TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------
PHẠM PHƯƠNG THẢO
MSSV: 1853801011201
TÍNH ĐỘC LẬP CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ TRONG
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2018 – 2022
Người hướng dẫn: ThS. NGUYỄN THANH QUYÊN
TP.HCM – Năm 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Tính độc lập của Hội đồng xét
xử trong vụ án hành chính” là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Thanh Quyên. Các nội dung được trình bày
trong khoá luận là hoàn toàn trung thực, đảm bảo các quy định chống đạo văn của
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình.
Người thực hiện khóa luận
PHẠM PHƯƠNG THẢO
DANH MỤC VIẾT TẮT
STT
Tên đầy đủ
Viết tắt
1
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
năm 1946
Hiến pháp 1946
2
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
năm 1959
Hiến pháp 1959
3
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
năm 1980
Hiến pháp 1980
4
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001
Hiến pháp 1992
5
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Hiến pháp 2013
năm 2013
6
Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 năm
BLTTDS 2015
2015
7
Bộ luật Tố tụng hình sự số 100/2015/QH13 năm
2015
BLTTHS 2015
8
Luật Tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 năm
2015, sửa đổi, bổ sung năm 2019
LTTHC 2015
9
Luật Tổ chức Toà án nhân dân số 33/2002/QH10
năm 2014
LTCTAND 2002
10
Luật Tổ chức Toà án nhân dân số 62/2014/QH13
năm 2014
LTCTAND 2014
11
Luật Pháp quan Trung Quốc năm 1995, sửa đổi
bổ sung lần đầu năm 2017, sửa đổi bổ sung lần
hai năm 2019
Luật Pháp quan
Trung Quốc năm
1995
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA HỘI ĐỒNG XÉT
XỬ TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ...................................................................... 4
1.1 Khái niệm về tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính ... 4
1.1.1 Khái niệm về tính độc lập ........................................................................... 4
1.1.2 Khái niệm về Hội đồng xét xử .................................................................... 6
1.1.3 Khái niệm về tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính .... 8
1.2 Nội dung tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính ........ 12
1.3 Ý nghĩa tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính .......... 19
1.4 Các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo tính độc lập của Hội đồng xét
xử trong vụ án hành chính .................................................................................. 22
1.5 Các quy định của pháp luật nước ngoài nhằm đảm bảo tính độc lập của
Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính ........................................................... 31
1.5.1 Quy định của pháp luật Trung Quốc ......................................................... 31
1.5.2 Quy định của pháp luật Australia .............................................................. 33
1.5.3 Quy định của pháp luật Pháp .................................................................... 35
Kết luận Chương 1 .................................................................................................. 37
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ........ 38
2.1 Thực trạng về tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính 38
2.1.1 Thực trạng quy định của pháp luật trong việc đảm bảo thực hiện tính độc
lập của Hội đồng xét xử các vụ án hành chính .................................................. 38
2.1.2 Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật về việc đảm bảo tính độc lập
của Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính ..................................................... 45
2.1.3 Nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong việc thực hiện tính độc lập của
Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính ............................................................ 53
2.2 Kiến nghị hoàn thiện ..................................................................................... 59
2.2.1 Sự cần thiết của việc đề ra phương hướng hoàn thiện pháp luật và giải pháp
nâng cao tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính .................. 59
2.2.2 Các nguyên tắc xây dựng pháp luật về việc đảm bảo tính độc lập của Hội
đồng xét xử trong vụ án hành chính ................................................................... 60
2.2.3 Phương hướng hoàn thiện pháp luật để đảm bảo thực hiện tính độc lập của
Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính ............................................................ 62
2.2.4 Giải pháp nâng cao tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính
............................................................................................................................ 69
Kết luận Chương 2 .................................................................................................. 73
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những tư tưởng về quyền dân chủ đã manh nha từ rất sớm trong lòng xã hội
phương Tây. Có thể thấy, xây dựng một xã hội dân chủ vừa là ước mơ vừa là đích
đến, đồng thời cũng là một tiến trình mang tính lịch sử của nhân loại. Dưới thời kỳ
phong kiến, quyền dân chủ của con người như một con chim bị khoá chặt trong lồng.
Cho đến ngày nay, quyền dân chủ đã được bảo đảm và phát huy ở rất nhiều quốc gia
trên thế giới. Từ đó, có thể thấy, dù trải qua bao nhiêu sự biến thiên của thời gian và
bao nhiêu sự đổi vần của thời đại thì khát vọng về quyền dân chủ vẫn luôn in hằn
trong tư tưởng của nhân loại.
Bảo đảm và duy trì được nền dân chủ là một trong những điều kiện cần thiết
để nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội. Để xây dựng nên một nhà nước dân chủ thật sự
thì trước hết cần bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân khi được đặt trong mối quan
hệ với cơ quan đại diện của Nhà nước gần dân nhất, đó chính là các cấp chính quyền
địa phương. Tuy nhiên, thực tiễn chứng minh, hiện nay, nền tài phán hành chính của
nước ta đang bị “nhiễm khuẩn” và thậm chí sẽ có nguy cơ dẫn đến sự thay đổi về
“chất” của tố tụng hành chính nếu có quá nhiều “sự không trong sạch” diễn ra trong
hoạt động xét xử. Những chủ thể giữ vai trò là người “cầm cân nảy mực” trong việc
giải quyết các vụ án hành chính này chính là Hội đồng xét xử.
Về mặt lý thuyết, các đương sự trong tố tụng hành chính có địa vị pháp lý bình
đẳng với nhau, tuy nhiên trên thực tế, không như tố tụng dân sự và tố tụng hình sự,
sự bình đẳng giữa người khởi kiện và bên bị kiện trong tố tụng hành chính chỉ mang
tính tương đối. Bởi lẽ, đặc trưng của tố tụng hành chính nằm ở việc người bị kiện là
những cơ quan hành chính nhà nước cùng các cá nhân có thẩm quyền trong các cơ
quan này. Do đó, trong thực tiễn xét xử, “cán cân công lý” thường khó nghiêng về
phía người khởi kiện nếu bên bị kiện dùng quyền lực của mình tác động lên Hội đồng
xét xử. Trước thực trạng đó, việc bảo đảm tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ
án hành chính là điều tối cần thiết để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người
dân, xa hơn nữa là đảm bảo nền dân chủ của nước ta.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án hành
chính” làm khoá luận tốt nghiệp. Với đề tài này, tác giả hi vọng sẽ đóng góp được
một vài sự chiêm nghiệm của mình cũng như đề ra một số các phương hướng, kiến
nghị hoàn thiện khung pháp lý để phần nào nâng cao tính độc lập của Hội đồng xét
xử trong vụ án hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu
2
Qua quá trình tìm hiểu, tác giả nhận thấy rằng chưa có nhiều công trình trực
tiếp nghiên cứu về tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính, đa số
các công trình, đề tài nghiên cứu khoa học chủ yếu tập trung hướng đến nghiên cứu
về nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật”, cũng
có một số các công trình khác nghiên cứu về mô hình Toà hành chính của nước ta
cũng như nguyên tắc độc lập của Toà án.
