Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong luật hình...

Tài liệu Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong luật hình sự việt nam

.PDF
79
35
72

Mô tả:

Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong luật hình sự Việt Nam Trần Thị Thu Nam Khoa Luật Luận văn ThS ngành: Luật Hình sự; Mã số: 60 38 40 Người hướng dẫn: TS. Trần Quang Tiệp Năm bảo vệ: 2007 Abstract: Phân tích, làm rõ lịch sử hình thành và phát triển những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong luật hình sự Việt Nam. Làm sáng tỏ khái niệm, ý nghĩa này; phân tích các quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới. Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật hình sự hiện hành, thực tiễn áp dụng loại tội phạm này, nêu lên vướng mắc trong điều tra, truy tố, xét xử. Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Keywords: Luật hình sự; Pháp luật Việt Nam; Tội chứa chấp Content Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, thực hiện các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-05-2005 của Bộ Chính trị "Về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020", Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 của Bộ Chính trị "Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", công cuộc cải cách tư pháp đã được các cấp ủy, tổ chức Đảng lãnh đạo tổ chức thực hiện với quyết tâm cao đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và sự quan tâm của toàn xã hội đối với công tác tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, kết quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm mới tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm còn nhiều hạn chế. Tình hình tội phạm tiếp tục diễn biến phức tạp trên tất cả các lĩnh vực, trong đó tình hình tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đang là vấn đề bức xúc của người dân. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, trong không ít vụ án, một số công dân do chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá, mặc dù biết tài sản mình chứa chấp, tiêu thụ là tài sản do người khác phạm tội mà có, đã cố tình chứa chấp, tiêu thụ những tài sản này, gây thêm khó khăn cho các cơ quan bảo vệ pháp luật trong điều tra, khám phá vụ án. Việc một số công dân không tham gia đấu tranh chống tội phạm nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, trái lại chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, đã gây ra những hậu quả tiêu cực cho xã hội, làm phức tạp thêm tình hình đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học pháp lý phải nghiên cứu, giải quyết như khái niệm, những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, nguyên nhân, điều kiện của tội phạm này... Về mặt lý luận, xung quanh tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, "Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong luật hình sự Việt Nam", mang tính cấp thiết, không những về mặt lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là tội phạm có tính nhạy cảm cao, phức tạp, đã được một số nhà luật học đề cập trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998; Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm) của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS. ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001... Các công trình nói trên đã đề cập tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có dưới góc độ pháp lý hình sự. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, đề xuất những giải pháp mang tính hệ thống nhằm hoàn thiện việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Phân tích, làm rõ lịch sử hình thành và phát triển những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong luật hình sự Việt Nam. - Làm sáng tỏ khái niệm, ý nghĩa của việc quy định tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội trong pháp luật hình sự; phân tích các quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về tội phạm này. - Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng loại tội phạm này, nêu lên những vướng mắc trong điều tra, truy tố, xét xử, đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu giải quyết. - Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, dưới góc độ pháp lý hình sự, trong thời gian 10 năm từ năm 1997 đến năm 2007. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, và về xây dựng pháp luật Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của các cơ quan bảo vệ pháp luật về tội phạm này. Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: hệ thống, lịch sử, lôgíc, thống kê, phân tích, tổng hợp, kết hợp với các phương pháp khác như so sánh pháp luật, điều tra xã hội... 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và tương đối có hệ thống về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có dưới góc độ pháp lý hình sự. