻ em năm 2016); và: “Xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi là việc dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi tham gia vào các hành
vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với người
dưới 16 tuổi và sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới
mọi hình thức (ví dụ: hoạt động xâm hại tình dục được thực hiện do đồng thuận với
người dưới 13 tuổi); do cưỡng bức, do hứa hẹn các lợi ích vật chất (tiền, tài sản) hay
các lợi ích phi vật chất (ví dụ: cho điểm cao, đánh giá tốt, tạo cơ hội tiến bộ...)”
(khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP). Hai khái niệm này cùng điều chỉnh
đối với một đối tượng tác động, vì Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 quy định trẻ em là
người dưới 16 tuổi. Nhưng hai khái niệm này có phạm vi điều chỉnh hẹp, chỉ giới hạn
ở hành vi xâm hại tình dục đối với trẻ em (hay người dưới 16 tuổi). Mặt khác, nếu
P.GS.TS.Vũ Công Giao và ThS.Nguyễn Minh Tâm: Vấn đề quyền về tình dục trên thế giới và ở Việt Nam, Tạp chí
Nghiên cứu và lập pháp điện tử, 01/02/2017. http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208004, truy
cập ngày 28/32021.
5 TS.Nguyễn Thị Ngọc Linh, Các tội xâm phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam (Sách chuyên khảo), năm 2019,
Nxb Tư pháp, trang 13,14.
4
11
hiểu theo nghĩa của khái niệm “xâm hại tình dục” thì không thể phản ánh đúng tính
chất của những quan hệ xã hội, những khách thể đang được bảo vệ.
Theo Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng (2006): “xâm phạm nghĩa là động chạm
đến quyền lợi người khác”6. Còn từ “xâm hại” được hiểu: Một quan hệ xã hội, một
khách thể được pháp luật hoặc luật hình sự bảo vệ, khi bị xâm phạm, có thiệt hại thì
chủ thể gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm pháp lý hoặc chịu trách nhiệm hình sự
khi xem xét dưới góc độ pháp lý. Theo cách lý giải này, nếu dùng từ “xâm hại”, những
hành vi xâm phạm đến các quyền về tình dục chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý hoặc
chịu trách nhiệm hình sự khi chứng minh được có thiệt hại thực tế xảy ra. Nhưng
quyền về tình dục là những quyền liên quan đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
con người. Đây là các quyền nhân thân. Mà quyền nhân thân là những giá trị cơ bản
gắn liền với con người, là vô giá, không thể quy đổi bằng vật chất được, không thể
xác định rõ thiệt hại. Chỉ cần xâm phạm đến quyền về tình dục là phải chịu trách
nhiệm pháp lý hoặc chịu trách nhiệm hình sự. Cho nên sử dụng từ “xâm phạm tình
dục” sẽ chính xác hơn. Theo Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng (2006): “Tình dục là
nhu cầu tự nhiên của con người về quan hệ tính giao”7. Tuy nhiên, con người có tư
duy, có nhận thức, cho nên quan hệ tính giao của con người bao gồm nhiều hành vi
phản ánh trạng thái tâm lý, phản ánh cảm xúc, tình cảm của con người liên quan đến
tình dục và giới tính. Theo nghiên cứu của các chuyên gia tâm lý, chuyên gia tình dục
học thì hoạt động tình dục ở con người chủ yếu là biểu hiện tình yêu giữa hai người
có sự thu hút lẫn nhau, bao gồm tất cả hành vi nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục: Ôm
hôn, sờ soạng, vuốt ve vùng nhạy cảm cơ thể hoặc bộ phận sinh dục, quan hệ tình dục
(giao cấu) và hành vi quan hệ tình dục khác. Hành vi quan hệ tình dục khác bao gồm:
Quan hệ tình dục bằng miệng (dùng lưỡi, miệng tiếp xúc trực tiếp bộ phận sinh dục)
hoặc qua đường hậu môn (đưa bộ phận sinh dục nam vào hậu môn). Bên cạnh đó, lời
nói khơi gợi ham muốn tình dục đối với người khác hay việc cho họ nghe âm thanh
hoặc xem hình ảnh mang tính chất kích thích bản năng tình dục,… cũng là hành vi
tình dục8. Theo quan điểm của tác giả: Bạo lực tình dục, lạm dụng tình dục, bóc lột
tình dục, quấy rối tình dục đều là biểu hiện của xâm phạm tình dục nếu xem xét dưới
Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng (2002), trang 1054
Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng (2002), trang 957.