Tiêu biểu có thể kể đến một số công trình chuyên khảo về tính độc lập của Toà
án như Luận án Tiến sĩ “Tính độc lập của Toà án – Nghiên cứu Pháp lý về các khía
cạnh Lý luận, Thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị đối với Việt
Nam” của Tô Văn Hoà. Đây là một công trình nghiên cứu đồ sộ gồm 587 trang, trọng
tâm nghiên cứu các vấn đề lý luận về tính độc lập của Toà án trên phương diện pháp
lý cùng với việc đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện và củng cố tính độc lập của
Toà án. Bên cạnh đó, còn có Luận án Tiến sĩ “Nghiên cứu so sánh về hệ thống kiểm
tra, giám sát hoạt động hành chính bằng Toà án và cơ quan tài phán hành chính ở
Australia và Việt Nam – Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” của Nguyễn Văn Quang.
Trên cơ sở nghiên cứu so sánh chuyên sâu hai hệ thống nói trên, Luận án xác định
tính khả thi và phù hợp của việc áp dụng mô hình cơ quan tài phán hành chính vào
cơ sở hạ tầng của Việt Nam.
Ngoài ra, còn có nhiều bài đăng trên các tạp chí khác nhau “khai thác” nguyên
tắc “Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật” cũng như vị thế
độc lập của Toà án như “Bàn về nguyên tắc tổ chức tòa án và sự độc lập của hội
đồng xét xử ở Việt Nam” của tác giả Hà Thị Mai Liên trên tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số 10 năm 2008, “Độc lập tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm cho tòa án thực hiện đúng đắn quyền tư pháp” của tác giả Trương Hòa Bình
trên tạp chí Tòa án nhân dân số 16 năm 2014…
Nhìn chung, các công trình, bài viết trên đã khái quát được từ sơ lược cho đến
nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề thuộc phạm vi nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm
độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật” và sự độc lập của Toà án. Tuy nhiên, chưa
có tác phẩm nào đi sâu vào việc nghiên cứu tính độc lập giữa các thành viên Hội đồng
xét xử trong tố tụng hành chính.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả thực hiện đề tài này trên cơ sở nghiên cứu quy định của Luật Tố tụng
hành chính Việt Nam là chủ yếu, kết hợp với các chế định pháp luật liên quan nằm
rải rác trong các văn bản pháp luật khác, bao gồm các bản Hiến pháp và Luật Tổ chức
Toà án nhân dân. Bên cạnh đó, tác giả cũng tiến hành nghiên cứu Luật Pháp quan
3
Trung Quốc, Luật Hội thẩm nhân dân Trung Quốc, Luật về tài phán hành chính phúc
thẩm Australia và nguyên tắc Inamovibilité trong pháp luật Pháp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của Triết học Marx Lenin
làm trọng tâm, kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh cùng đường lối của Đảng và quan
điểm của Nhà nước. Bên cạnh đó, luận văn còn vận dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học khác như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp
so sánh…
5. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Thông qua việc tập trung nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống các
vấn đề thuộc hai phạm trù lý luận và thực tiễn, tác giả hi vọng sẽ giúp cho độc giả có
được một sự nhận thức khái quát về tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án
hành chính.
Bên cạnh đó, đề tài này cũng đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện
hành lang pháp lý liên quan đến vấn đề bảo đảm tính độc lập của Hội đồng xét xử
trong vụ án hành chính. Từ đó góp phần “tháo gỡ” những bất cập còn tồn tại, nâng
cao tính hiệu quả của nền tài phán hành chính ở nước ta.
6. Kết cấu của đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì sẽ nội
dung sẽ được trình bày trong hai chương chính như sau:
Chương I: Lý luận chung về tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án hành
chính.
Chương II: Thực trạng về tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án hành
chính và kiến nghị hoàn thiện.
4
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA HỘI ĐỒNG XÉT
XỬ TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1 Khái niệm về tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính
1.1.1 Khái niệm về tính độc lập
Trên thế giới tồn tại nhiều hệ thống chữ viết khác nhau. Quốc ngữ Việt Nam
vốn thuộc hệ chữ La Tinh, tuy nhiên, chữ viết thuở hàn vi của người Việt xưa lại là
chữ Hán, ấn tích của Hán tự ngày nay vẫn còn đọng lại rất nhiều và chiếm số lượng
lớn trong kho tàng ngôn từ của người Việt. Do đó, trong phạm vi của đề tài này, tác
giả sẽ lựa chọn giải thích khái niệm của tính độc lập theo hai hệ chữ viết có mối gắn
kết mật thiết với chữ viết Việt Nam, đó là hệ chữ viết La Tinh mà đại diện là tiếng
Anh và hệ chữ tượng hình mà đại diện là tiếng Hán.
Trong tiếng Anh, “độc lập” là “independence”. Từ gốc của “independence” là
“dependence – phụ thuộc” thêm vào phía trước là tiền tố phủ định “in”. “Dependence”
hay viết ở dạng động từ là “depend” trong tiếng Anh hiện đại có nghĩa là phụ thuộc,
chịu ảnh hưởng bởi ai đó hay cái gì đó. Tuy nhiên, trong cách sử dụng của tiếng Anh
thời kỳ trung đại, nghĩa gốc của “depend” là “hang down”1, có nghĩa là để cái gì đó
rơi xuống, thõng xuống dưới, ý nghĩa này gợi nên hình ảnh sự vật ở trong một trạng
thái thong dong, phó mặt cho mọi thứ, bị kéo xuống và xuôi theo lực hút của trái đất.