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn: - Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong luật hình sự Việt Nam. - Phân tích, đánh giá những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý về lập pháp hình sự, để vận dụng có chọn lọc, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp được đề xuất trong luận văn. - Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và thực tiễn áp dụng, nêu lên những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này. - Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. 6. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu và những đề xuất của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ở nước ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các đề xuất, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển khoa học luật hình sự nói chung, về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nói riêng. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 mục. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TẢI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Trong chương này, tác giả tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề chung về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có như khái niệm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, ý nghĩa của việc quy định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam, lịch sử hình thành và phát triển tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong luật hình sự Việt Nam và những quy định về tội phạm này trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới. 1.1. Khái niệm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và ý nghĩa của việc quy định tội phạm này trong luật hình sự 1.1.1. Khái niệm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có hiểu theo nghĩa chung nhất là hành vi chứa, cất, giữ một cách trái pháp luật hoặc bán một cách trái pháp luật tài sản do người khác phạm tội mà có. Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, mặc dù có mối liên hệ về mặt khách quan với tội phạm do người khác thực hiện, nhưng không phải là nguyên nhân gây ra hậu quả của tội phạm đó. Đây là đặc điểm giúp phân biệt hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với những hành vi của người thực hành, người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức trong đồng phạm. Tội tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, mà theo PGS.TSKH Lê Cảm, phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a) bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi. Có thể đưa ra khái niệm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có như sau: tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự của người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, tuy không hứa hẹn trước, mà chứa, cất, giữ, bán tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, xâm phạm trật tự công cộng và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong luật hình sự Việt Nam Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là tội phạm có lịch sử lâu đời, thể hiện thái độ xử lý kiên quyết của các nhà nước phong kiến và Nhà nước ta đối với người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Việc ghi nhận tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong luật hình sự Việt Nam có những ý nghĩa sau đây: thứ nhất, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ở nước ta; thứ hai, có ý nghĩa giáo dục với người dân và các tác dụng răn đe đối với người có ý định chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; thứ ba, góp phần bảo vệ, tài sản của Nhà nước, tổ chức và nhân dân. 1.2. Khái lược sự hình thành và phát triển những quy định của pháp luật hình sự việt Nam về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 1.2.1. Thời kỳ nhà Ngô đến nhà Lê Năm 939, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, giành lại độc lập hoàn toàn cho đất nước ta. Trong buổi đầu của nền quân chủ phong kiến tự chủ, để bảo vệ nền thống trị mới được thành lập, chính quyền mới đã sử dụng các biện pháp bạo lực với các hình phạt nghiêm khắc đối với những kẻ chống đối. So với nhà Ngô, nhà Đinh, dưới thời nhà tiền Lê, hoạt động lập pháp nói chung, lập pháp hình sự nói riêng được tăng cường hơn, nhưng chúng ta không có tài liệu khẳng định, thời kỳ này có quy định tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có không? Dưới thời nhà Lý, quyền thống trị của giai cấp phong kiến đã được xác lập, tổ chức cai trị có quy củ hơn. Đáng chú ý, hoạt động lập pháp nói chung, lập pháp hình sự nói riêng của nhà Lê được tiến hành thành công nhất dưới thời Vua Lê Thánh Tông. Chính triều đại Lê Thánh Tông đã cho ra đời Quốc triều hình luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng vào năm 1483. Nghiên cứu Quốc triều hình luật cho