8 Bác sĩ George D. Zgourides, và ThS.Christie S. Zgourides, Thực Tế Về Hoạt Động Tình Dục Ở Con Người (2013),
Dịch viên: Nguyễn Hồng Trang (Chương 9: Hành vi tình dục). http://duocanbinh.vn/db155-cuon-sach-thuc-te-ve-hoatdong-tinh-duc-o-con-nguoi, truy cập ngày 28/3/2021,.
6
7
12
góc độ pháp lý. Có thể định nghĩa khái niệm xâm phạm tình dục: “Xâm phạm tình
dục là hành vi tình dục được thực hiện trong tình trạng không tự nguyện hoặc các
hành vi nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục, động chạm đến sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm của nạn nhân”.
Hành vi tình dục là hành vi biểu hiện tính chất bản năng của con người. Tuy
nhiên con người khác động vật, động vật hành động theo bản năng và thông qua phản
xạ có điều kiện. Còn con người có nhận thức, có thể điều khiển hành vi của mình,
chứ không thể hành động dựa vào bản năng. Nếu nhu cầu bản năng có thể bộc lộ và
được thực hiện với tất cả mọi người, ở bất kỳ nơi nào, bằng bất kỳ cách thức nào thì
xã hội sẽ trở nên rối loạn. Nhà nước là một xã hội có tổ chức ổn định, không thể xảy
ra tình trạng một người dùng thủ đoạn, thậm chí dùng sức mạnh bạo lực đối với người
khác để thỏa mãn nhu cầu tình dục. Nếu hành vi đó được chấp nhận thì chuẩn mực
đạo đức tồn tại trong xã hội sẽ bị phá vỡ, nhân phẩm, danh dự của con người bị xâm
phạm. Chỉ có hình thức chế tài nghiêm khắc nhất của luật hình sự mới có thể giáo
dục, ngăn chặn, răn đe, trừng trị đối với hành vi xâm phạm tình dục. Theo khoa học
pháp lý hình sự để hành vi xâm phạm tình dục trở thành tội xâm phạm tình dục thì nó
phải thỏa mãn một số đặc điểm của tội phạm xâm phạm tình dục như:
Xâm phạm tình dục là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội.
Thực hiện hành vi tình dục trong tình trạng không tự nguyện hoặc hành vi nhằm
thỏa mãn nhu cầu tình dục và xâm phạm quyền tự do tình dục, quyền bất khả xâm
phạm về tình dục và sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người được quy định trong
luật hình sự.
Do người có năng lực TNHS và đủ độ tuổi chịu TNHS thực hiện.
Được thực hiện do lỗi cố ý.9
Từ những đặc điểm về tội phạm xâm phạm tình dục, có thể định nghĩa: “Các
tội xâm phạm tình dục là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự cố ý thực hiện hành vi
tình dục trong tình trạng không tự nguyện hoặc thực hiện hành vi nhằm thỏa mãn
nhu cầu tình dục, động chạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của nạn nhân, được
quy định trong luật hình sự”.
1.1.3. Khái niệm hiếp dâm và tội hiếp dâm
9
Xem thêm khái niệm “Tội phạm” được quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015.
13
Hiếp dâm là một hành vi xâm phạm tình dục và tội hiếp dâm là một tội trong
các tội xâm phạm tình dục. Theo Từ điển Hán Việt từ nguyên thì hiếp dâm có nghĩa
là dùng uy quyền hay sức mạnh bắt kẻ khác cho mình thỏa mãn dâm dục10. Tác giả
Đinh Văn Quế định nghĩa khái niệm hiếp dâm như sau: Hiếp dâm là hành vi dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân
hoặc thủ đoạn khác, giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với
ý muốn của nhạn nhân11. Đây là định nghĩa phù hợp với những hành vi khách quan
của tội phạm hiếp dâm được miêu tả tại khoản 1 Điều 141 BLHS năm 2015. Thật ra
khái niệm hiếp dâm xét theo góc độ pháp lý hình sự Việt Nam đã có sự thay đổi. Sự
thay đổi này phù hợp với sự phát triển của xã hội cùng với sự đổi mới trong tư duy
và hành động của con người. Nếu căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 111 BLHS
năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có thể định nghĩa tội hiếp dâm như sau: Hiếp
dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực; hoặc lợi dụng tình trạng không thể
tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn
của họ. Ở đây giao cấu có thể hiểu là hành vi: “giao tiếp bộ phận sinh dục ngoài của
giống đực với bộ phận sinh dục của giống cái”12. Nói rõ hơn hành vi giao cấu ở người
là: “hành động giao hợp mà dương vật của nam giới đút vào âm đạo nữ giới”13.