Khi đặt tiền tố phủ định “in” trước “dependence” đồng nghĩa với việc phủ định sự
buông xuống, xuôi theo lực hút kia, hay nói cách khác “independence” chính là không
buông xuôi, không cam chịu sự sắp đặt của tự nhiên, mà bám víu lấy mục tiêu của
mình và hiện thực hoá bằng hành động.
Về phương diện hệ chữ cái tượng hình, “độc lập” được viết dưới dạng Hán tự
như sau: 独立, gồm hai chữ 独 (độc) và 立 (lập) tạo thành. Chữ 独 (độc) được tạo
thành bởi hai bộ, bên trái là bộ Khuyển, bên phải là bộ Trùng. Bộ Khuyển chỉ loài
chó, bản tính của loài này vốn hung dữ, hiếu chiến, không chiến đấu theo bầy đàn mà
đơn thân độc mã đối diện với kẻ địch, sau khi đánh bại được đối thủ, chúng sẽ một
mình tận hưởng phần thức ăn, tức con mồi của mình. Đối với bộ Trùng, ý nghĩa của
bộ này ám chỉ “trùng” trong “côn trùng”. Hàm ý của bộ Trùng bắt nguồn từ bản tính
của một loại côn trùng tên gọi thục quỳ, loài này thích sống một mình bên trong các
bông hướng dương2. Bản tính chính là cái vốn có, được giới tự nhiên “mã hoá” lên
1
Theo
Từ
điển
Oxford
Learner’s
Dictionaries
online,
https://www.oxfordlearnersdictionaries.com/definition/english/dependence?q=dependence, truy cập ngày
11/04/2022.
2
Theo thông tin của một thầy giáo người Trung Quốc dạy tiếng Trung cho người Việt mà tác giả đã liên hệ,
trao đổi về ý nghĩa của 独.
5
mỗi một sinh vật tồn tại trong trời đất này. Dù là chó nghiệp vụ hay chó nuôi trông
nhà, dẫu hoàn cảnh sống, huấn luyện khác nhau nhưng chúng luôn giữ tập tính chiến
đấu một mình. Đã là thục quỳ, từ lúc sinh ra cho đến lúc chết đi, đều sẽ trải qua một
kiếp sâu bọ đơn độc bên trong mỗi bông hướng hướng. Từ đó, hình thành nên ý nghĩa
của “độc” trong “độc lập” theo chữ Hán là tự mình tồn tại, tự mình hành động và đây
là sự tự nhận thức, không chịu ảnh hưởng hay tác động của bất cứ ai, là một đặc tính
tự nhiên, thuộc về phần bản năng. Còn 立 (lập) bắt nguồn từ cổ văn xưa là hình vẽ
một người đứng giữa trời đất, hai chân dang rộng, giữ vững tư thế đứng thẳng, về bản
chất, từ “lập” có ý nghĩa là đứng thẳng. Có thể nói, “lập” hàm ý cho một người đứng
giữa trời đất bao la, đang tìm kiếm chỗ đứng cho chính mình3, đứng thẳng người
đương đầu với gian truân, không nương tựa hay dựa dẫm vào bất cứ điều gì. Từ đó,
“độc lập” trong tiếng Trung có nghĩa là tự mình tồn tại, tự mình hành động, không
nương tựa hay dựa dẫm vào bất kỳ ai, vào bất kỳ điều gì và đây là sự tự nhận thức, là
một đặc tính tự nhiên mà không chủ thể nào có thể tạo ra hay triệt tiêu đi trên bản
thân một sinh vật.
Theo cách giải thích của Từ điển Tiếng Việt, thì độc lập là “đứng một mình,
không dựa vào ai, không nhờ cậy vào ai, không bị ai kiềm chế”4. Có thể thấy, cách
lý giải này khá ngắn gọn, không có các giai đoạn thay đổi để khai thác các cách hiểu
khác nhau trong từng giai đoạn đó và cũng không có chiều sâu để có thể liên tưởng
vì không được hình thành từ hình ảnh sự vật thật trong tự nhiên. Hơn nữa, “độc lập”
vốn là một từ Hán Việt, được người Việt mượn từ tiếng Hán, trong quá trình chuyển
ngữ, người dịch thuật có thể chỉ đơn thuần dịch thoáng nghĩa của từ để phù hợp với
cách hiểu của người Việt Nam, do vậy mà nghĩa của từ “độc lập” theo Từ điển Tiếng
Việt nói trên có thể chưa bao quát được phần nội tại bên trong ý nghĩa thật sự của từ
này theo ý nghĩa gốc mà tiếng Hán biểu đạt. Tựu chung lại, dù có những sự khác nhau
nhất định, tuy nhiên, “độc lập” trong cả ba ngôn ngữ trên đều biểu đạt một điểm
chung: “độc lập” là tự mình hành động, không bị lệ thuộc hay dựa dẫm vào ai.
Từ đó, theo quan điểm của tác giả, “độc lập” chính là không nương tựa hay
dựa dẫm vào ai hay điều gì, tự mình tồn tại, tự mình hành động, không buông xuôi,
không thoả hiệp khi đối diện với sự an bài của số mệnh, vươn lên chiến thắng nghịch
cảnh, “độc lập” trong mỗi chủ thể là kết tinh của quá trình tự nhận thức, không phải
kết quả của việc chịu ảnh hưởng hay tác động của bất cứ nhân tố nào.
3
许慎 (2021), 话说汉字 (Tạm dịch: Giải nghĩa Hán tự), NXB 北京联合, tr. 207.
4
Hoàng Phê (Chủ biên) (1994), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, tr. 316.
6
1.1.2 Khái niệm về Hội đồng xét xử
Công lý và Toà án là hai phạm trù có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động
qua lại lẫn nhau, trong đó công lý là tiêu chí đánh giá nền tư pháp của một quốc gia,
còn Toà án là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của chế độ, là nơi bảo vệ công lý.
Nhắc đến việc bảo vệ và thực thi công lý, người ta nghĩ ngay đến hoạt động và chức
năng xét xử của Toà án.