thấy, mặc dù chưa có quy định riêng về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, nhưng có đề cập tội phạm này tại nhiều điều luật. Trong Bộ luật này, tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được nhà làm luật đánh giá là ít nguy hiểm cho xã hội hơn so với tội phạm chính (ăn trộm). Người mua phải đồ gian, nhưng ngay tình, thì được lấy lại số tiền đã mua ở người bán, còn đồ gian thì được trả lại cho người mất trộm. Đây là quy định rất hợp lý, hợp tình, thể hiện trình độ kỹ thuật lập pháp rất cao của Bộ luật Hồng Đức. 1.1.2. Thời kỳ nhà Tây Sơn đến thời kỳ nước ta bị thực dân Pháp xâm lược Thời kỳ nhà Tây Sơn, về mặt lập pháp nói chung, lập pháp hình sự nói riêng, ngay từ năm 1788, Quang Trung đã có chủ trương biên soạn một bộ luật cho triều đại mới. Năm 1802, sau khi đánh bại hoàn toàn lực lượng của Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy hiệu Gia Long, đặt kinh đô ở Phú Xuân (Huế ngày nay). Về mặt lập pháp nói chung, lập pháp hình sự nói riêng, sau khi lên ngôi hoàng đế, Vua Gia Long giao cho Tiền quân Bắc thành tổng trấn Nguyễn Văn Thành (1757 - 1817) là Tổng tài soạn thảo Bộ luật có tên Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long). Mặc dù chịu ảnh hưởng của Đại Thanh luật lệ khá nặng nề, nhưng nhiều điều luật trong Hoàng Việt luật lệ vẫn được quy định trên cơ sở tiếp thu những giá trị lập pháp của Bộ luật Hồng Đức. Điều 7, quyền thứ 13, Hoàng Việt luật lệ có đề cập tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với tên gọi tội đạo tặc oa trữ (trộm cắp, chứa đồ gian). Hoàng Việt luật lệ đã quy định tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có ở những điểm đáng chú ý sau: thứ nhất, tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có, có liên quan đến một tội chính là tội trộm cắp tài sản; thứ hai, nếu cố ý cùng thực hiện tội trộm cắp dưới dạng giúp sức, chứa chấp tài sản trộm cắp được, được chia tang vật trộm cắp được, thì bị xử chém cùng những người trộm cắp; thứ ba, nếu cùng thực hiện tội trộm cắp và sau đó chứa chấp tài sản trộm cắp được, thì không cần biết có được chia tang vật trộm cắp được hay không, đều bị xử chém; thứ tư, trường hợp người chứa chấp tài sản trộm cắp được không thực hiện tội trộm cắp và cũng không được chia tang vật trộm cắp được, thì phạt 100 trượng, lưu 3000 dặm. Dưới thời Pháp thuộc, tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có đã được Hoàng Việt hình luật đề cập cụ thể hơn so với quy định tương ứng trong Hoàng Việt luật lệ. Tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có không chỉ liên quan tội trộm cắp tài sản như trong Hoàng Việt luật lệ, mà có thể liên quan đến những tội phạm khác, và hình phạt đối với tội này chỉ bằng một nửa hình phạt đối với tội phạm mà nó liên quan, trừ trường hợp nếu hình phạt đối với tội phạm mà nó liên quan là tử hình, hay khổ sai chung thân, thì người phạm tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có sẽ bị phạt khổ sai từ 6 năm đến 20 năm. Đây có thể coi là một bước tiến bộ đáng kể về kỹ thuật lập pháp hình sự đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong Hoàng việt hình luật. 1.1.3. Thời kỳ từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công cho đến nay Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non trẻ phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Nền kinh tế của đất nước vốn đã nghèo nàn, lạc hậu, lại bị Pháp, Nhật vơ vét xác xơ, bị chiến tranh và thiên tai tàn phá. Trong tình hình đó, nhân dân ta phải thực hiện ba nhiệm vụ lớn, đó là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm.Để bảo vệ những công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia, Nhà nước ta cũng đã ban hành Sắc lệnh số 26/SL ngày 25-02-1946 trừng trị nghiêm khắc những kẻ phá hoại cầu cống, đường xe lửa, đường giao thông, đê đập, các nhà máy điện, nhà máy nước, dây điện thoại, điện tín... Đáng chú ý, Sắc lệnh này đã đề cập tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị. Ở miền Bắc, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước; ở miền Nam, tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đến quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Việc ban hành cùng một lúc hai pháp lệnh: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, không những đối với tài sản xã hội chủ nghĩa, mà cả đối với tài sản riêng của công dân. Trong hai Pháp lệnh này, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản riêng của công dân bị chiếm đoạt và tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản xã hội chủ nghĩa bị chiếm đoạt đều cơ bản giống nhau về tội danh, những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng, chỉ có khác là khung hình phạt thấp hơn một cách đáng kể. Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tại Điều 201. So với các quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong các văn bản pháp luật hình sự đơn hành trước đây, quy định về tội phạm này trong Bộ luật hình sự năm 1985 đã có một số điểm mới sau đây: thứ nhất, so với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản riêng của công dân bị chiếm đoạt, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản xã hội chủ nghĩa bị chiếm đoạt, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản công cộng bị chiếm đoạt trong các văn bản pháp luật hình sự đơn hành trước đây, tội danh chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong Bộ luật hình sự năm 1985 có tính khái quát cao hơn, nội hàm rộng, chính xác hơn; thứ hai, thể hiện sự phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật, tạo điều kiện cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong áp dụng pháp luật, Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định ba khung hình phạt, ngoài khung cơ bản, còn có hai khung tăng nặng hình phạt. So với các văn bản pháp luật hình sự đơn hành, quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong Bộ luật hình sự năm 1985, thể hiện sự phân hóa trách nhiệm hình sự rõ ràng, với các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt cụ thể hơn. Trong Bộ luật hình sự năm 1999, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại Điều 250. So với quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 có một số điểm mới sau đây: thứ nhất, tại khung cơ bản, có bổ sung thêm hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, nâng mức hình phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm và nâng mức khởi điểm của hình phạt tù có thời hạn lên sáu tháng; thứ hai, tiếp tục phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật để tạo điều kiện cá thể hóa hình phạt trong áp dụng pháp luật bằng việc quy định ba khung hình phạt tăng nặng, trong đó có quy định các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt cụ thể như: có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn, thu lợi bất chính lớn, tái phạm nguy hiểm, tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn, thu lợi bất chính rất lớn; tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn, thu lợi bất chính đặc biệt lớn; thứ ba, quy định thêm hình phạt bổ sung để tăng mức trừng phạt, răn đe đối với loại tội phạm này. 1.3. Những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới Nghiên cứu những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong pháp luật hình sự nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Liên bang Nga, Nhật Bản, Vương quốc Thụy Điển… cho thấy: Thứ nhất, những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong pháp luật hình sự của các nước: Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Liên bang Nga, Nhật Bản, Vương quốc Thụy Điển… rất khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm lý xã hội của từng nước. Thứ hai, pháp luật hình sự Liên bang Nga có quy định tội hợp pháp hóa (tẩy rửa) tiền hoặc tài sản có được một cách bất hợp pháp, còn pháp luật hình sự Nhật Bản, Vương quốc Thụy Điển không quy định tội rửa tiền thành một tội độc lập, nhưng có đề cập hành vi này trong tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Thứ ba, pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển đã đề cập tội vô ý nhận tài sản bị trộm cắp. Việc ghi nhận tội phạm này trong pháp luật hình sự thể hiện trình độ văn hóa rất cao của nước này Chương 2 NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Trong chương 2, tác giả nghiên cứu những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và thực tiễn áp dụng, rút ra những vướng mắc mà thực tiễn xét xử đòi hỏi khoa học pháp lý hình sự phải nghiên cứu giải quyết. 2.1. Những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong Bộ luật hình sự năm 1999 2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 1- Khách thể của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, người phạm tội biết tài sản mà mình chứa chấp, tiêu thụ là tang vật phạm pháp, nhưng vẫn chứa chấp, tiêu thụ tài sản đó vì vụ lợi, qua đó gián tiếp khuyến khích người phạm tội để có những tài sản đó. Người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có mặc dù không có ý thức cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, nhưng bằng hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, đã gây những trở ngại cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Vì vậy, khách thể của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là quan hệ xã hội về trật tự công cộng và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có phải là những tài sản bất hợp pháp. Những hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ những tài sản này đều là những hành vi gây thiệt hại cho trật tự công cộng và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Những