Ngày nay các hành vi quan hệ tình dục của con người đã được mở rộng, không
nằm trong phạm vi các hành vi quan hệ tình dục truyền thống giữa nam và nữ (giao
cấu). Đó là hành vi quan hệ tình dục giữa người cùng giới tính với nhau, hoặc hành
vi quan hệ tình dục khác mà không phải là hành vi giao cấu giữa nam và nữ. Vì vậy
khái niệm về hiếp dâm đã thay đổi. Dấu hiệu cơ bản của hành vi hiếp dâm gồm:
- Hành vi: Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự
vệ được của nạn nhân, dùng thủ đoạn khác.
- Mục đích: Thông thường mục đích của người thực hiện hành vi hiếp dâm là
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân.
Hiếp dâm để lại những hậu quả nặng nề cho nạn nhân nói riêng, xã hội nói
chung. Nạn nhân của hành vi hiếp dâm thường bị tổn thương về cả sinh lý và tâm lý.
Bửu Kế, Từ điển Hán Việt từ nguyên, Nxb Thuận Hóa, năm 1999, trang 751.
Đinh Văn Quế, Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015, Phần thứ hai: Các tội phạm, Chương XIV: Các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người (Bình luận chuyên sâu), Nxb Thông tin và truyền thông, năm 2018,
trang 231.
12 Từ điển tiếng Việt , Nxb Đà Nẵng năm 1997, trang 377.
13 Tài liệu: Bác sĩ George D. Zgourides, và ThS.Christie S. Zgourides, Thực Tế Về Hoạt Động Tình Dục Ở Con Người
(2013), Dịch viên: Nguyễn Hồng Trang (Chương 9: Hành vi tình dục – Quan hệ tình dục (giao hợp))”.
http://duocanbinh.vn/db155-cuon-sach-thuc-te-ve-hoat-dong-tinh-duc-o-con-nguoi, truy cập ngày 28/3/2021.
10
11
14
Luật hình sự các nước trên thế giới và luật hình sự Việt Nam nói riêng đã quy định
hành vi hiếp dâm là tội phạm. Tội hiếp dâm được quy định tại Điều 141 BLHS năm
2015. Từ khoa học pháp lý hình sự rút ra các đặc điểm cơ bản của tội phạm hiếp dâm:
Hiếp dâm hành vi gây nguy hiểm cho xã hội.
Thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không
thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác để giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân; xâm phạm quyền tự do
tình dục, quyền bất khả xâm phạm về tình dục và sức khỏe, danh dự nhân phẩm của
con người được quy định trong luật hình sự.
Do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện.
Được thực hiện do lỗi cố ý.
Vậy, từ những đặc điểm cơ bản về tội phạm hiếp dâm, có thể định nghĩa:“Tội
hiếp dâm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự cố ý thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng
vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn
khác để giao cấu trái hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn
của nạn nhân, được quy định trong luật hình sự”.
1.2. Quy định của luật hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm qua các thời kỳ
lịch sử
1.2.1. Quy định của luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến về tội hiếp dâm
Xã hội phong kiến Việt Nam bị xâm lược và đô hộ bởi các triều đại phong kiến
Trung Quốc hàng nghìn năm. Chính vì thế nước ta tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc
của tư tưởng Nho giáo. Nho giáo xem trọng các giá trị truyền thống trong gia đình,
nhưng thường mang nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ. Vì vậy địa vị của người phụ
nữ trong xã hội phong kiến thường thấp kém hơn so với người đàn ông. Tuy nhiên,
không vì thế mà nhân phẩm, danh dự của người phụ nữ bị chà đạp. Đặc biệt là vấn
đề liên quan đến trinh tiết của phụ nữ. Quan niệm Nho giáo lấy trinh tiết làm thước
đo cho chuẩn mực đạo đức của người phụ nữ. Hai bộ luật được xem là tiến bộ nhất
thời kỳ phong kiến và còn lưu giữ tương đối đầy đủ các bản chép đến ngày hôm nay
là Bộ luật Hồng Đức (hay Luật hình triều Lê, thường được gọi là Quốc triều hình
luật) và Hoàng Việt luật lệ (thường được gọi là Bộ luật Gia Long) đều ghi nhận các
điều luật bảo vệ thân thể, bảo vệ danh dự, nhân phẩm của người phụ nữ. Do đó hai
bộ luật này quy định hình phạt rất nghiêm khắc đối với tội hiếp dâm (bị lưu đày và
cả tử hình). Mục đích chính của những quy định về tội hiếp dâm trong thời kỳ phong
- Xem thêm -