Theo Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Đào Trí Úc và Thạc sĩ Nguyễn Thu Trang thì
“hoạt động xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước nhằm xem xét, đánh
giá và ra phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay
quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích khác
nhau trong các tranh chấp hay mâu thuẫn đó”5. Đối với nội dung của hoạt động xét
xử, việc thực hiện các hoạt động xem xét, đánh giá và ra phán quyết về “tính hợp
pháp” của hành vi pháp luật là điều không có gì bàn cãi, tuy nhiên, nếu hoạt động xét
xử lại bao hàm cả việc phán xét “tính đúng đắn” của hành vi pháp luật đó thì liệu có
phù hợp hay chăng? “Tính đúng đắn” thuộc phạm trù xã hội, là chỉ số để đo lường
thái độ, hành vi của con người có phù hợp với quy luật, lẽ phải, đạo lý hay không. Cơ
sở để nhận định “tính đúng đắn” chủ yếu dựa trên quan điểm cá nhân, tức là tuỳ mỗi
cá nhân sẽ có những cách nhìn nhận chủ quan khác nhau về hành vi xảy ra trong thực
tế. Xem xét “tính đúng đắn” của các hành vi pháp luật có thể hiểu chính là xem xét
“tính hợp lý” của các hành vi đó. Tuy nhiên, tranh chấp trong tố tụng hành chính lại
không được xem xét ở khía cạnh “tính hợp lý”, bởi lẽ, nếu Toà án xem xét “tính hợp
lý” sẽ đồng nghĩa với việc can thiệp vào công việc nội bộ của nhánh hành pháp. Do
đó, việc nhận định về “hoạt động xét xử” ở trên bao hàm cả xem xét, đánh giá và ra
phán quyết về “tính đúng đắn” của hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật thì
chưa được toàn diện, bởi lẽ nó sẽ dẫn đến một sự vận dụng khập khiễng nếu áp vào
việc giải quyết các vụ án hành chính.
Pháp luật tố tụng Việt Nam không nêu ra một định nghĩa cụ thể về hoạt động
xét xử cũng như Hội đồng xét xử là gì mà chỉ quy định khái niệm của Hội đồng xét
xử theo hướng liệt kê số lượng thành phần Thẩm phán và Hội thẩm tham dự. Tuỳ
thuộc vào loại vụ án, cấp xét xử, phiên toà bình thường hay rút gọn mà quy định số
lượng Thẩm phán và Hội thẩm cho phù hợp với bản chất của phiên toà. Cụ thể, theo
Điều 63, 64 BLTTDS 2015 thì “Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm
phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ
5
Đào Trí Úc, Nguyễn Thu Trang (2014), “Vai trò của hoạt động xét xử của tòa án trong quá trình phát triển hệ
thống pháp luật Việt Nam”, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208193, truy cập ngày
11/04/2022.
7
thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Hội đồng xét xử phúc
thẩm vụ án dân sự gồm ba Thẩm phán”. Theo Điều 254 BLTTHS 2015 “Hội đồng
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trường hợp vụ
án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai
Thẩm phán và ba Hội thẩm. Đối với vụ án có bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy
định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì Hội đồng xét xử
sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Còn Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm
ba Thẩm phán”. Theo Điều 154 LTTHC 2015 thì Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án
hành chính gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm, trừ phiên toà rút gọn, trong trường
hợp khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh liên quan đến nhiều đối tượng và vụ án phức
tạp thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Còn Hội đồng xét
xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán.
Bên cạnh đó, đối với những vụ án nếu đáp ứng điều kiện pháp luật quy định
thì sẽ được áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết. Với thủ tục rút gọn, tình tiết vụ án
đơn giản, tài liệu, chứng cứ đầy đủ, các đương sự đều có địa chỉ cư trú, trụ sở rõ ràng,
có đủ những điều kiện cần thiết để đảm bảo vụ án có thể được giải quyết một cách
thuận lợi, do đó, thành phần Hội đồng xét xử trong thủ tục rút gọn chỉ cần một Thẩm
phán. Hội đồng xét xử chỉ đơn thuần là cách gọi tên tại phiên toà của những chủ thể
có thẩm quyền xét xử một vụ án, đặc điểm chung của họ chính là đều hướng đến việc
tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Tính chất của danh xưng này vốn để gọi tên chủ
thể làm nhiệm vụ phân xử đúng sai tại phiên toà, Thẩm phán tại phiên toà rút gọn
cũng thực thi nhiệm vụ này. Hội đồng xét xử ở đây không dựa vào số lượng các thành
viên để kết luận có hay không sự tồn tại của chức danh này tại phiên toà. Trong phiên
toà rút gọn, dù chỉ có một Thẩm phán nhưng vẫn được xem là Hội đồng xét xử. Ngoài
ra, đối với thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm, theo quan điểm của tác giả, đây là hai
thủ tục đặc biệt xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chứ không
phải là cấp xét xử, nên thuật ngữ Hội đồng xét xử sẽ không được sử dụng trong hai
thủ tục này.
Từ đó, có thể nhận thấy, theo quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử chỉ xuất
hiện trong phiên toà sơ thẩm và phiên toà phúc thẩm. Ở cấp xét xử sơ thẩm, Hội đồng
xét xử sẽ gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, trong trường hợp đặc biệt
thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân,
còn ở cấp xét xử phúc thẩm thì Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán. Đối
với phiên toà rút gòn, Hội đồng xét xử chỉ có một Thẩm phán.
8
Theo quan điểm của tác giả, “xét xử” là xem xét, đánh giá bản chất của một
hành vi hay một quyết định và đưa ra một phán xét tương ứng với bản chất, mức độ
của hành vi hay quyết định đó có trái với quy định của pháp luật hay không. Từ đó,
Hội đồng xét xử là tập hợp những chủ thể đáp ứng một số điều kiện nhất định, được
chỉ định, lựa chọn, để thực hiện các công tác, nghiệp vụ nhằm xem xét, đánh giá bản
chất của một vụ việc và nhân danh quyền lực nhà nước đưa ra phán quyết về vụ việc
đó có vi phạm quy định của pháp luật hay không cùng các quyết định liên quan đến
vụ việc. Tuỳ thuộc vào cấp xét xử, tính chất của vụ án mà số lượng và thành phần
của Hội đồng xét xử sẽ có sự khác biệt, nếu là cấp xét xử sơ thẩm thì Hội đồng xét
xử có thể gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm hoặc hai Thẩm phán và ba Hội thẩm,
trong trường hợp là cấp xét xử phúc thẩm thì thành phần Hội đồng xét xử chỉ gồm ba
Thẩm phán, với phiên toà rút gọn thì Hội đồng xét xử chỉ gồm một Thẩm phán.