tài sản hợp pháp không thể là đối tượng tác động của tội phạm này. 2- Mặt khách quan của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Hành vi khách quan của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Một trong bốn yếu tố của tội phạm là mặt khách quan, trong mặt khách quan của tội phạm, hành vi nguy hiểm cho xã hội là biểu hiện cơ bản nhất. Hành vi khách quan đặc trưng của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được thể hiện bởi hai loại hành vi: chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có như tham ô tài sản, trộm cắp tài sản, cướp tài sản… Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được biểu hiện dưới các hình thức sau: - Cho người phạm tội cất giấu tài sản tại nhà mình, tại nơi làm việc, nhận hộ tài sản do phạm tội mà có là tài sản của mình. - Giúp người phạm tội cất giấu tài sản do phạm tội mà có. - Chuyển đổi tài sản do phạm tội mà có lấy tài sản hợp pháp. - Mua lại tài sản mặc dù biết đó là tài sản do phạm tội mà có. - Đem bán hộ tài sản do người khác phạm tội chiếm đoạt được. Những hành vi này phải được tiến hành mà không có sự hứa hẹn từ trước với người thực hiện tội phạm nguồn. Nếu có sự hứa hẹn trước thì người chứa chấp, tiêu thụ tài sản sẽ bị coi là đồng phạm với người đã thực hiện tội phạm nguồn với vai trò giúp sức. 3- Chủ thể của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là loại tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý, vì vậy, căn cứ vào cách phân loại tội phạm được quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999, thì những trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản thuộc khoản 3, 4 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999, là những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng. Do đó, theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999, những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo khoản 3, 4 Điều 250 Bộ luật này, còn những người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thuộc bất cứ khoản nào theo Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999. 4- Mặt chủ quan của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Lỗi của người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là lỗi cố ý, người phạm tội biết rõ là tài sản do người khác phạm tội mà có, nhưng vẫn chứa chấp, tiêu thụ. Nếu người chứa chấp, tiêu thụ tài sản không biết được đó là tài sản do phạm tội mà có, thì hành vi đó không cấu thành tội phạm này, Nói cách khác, khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội biết rằng đang thực hiện một hành động Nhà nước cấm làm và xã hội lên án, người phạm tội cũng nhận thức được về tính bất hợp pháp của tài sản mà họ chứa chấp hoặc tiêu thụ. Đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan như lỗi, động cơ, mục đích phạm tội có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mặc dù các dấu hiệu của mặt chủ quan của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đều phản ánh tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhưng chỉ có lỗi là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, động cơ, mục đích phạm tội không là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. 2.1.2. Trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 2.1.2.1. Trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 Người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản1 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 sẽ bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Điều luật quy định, người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 điều này. Như vậy, nhà làm luật không định lượng giá trị tài sản do phạm tội mà có đã được chứa chấp hoặc tiêu thụ. Với quy định này, người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với bất cứ giá trị nào, chỉ cần không hứa hẹn trước và biết rõ đó là tài sản do người khác phạm tội mà có đều phạm tội này. 2.1.2.2. Trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo khoản 2, 3, 4 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 Khoản 2, 3, 4 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 là các cấu thành tội phạm tăng nặng của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các khoản này, phải có một tình tiết tăng nặng tương ứng, phản ánh tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội tăng lên và phù hợp với khung hình phạt đã được quy định trong điều luật. Các tình tiết tăng nặng được quy định tại khoản 2 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 là: có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn; thu lợi bất chính lớn. Các tình tiết tăng nặng được quy định tại khoản 3 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 là: tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn, thu lợi bất chính rất lớn. Các tình tiết tăng