1.1.3 Khái niệm về tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án hành
chính
Mối quan hệ giữa tính độc lập của Hội đồng xét xử và tính độc lập của Hội
đồng xét xử trong vụ án hành chính là mối quan hệ hữu cơ giữa cặp phạm trù cái
chung và cái riêng. Tính độc lập của Hội đồng xét xử không chỉ hiện diện trong duy
chỉ các vụ án hành chính mà còn xuất hiện cả trong các vụ án dân sự, hình sự bởi vì
nó thuộc phạm trù cái chung. Trước khi nghiên cứu về khái niệm tính độc lập của
Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính, chúng ta cần xem xét tính độc lập của Hội
đồng xét xử nói chung, đây sẽ là cơ sở để đi đến sự lý giải đúng đắn nhất về khái
niệm chúng ta cần phân tích. Tính độc lập của Hội đồng xét xử sẽ được phân tích
dưới ba phương diện sau đây:
Dưới góc độ ngôn ngữ
Về phương diện ngôn từ, tính độc lập của Hội đồng xét xử là việc các thành
viên trong hội đồng không lệ thuộc, không dựa dẫm vào quan điểm của bất cứ ai, có
nhận định của riêng mình về sự thật khách quan của vụ án, tự mình quyết định về “lá
phiếu” mình sẽ đưa ra trong giai đoạn nghị án. Trong trường hợp đối diện với áp lực,
sức ép của môi trường xung quanh, không buông xuôi theo sự an bài của người khác,
mà ngược lại phải thể hiện bản lĩnh của mình. Thẩm phán, Hội thẩm có thể nhận được
chỉ đạo của cấp trên hay gặp phải sự mua chuộc, nhận được những lời hứa hẹn về
một lợi ích nào đó về mặt vật chất hoặc tinh thần sau khi đưa ra phán quyết từ các cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác, lúc này, Hội đồng xét xử không được dao động, lung
lây mà phải vượt qua được những sự sắp đặt của cấp trên hay những cám dỗ, tư lợi
để hoàn thành sứ mệnh của mình. Hơn hết, độc lập là sự kết tinh của quá trình tự nhận
thức trong tiềm thức của mỗi một thành viên của Hội đồng xét xử, là sự tự giác chứ
9
không phải kết quả của việc chịu ảnh hưởng hay tác động của bất cứ chủ thể nào khác.
Như tác giả đã phân tích ở trên, nguồn gốc của từ 独 (độc) trong 独立 (độc lập) có
nguồn gốc và lấy cảm hứng từ bản tính đơn thân độc mã đối diện với kẻ địch của loài
chó và sự cô độc sinh tồn trong mỗi bông hướng dương của thục quỳ, đây là bản năng
vốn có của chúng. Khi giới sinh vật “nặn” nên các loài này đã đồng thời gắn vào trong
bản thể của chúng cái bản tính kia. Ngay từ khi Hội đồng xét xử được hình thành thì
họ đã có sứ mệnh là bảo vệ cán cân công lý và kim chỉ nam để đảm bảo cho Hội đồng
xét xử thực hiện được nghĩa vụ của mình chính là sự độc lập. Sự độc lập của Hội
đồng xét xử không do ai tạo ra cũng sẽ không bị ai triệt tiêu đi mà sự độc lập này gắn
liền với Hội đồng xét xử, thuộc phạm trù bản chất vốn có của danh xưng này, đã là
thành viên của Hội đồng xét xử thì sẽ gắn với tính độc lập. Nếu không có tính độc
lập thì Hội đồng xét xử sẽ không thể thực hiện được chức năng của mình, mà một sự
vật, hiện tượng được tạo ra vì một mục đích nào đó, nếu không thực hiện được chức
năng vốn được mong đợi trước đó hay có thể nói là không còn giá trị nữa thì sự vật,
hiện tượng ấy sẽ sớm bị thực tế khách quan đào thải hoặc bị thay thế bằng một phiên
bản khác ưu việt hơn.
Dưới góc độ lý luận
Hoạt động của quyền lập pháp và quyền hành pháp thường hướng tới những
chính sách vĩ mô, những chiến lược dài hạn, dựa trên các quan hệ xã hội đang tồn tại
cùng với sự phát triển của kinh tế và những biến động của thế giới mà tạo lập nên
những kế hoạch, sách lược, ban hành các nghị định, quyết định để quản lý xã hội và
phát triển đất nước. Còn với quyền tư pháp, chỉ khi nào xuất hiện những tranh chấp,
mâu thuẫn, bất bình và một bên đệ đơn lên Tòa án thì Tòa án mới thực hiện công việc
của mình. Đặc trưng hoạt động nghề nghiệp của quyền lập pháp và hành pháp là
hoạch định những điều vĩ mô, ngược lại, đặc thù hoạt động nghề nghiệp của quyền
lực tư pháp là liên quan đến những vụ án cụ thể, là giải quyết những gì đang xảy ra ở
hiện tại. Ngoài ra, chức năng của lập pháp là làm luật, chức năng của hành pháp là
thực thi pháp luật và chức năng của tư pháp là giải quyết các tranh chấp. Bản thân
quyền tư pháp và hai nhánh quyền lực kia vốn dĩ không hề có điểm chung trong cách
thức hoạt động và chức năng, do đó hai nhánh quyền lực này không có cơ sở và cũng
không đủ khả năng để can thiệp vào hoạt động của Tòa án mà đại diện là hoạt động
xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Quyền lực nhà nước vốn được phân chia lần lượt
thành các quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp, trong đó đòi hỏi ba nhánh
quyền này phải độc lập và kiểm soát lẫn nhau, đặc biệt phải đảm bảo được tính đúng
đắn và khách quan của hoạt động xét xử thông qua những thiết chế bảo vệ sự độc lập
của quyền tư pháp, để khôi phục các quyền bị xâm hại của công dân.
10
C. Mác đã từng nói “Cấp trên của quan tòa là pháp luật”. Mối quan hệ giữa
các Tòa án với nhau là mối quan hệ giữa tòa cấp cao hơn và tòa cấp thấp hơn về thẩm
quyền tố tụng, không tồn tại tòa cấp trên và tòa cấp dưới khi bàn về thẩm quyền xét
xử, bởi lẽ “cấp trên” ở đây đã được C. Mác xác định, đó chính là luật pháp tối thượng.
Dưới góc độ lý luận, tính độc lập của Hội đồng xét xử thể hiện ở việc hội đồng này
phải tuân theo và phụng sự pháp luật, tuy nhiên vẫn có được sự độc lập nhất định với
quyền lập pháp và quyền hành pháp; trong đó, sự độc lập này không chỉ bao gồm ý
thức “tự miễn dịch” trước những ảnh hưởng của quyền lập pháp và quyền hành pháp
trong số thành viên Hội đồng xét xử, mà nó còn chứa đựng cả sự tự nhận thức của
hai nhánh quyền lực này về phạm vi quyền hạn của mình không bao hàm việc tác
động lên sự độc lập xét xử. Biểu hiện quan trọng nhất mang tính quyết định đến việc
cũng cố và phát huy tính độc lập của Hội đồng xét xử chính là sự tôn trọng đối với
hoạt động xét xử và sự tự nhận thức về vị trí của mình trong mối quan hệ với quyền
tư pháp đến từ quyền lập pháp và quyền hành pháp. Tính độc lập của Hội đồng xét
xử chung quy lại đóng một vai trò mấu chốt, là giá trị cốt lõi để thiết lập nên một nền
tư pháp độc lập.
Dưới góc độ pháp lý
Pháp luật tố tụng Việt Nam hiện nay không có bất cứ quy định nào giải thích
khái niệm về tính độc lập của Hội đồng xét xử, tuy nhiên trong mỗi BLTTDS 2015,
BLTTHS 2015, LTTHC 2015 đều có quy định về nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Cơ sở để Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính
thực hiện tính độc lập chính là vế sau của nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử
độc lập và tuân theo pháp luật”. “Chỉ tuân theo pháp luật đã loại trừ các nhân tố tác
động đến hoạt động xét xử để họ được độc lập. Nếu chỉ tuân theo pháp luật thì phán
quyết cứng nhắc, không hợp tình dễ thoả hiệp từ bên ngoài”6. Do đó, Hội đồng xét
xử cần phải độc lập trong tư duy pháp lý và làm chủ nhận thức về “thế giới quan” của
mình để có thể đi đến phán đúng đắn nhất. Thẩm phán, Hội thẩm sẽ được pháp luật
giao cho những nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc trưng và thuộc
tính của chức danh tư pháp này. Đích đến cuối cùng mà pháp luật muốn hướng đến
trong việc “thiết kế” và giao phó các nhiệm vụ, quyền hạn cho Hội đồng xét xử chính
là tìm ra sự thật vụ án, khôi phục lại những quyền hợp pháp của công dân đã bị xâm
phạm. Tính độc lập của Hội đồng xét xử có thể hiểu là sự độc lập trong việc thực thi
hoạt động xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm, mà không phải vấp phải bất cứ sự can
6
Nguyễn Thảo Linh (2016), Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
trong tố tụng hành chính, Luận văn tốt nghiệp, Đại học Luật TP. HCM, tr. 8.
11
thiệp nào từ cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Và sự độc lập này không phải là sự tự
quyết tuỳ tiện, theo ý muốn nội tâm của các thành viên Hội đồng xét xử, mà nằm
trong sự giới hạn và kiểm soát của pháp luật.
Tuy nhiên, vụ án hành chính lại có một nét đặc trưng rất đặc biệt so với vụ án
dân sự và hình sự, đó là người bị kiện trong vụ án hành chính là cơ quan, tổ chức, cá
nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc,
quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử
tri bị khởi kiện7. Có thể nói người bị kiện trong vụ án hành chính mang trong mình
quyền lực nhà nước, do đó sự công bằng giữa người khởi kiện và người bị kiện là
không tuyệt đối. Tòa án nhân dân hiện nay được tổ chức theo mô hình hành chính
lãnh thổ, về mặt pháp lý, các Toà án nhân dân hoàn toàn không nằm dưới sự quản lý,
chi phối của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, trên thực tế, Toà án địa phương còn
lệ thuộc vào chính quyền vào mặt kinh phí hoạt động. Thực trạng này vẫn chưa được
giải quyết, do đó, việc Thẩm phán vẫn còn “e ngại” chính quyền địa phương là điều
dễ hiểu. Thêm vào đó, những người đứng đầu trong các cơ quan quyền lực nhà nước
này không có ai mong muốn quyết định hành chính hay hành vi hành chính của mình
bị Toà án tuyên trái với quy định của pháp luật, nếu như vậy sẽ ảnh hưởng đến uy tín
của cơ quan mình nói chung và bản thân mình nói riêng, do đó họ thường có xu hướng
bằng cách này hay cách kia tác động vào Hội đồng xét xử để hội đồng này đưa ra
phán quyết có lợi cho phía họ.
Tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính là việc Thẩm phán
và Hội thẩm không bị chi phối bởi quan điểm của bất cứ đối tượng nào, đặc biệt là ý
chí của phía người bị kiện, giữ vững quan điểm cá nhân về sự thật khách quan của vụ
án, trên cơ sở pháp luật, tự mình quyết định về việc bỏ phiếu gì trong giai đoạn nghị
án. Nếu tác nhân ảnh hưởng đến việc tái bổ nhiệm của Thẩm phán từ chính quyền địa
phương đã được pháp luật khắc phục thì sự lệ thuộc về mặt kinh phí hoạt động của
Toà án vào chính quyền địa phương vẫn chưa được giải quyết, điều này góp phần
hình thành tâm lý nể nang, ngại đụng chạm đến chính quyền địa phương để bảo toàn
các nguồn ngân sách hỗ trợ cho Toà án trong quan điểm của Thẩm phán nói riêng và
lãnh đạo Toà án nói chung, do đó, tính độc lập của Thẩm phán trong các vụ án hành
chính lại càng khó để giữ vững. Tuy nhiên, đối diện với những sự sắp xếp, an bài của
lãnh đạo cấp trên, đối mặt với những lợi ích mang giá trị về mặt vật chất và tinh thần,
Thẩm phán nói riêng và Hội đồng xét xử nói chung không được tuân theo, xuôi mình
theo những điều tiêu cực, mà phải vươn mình, thoát khỏi sự ràng buộc của các nhân
7
Khoản 9 Điều 3 LTTHC 2015.
12
tố cản trở đến sự độc lập của mình. Tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án
hành chính là sự kết tinh của quá trình tự nhận thức trong nội tại của mỗi một thành
viên, thuộc phạm trù bản chất vốn có của danh xưng Hội đồng xét xử, tính độc lập
này không do ai tạo ra, cũng không bị ai làm cho “tiêu vong” đi, mà nó gắn liền với
danh xưng này. Việc có giữ được tính độc lập hay không phụ thuộc là chủ thể của nó,
tức Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính.