nặng được quy định tại khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 là: tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn, thu lợi bất chính đặc biệt lớn. 2.2. Thực tiễn áp dụng những quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Trước khi nghiên cứu thực tiễn áp dụng những quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, cần xem xét tổng quát việc áp dụng những quy định của Bộ luật hình sự về các loại tội phạm nói chung. Qua số liệu của Tòa án nhân dân tối cao, từ năm 1997 đến 9 tháng năm 2006, Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử 433.859 vụ, với 674.772 bị cáo. Để thấy rõ về số liệu tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, đồng thời biểu thị mức độ tăng giảm của loại tội phạm này trong thời gian từ năm 1997 đến hết 9 tháng năm 2006. Bảng thống kê số liệu dưới đây sẽ cho thấy sự tồn tại và phát triển của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có: Năm Số vụ Số bị cáo 1997 385 717 1998 463 716 1999 438 744 2000 349 494 2001 343 477 2002 184 263 2003 299 504 2004 324 567 2005 367 664 292 569 9 tháng 2006 Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao. Thực tiễn xét xử tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã đặt ra những vướng mắc đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu giải quyết sau đây: Thứ nhất, việc không quy định về định lượng giá trị tài sản bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, cũng như chưa có hướng dẫn về việc người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản của những người có hành vi vi phạm pháp luật, nhưng chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, không chỉ gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến sự chưa thống nhất trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan này. Thứ hai, về việc xác định giá trị tài sản định khung hình phạt. Một trong những căn cứ để các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở để định khung hình phạt đó là xác định giá trị tài sản trong trường hợp tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn, rất lớn, đặc biệt lớn. Để có cơ sở xác định giá trị tài sản trong trường hợp này, các cơ quan tiến hành tố tụng phải căn cứ vào công văn 102/KHXX ngày 7-10-1998 của Tòa án nhân dân tối cao, và Nghị quyết số 01/1998-NQ-HĐTP ngày 1-9-1998 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, tạm thời hướng dẫn việc xác định giá trị tài sản để áp dụng các tình tiết định khung tăng nặng "tài sản có giá trị lớn", "trường hợp đặc biệt nghiêm trọng". Đây cũng là điểm bất cập mà trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng đòi hỏi phải có sự hướng dẫn, sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn áp dụng, bởi lẽ Bộ luật hình sự năm 1999 cho đến nay đã có hiệu lực thi hành được 8 năm, nhưng quá trình áp dụng Điều 250 Bộ luật hình sự, phần giá trị tài sản có tính chất định khung hình phạt mà người thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, lại căn cứ vào văn bản hướng dẫn khi áp dụng Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1985. Thứ ba, về việc xác định giá trị tài sản của người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Qua nghiên cứu tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và nghiên cứu thực tiễn xét xử loại tội này cho thấy, một trong những yếu tố quan trọng để đánh giá về tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội chính là việc xác định giá trị tài sản của người chứa chấp hoặc tiêu thụ, đó cũng là cơ sở để định khung hình phạt. Qua nghiên cứu một số vụ án từ các năm 1997, 1998, 1999 cho thấy, việc định giá tài sản đối với những người phạm các tội xâm phạm về sở hữu, nếu không có tài liệu chứng minh về giá trị tài sản thì cơ sở để xác định giá trị thiệt hại về tài sản chính là lời khai của người bị hại. Việc chỉ căn cứ vào lời khai của người bị hại để xác định giá trị tài sản thiệt hại là không khách quan, xét về góc độ tâm lý bao giờ người bị hại khi bị chiếm đoạt tài sản, họ cũng thường khai tăng về giá trị tài sản, hoặc không khấu hao về thời gian đã sử dụng, mà khai giá trị tài sản từ lúc mua ban đầu, điều đó có ảnh hưởng đến việc định lượng giá trị tài sản quy định để định khung hình phạt. Thứ tư, một số Tòa án địa phương chưa áp dụng đúng những quy định của Bộ luật hình sự. Thực tiễn xét xử cho thấy, một số Tòa án chưa áp dụng đúng những quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về định tội danh, những tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt… Đây là những vấn đề cần khắc phục trong thời gian tới. Thứ năm, về tình tiết phạm tội nhiều lần. Đối với tình tiết phạm tội nhiều lần, cho đến nay, các cơ quan xét xử vẫn xem xét và áp dụng với tính chất là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, do Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định