1.2 Nội dung tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính
Tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính được pháp điển hoá
bằng nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” và
ngược lại nguyên tắc này tạo tiền đề cho việc thực thi có hiệu quả tính độc lập của
Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính. Cơ sở lý luận của nguyên tắc độc lập xét xử
của Thẩm phán gắn liền với nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước theo cơ chế phân
công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa ba nhánh quyền lực là lập pháp, hành
pháp và tư pháp. “Một nhà nước mạnh luôn gắn với hành pháp mạnh, hành pháp
mạnh có thể dễ dẫn đến sự chuyên chế, độc tài và tham nhũng nên việc kiểm soát
quyền lực hành pháp là rất quan trọng”8. Có thể thấy sự độc lập của Toà án có một
vai trò vô cùng quan trọng và liên quan đến sự “tồn vong” của một nền tư pháp liêm
chính, trong sạch.
Tính độc lập của Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính không chỉ đơn thuần
là sự độc lập trong nội tại của Hội đồng xét xử mà còn phải là sự độc lập giữa các
thành viên của Hội đồng xét xử với các tác nhân bên ngoài khác. Có thể nói sự độc
lập của Hội đồng xét xử phải được hình thành, đảm bảo và duy trì trên cả hai phương
diện là “bên trong” và “bên ngoài” của Hội đồng xét xử.
Tính độc lập trong nội tại của Hội đồng xét xử trong vụ án hành chính
“Hội đồng xét xử” không phải là một chức danh tư pháp mà chỉ đơn thuần là
tên gọi tại toà của một hội đồng làm nhiệm vụ xét xử bao gồm Thẩm phán cùng các
Hội thẩm nhân dân, “vòng đời” của danh xưng “Hội đồng xét xử” “chạy song song”
với tiến trình của một phiên toà, tức tên gọi này chỉ xuất hiện khi phiên toà bắt đầu
và chấm dứt khi phiên toà kết thúc. Về lý thuyết, Hội thẩm nhân dân tham gia giải
quyết vụ án hành chính sơ thẩm từ thời điểm được Chánh án phân công, tuy nhiên,
trên thực tế, Hội thẩm thật sự bắt đầu thực hiện công việc tham gia xét xử vụ án từ
thời điểm nhận được hồ sơ vụ án và bước vào giai đoạn nghiên cứu hồ sơ này. Sự
độc lập của Hội đồng xét xử là sự độc lập giữa Thẩm phán với các Hội thẩm, hoặc
8
Trịnh Thị Xuyến (2008), Kiểm soát quyền lực nhà nước – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện
nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội, tr.157.
13
giữa các Thẩm phán với nhau trong cùng một hội đồng với nhau và được thể hiện
trong ba quá trình sau đây:
Giai đoạn nghiên cứu hồ sơ vụ án
Nghiên cứu hồ sơ vụ án là tổng hợp một chuỗi các hoạt động nghề nghiệp đặc
thù của Thẩm phán và Hội thẩm, bao gồm xem xét, đánh giá, phân tích, tổng hợp, so
sánh, đối chiếu các tài liệu cũng như chứng cứ liên quan đến vụ án, từ đó góp phần
tìm ra sự thật khách quan của vụ án, khôi phục lại trật tự xã hội đã bị xâm hại. Đây là
nền tảng, là tiền đề để có được sự độc lập trong tư duy tại phiên toà cũng như tại
phòng nghị án. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án giúp Thẩm phán cũng như Hội thẩm
nhân dân có những nhìn nhận sơ khai về vụ án cũng như nắm bắt được các tình tiết
và bản chất của vụ án, từ đó mà có cơ sở để tra cứu, tìm hiểu các điều khoản của pháp
luật liên quan. Nếu Thẩm phán hay Hội thẩm không có sự chuẩn bị trước, không
nghiên cứu trước hồ sơ vụ án thì sẽ dễ rơi vào thế bị động tại phiên toà. Độc lập trong
giai đoạn nghiên cứu hồ sơ vụ án đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm phải độc lập trong
ba khía cạnh sau: độc lập trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án được Toà án giao; độc
lập trong việc đánh giá, áp dụng các quy định của pháp luật vào các tình tiết trong hồ
sơ vụ án và độc lập trong việc tìm hiểu các kiến thức chuyên môn thuộc các lĩnh vực
khác có liên quan đến nội dung vụ án.
Khi nhận được hồ sơ vụ án được Toà án giao, các thành viên Hội đồng xét xử
phải tiến hành nghiên cứu hồ sơ ấy, xem xét, đánh giá, phân tích, tổng hợp các tình
tiết của bản án để có một cái nhìn tổng thể cũng như nắm bắt được bản chất của vụ
án. Sau đó, trên cơ sở đã nghiên cứu các tình tiết, Thẩm phán và Hội đồng xét xử
bước đầu thực hiện việc soi chiếu, đánh giá và “khoanh vùng” các quy định pháp luật
liên quan. Chưa dừng lại ở đó, để giải quyết một tranh chấp hành chính, những đòi
hỏi về việc nắm vững các tình tiết của vụ án cùng các quy định pháp luật có liên quan
là điều cần thiết, tuy nhiên, hơn hết, người phán xử trong các vụ án hành chính còn
cần có một lượng kiến thức chuyên môn vừa đủ về các lĩnh vực khác. Bởi lẽ án hành
chính liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước, mà hoạt động này lại bao trùm trên
hầu hết các lĩnh vực đời sống. Ví dụ, đối với tranh chấp hành chính về đất đai, tranh
chấp này thường gắn với “các yếu tố kỹ thuật và các sự kiện như xác định giá đất áp
dụng trong các vụ việc tranh chấp, tính toán diện tích đất bị thu hồi, hoặc toàn bộ
chi phí liên quan đến thu hồi đất. Để giải quyết hiệu quả các tranh chấp này, bên
cạnh hiểu biết về luật đất đai, những người xét xử cũng đòi hỏi phải có kinh nghiệm
14
trong lĩnh vực quản lý đất đai và thị trường bất động sản”9. Do đó, để có thể nắm bắt
được bản chất tranh chấp và có hướng giải quyết đúng, thì Hội đồng xét xử không
thể xem nhẹ việc tìm hiểu các kiến thức chuyên môn khác có liên quan đến vụ tranh
chấp.
Trong giai đoạn của quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án này, Thẩm phán và Hội
thẩm có sự trao đổi, tham khảo cách nhìn nhận của nhau về vụ án, tuy nhiên, hoạt
động này chỉ nên dừng lại với mục đích tham khảo như lúc ban đầu, chứ không được
trở thành cơ sở tác động vào tự duy độc lập của thành viên Hội đồng xét xử. Tham
khảo quan điểm của người khác là tốt, tuy nhiên, không được để quan điểm ấy chi
phối cách suy nghĩ của mình. Trong thực tế, Hội thẩm nhân dân vốn là các công chức
kiêm nhiệm, do đó, có nhiều người không đảm bảo được thời gian cho công việc làm
Hội thẩm, nhiều trường hợp nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách rất qua loa, thậm chí là
không nghiên cứu. Hành vi không nghiên cứu hồ sơ vụ án của Hội thẩm là thái độ lệ
thuộc vào Thẩm phán. Hành vi này cũng có thể được xem là cản trở đến tính độc lập
của Hội đồng xét xử.
Trong phần xét hỏi tại phiên toà
Mục đích của phần xét hỏi tại phiên toà là nhằm làm sáng tỏ những khuất mắc,
nghi vấn về các tình tiết của vụ án, từ đó mà đưa ra nhận định đúng nhất về sự thật
của vụ án. Theo quy định của LTTHC 2015, sau khi nghe xong lời trình bày của
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, dưới sự điều hành
của Chủ toạ phiên toà, những chủ thể sau đây sẽ lần lượt được tham gia hỏi theo thứ
tự như sau: đầu tiên là đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự; tiếp theo là những người tham gia tố tụng khác; sau đó là Chủ tọa phiên tòa, Hội
thẩm nhân dân; cuối cùng là kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Độc lập trong phần xét hỏi tại phiên toà đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân phải độc lập với câu hỏi của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự cùng những người tham gia tố tụng khác khi những người này được
thực hiện quyền hỏi của mình trước Thẩm phán và Hội thẩm. Đồng thời, sự độc lập
trong tiến trình tiến hành thủ tục xét hỏi này cũng đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm
phải độc lập nhau. Cụ thể, những câu hỏi của thành viên Hội đồng xét xử không được
hỏi trùng với câu hỏi của những chủ thể đã tiến hành hỏi trước đó và không được
trùng với nhau, tốt nhất là nên đứng trên nhiều phương diện, vấn đề khác nhau của
vụ án để đặt câu hỏi. Độc lập trong quá trình xét hỏi giúp tránh lãng phí thời gian với
9
Nguyễn Văn Quang (2007), Nghiên cứu so sánh về hệ thống kiểm tra, giám sát hoạt động hành chính bằng
Toà án và cơ quan tài phán hành chính ở Australia và Việt Nam: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Luận án
tiến sĩ, tr. 47.
15
việc lặp lại những câu hỏi đã được hỏi, và hơn hết là “cởi bỏ” được những thắc mắc,
“bóc tách” được nhiều khía cạnh của vụ án mà thông qua hoạt động nghiên cứu hồ
sơ chưa thể nắm bắt được.
Thực tiễn xét xử, có những phiên toà, tại phần xét hỏi, chỉ có mình Thẩm phán
đặt câu hỏi cho các đương sự, trong khi đó, hai Hội thẩm bên cạnh chỉ giữ im lặng.
Có thể là vì Hội thẩm đã nắm vững được cách tình tiết của vụ án và câu hỏi của Thẩm
phán cùng câu trả lời của đương sự vừa hay giải đáp được những “nút thắt” của họ
về vụ án, nên họ cảm thấy không cần thiết để hỏi; hoặc cũng có thể là vì họ căn bản
không biết bắt đầu từ đâu, không biết hỏi điều gì, mọi việc cứ theo Thẩm phán chủ
toạ. Hội thẩm không thể nào chỉ “ngồi cho có” tại phiên toà, mọi việc xét hỏi đều phó
thác cho Thẩm phán, mà họ phải thể hiện sự độc lập và chủ động trong việc đặt câu
hỏi.
Giai đoạn nghị án
Pháp luật tố tụng quy định chỉ có thành viên của Hội đồng xét xử mới có quyền
nghị án. Nghị án là một giai đoạn quan trọng, tại đây, những vấn đề của vụ án sẽ được
Hội đồng xét xử quyết định. Việc nghị án được tổ chức ở phòng riêng và cách ly với
bên ngoài, không chủ thể nào được pháp can thiệp vào hoạt động nghị án của các
thành viên Hội đồng xét xử. Sự độc lập của Hội đồng xét xử khi bước vào giai đoạn
nghị án thể hiện ở sự độc lập trong việc xem xét lại các vấn đề của vụ án dựa trên
những cơ sở, căn cứ cho phép theo quy định của pháp luật và sự độc lập trong việc
biểu quyết các vấn đề nói trên.
Thẩm phán và Hội thẩm phải dựa vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem
xét tại phiên tòa, kết quả việc tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, các
quy định của pháp luật và nghiên cứu, áp dụng án lệ hành chính (nếu có) để “đưa ra
các kết luận của mình mà không lệ thuộc vào quan điểm, chính kiến của các thành
viên khác trong Hội đồng xét xử”10. Bước vào giai đoạn nghị án, các vấn đề của vụ
án đều phải được giải quyết bằng biểu quyết và quyết định theo đa số, Hội thẩm nhân
dân biểu quyết trước, Thẩm phán là người biểu quyết sau cùng, do đó, Thẩm phán
không được để “lá phiếu” của mình bị ảnh hưởng bởi các Hội thẩm đã bỏ phiếu trước,
dù cho xác suất quan điểm của Thẩm phán bị ảnh hưởng bởi Hội thẩm nhân dân là
khá thấp. Thực tiễn chứng minh, lưu lượng kiến thức pháp lý cũng như kinh nghiệm
xét xử của Hội thẩm đều có phần hạn chế hơn so với các Thẩm phán. Trong khi các
Thẩm phán là những người được đào tạo bài bản về kiến thức pháp lý cũng như phải
10
Trần Thị Thu Hằng (2018), “Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật –
Thực tiễn thực hiện và kiến nghị”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/nguyen-tac-tham-phan-hoi-thamxet-xu-doc-lap-va-chi-tuan-theo-phap-luat-thuc-tien-thuc-hien-va-kien-nghi, truy cập ngày 14/04/2022.
- Xem thêm -