tình tiết phạm tội nhiều lần với tính chất là tình tiết định khung hình phạt tăng nặng. Thực tiễn trên đòi hỏi các cơ quan có trách nhiệm cần có sự hướng dẫn cụ thể, những trường hợp nào thì phải áp dụng hình phạt bổ sung, trường hợp nào bắt buộc phải áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Chương 3 NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ Trong chương này, tác giả làm rõ sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về loại tội phạm này. 3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của bộ luật hình sự năm 1999 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Trong thời gian qua, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói chung, áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nói riêng, đã có những đóng góp quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới, nhưng cũng đã bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của tình hình, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới; còn nhiều trường hợp có sai sót trong áp dụng pháp luật, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Vì những lẽ đó, để sự nghiệp đổi mới tiếp tục phát triển và thực hiện được các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đề ra, cần tiến hành đồng bộ các biện pháp, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kết hợp giữa sự phát huy nội lực và nhân tố bên ngoài, trong đó nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự nói chung, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nói riêng, là yêu cầu mang tính cấp thiết hiện nay. Ngoài những yêu cầu mang tính định hướng trên, sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, còn xuất phát trên cơ sở những yêu cầu sau: thứ nhất, yêu cầu xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội nói chung, các hành vi phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội nói riêng; thứ hai, yêu cầu cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả hoạt động tư pháp; thứ ba, yêu cầu phải khắc phục những yếu kém của việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 3.2.1. Hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Trên cơ sở phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, những vướng mắc mà thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm này đặt ra cho khoa học pháp lý hình sự phải nghiên cứu, giải quyết, chúng tôi xin đề xuất sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có như sau: Thứ nhất, Bộ luật hình sự năm 1999 đã có định nghĩa pháp lý của khái niệm che giấu tội phạm tại Điều 21 và định nghĩa pháp lý của khái niệm không tố giác tội phạm tại Điều 22. Tuy nhiên, Bộ luật này lại chưa có định nghĩa pháp lý của khái niệm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Đây là vấn đề cần xem xét lại, bởi lẽ che giấu tội phạm, không tố giác tội phạm và chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đều là những hành vi liên quan đến tội phạm. Những hành vi này đều có đặc điểm chung là không có mối quan hệ nhân quả với quá trình thực hiện tội phạm mà nó có liên quan. Hành vi liên quan đến tội phạm mặc dù có mối liên hệ về mặt khách quan với tội phạm do người khác thực hiện, nhưng không phải là nguyên nhân gây ra hậu quả của tội phạm đó. Những hành vi tuy có liên quan đến tội phạm, nhưng không phải là hành vi cùng cố ý thực hiện tội phạm thì đều không coi là hành vi đồng phạm, mà chỉ có thể cấu thành tội phạm độc lập trong những trường hợp do pháp luật hình sự quy định. Bởi vậy, những hành vi này không thể xem xét dưới góc độ của chế định đồng phạm mà chúng cần được xem xét dưới góc độ: chế định liên quan đến tội phạm. Vì lẽ đó, tiếp theo Điều 21 quy định về che giấu tội phạm, Điều 22 quy định về tội không tố giác tội phạm, Bộ luật hình sự năm 1999 cần bổ sung điều luật quy định về định nghĩa pháp lý của khái niệm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo hướng như sau: Người nào không hứa hẹn trước, mà chứa, cất, giữ, bán tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì phải chịu trách nhiệm hình sự trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định. Thứ hai, Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng như sau: Điều…: Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có: 1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng, nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có hoặc đã bị kết án về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức. b) Có tính chất chuyên nghiệp. c) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị từ năm mươi triều đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. d) Thu lợi bất chính từ năm triệu đồng đến dưới hai mươi triệu đồng. e) Tái phạm nguy hiểm. f) Phạm tội nhiều lần.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan