Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận hãy trình bày các hiểu biết của em về các hormone tuyến thượng thận...

Tài liệu Tiểu luận hãy trình bày các hiểu biết của em về các hormone tuyến thượng thận

.DOCX
32
1
66

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI VIỆN KỸ THUẬT HÓA HỌC --------------- o0o --------------- Đề tài: Hãy trình bày các hiểu biết của em về các hormone tuyến thượng thận. Hà Nội Mục Lục I, Tìm hiểu chung về tuyến thượng thận................................................4 1, Tuyến thượng thận là gì?...................................................................4 2, Tuyến thượng thận nằm ở đâu?..........................................................4 3, Cấu tạo và chức năng của các hormone tuyến thượng thận...............5 4, Vai trò của tuyến thượng thận............................................................6 II, Các hormone tuyến thượng thận.......................................................7 1, Giới thiệu chung.................................................................................7 1.1, Phân loại hormone tuyến thượng thận............................................8 1.2, Kết cấu..........................................................................................10 1.3, Tổng hợp.......................................................................................11 2, Các loại hormone tuyến thượng thận...............................................11 2.1, Loại Mineralocorticoids................................................................11 2.2, Loại Glucocorticoid......................................................................13 2.3, Loại Androgen..............................................................................17 III, Rối loạn hormone tuyến thượng thận.............................................27 IV, Kết luận..........................................................................................29 2 Lời mở đầu Thượng thận là tuyến nội tiết nhỏ nằm ngay phía trên 2 quả thận, nó có vai trò đặc biệt quan trọng là tiết ra những hormone đem lại sự cân bằng cho mọi hoạt động của cơ thể. Tuyến thượng thận tiết ra adrenalin và cortisol, hai hormone đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm stress của con người. Tuyến thượng thận cũng tiết ra hormone DHEA (dihydroepiandrosterone) vàaldosterone. DHEA có vai trò trong điều tiết cơ thể như góp phần tăng cường và sửa chữa các phân tử protein trong mô tế bào, đặc biệt là trong cơ. Còn aldosterone là hormone tham gia điều khiển các chất khoáng trong cơ thể, góp phần giúp duy trì lượng chất lỏng và huyết áp. Có thể nói,tuyến thượng thận là một tuyến rất quan trọng, nơi tiết ra những hormone giúp điều tiết hoạt động của cơ thể, việc rối loạn chuyển hóa các hormone tuyến thượng thận có thể gây nên những căn bệnh nghiêm trọng đối với cơ thể con người. Vậy, hôm nay chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về các hormone tuyến thượng thận nhé. 3 I,Tìm hiểu chung về tuyến thượng thận 1, Tuyến thượng thận là gì? Tuyến thượng thận là phần nhỏ nằm trên mỗi thận, nó được chia thành 2 phần chính là phần vỏ thượng thận và tủy thượng thận. Cấu tạo tuyến thượng thận +Vỏ thượng thận: Lớp cầu (lớp ngoài), lớp sợi (phần giữa), lớp lưới (phần trong). +Tủy thượng thận: là một bộ phận thuộc hệ thần kinh giao cảm, được coi như hạch giao cảm, bao gồm các noron sau hạch đã bị biến đổi, chỉ có thân mà không có sợi nhánh và sợi trục được chi phối bởi các sợi trước hạch của hệ giao cảm. 4 2,Tuyến thượng thận nằm ở đâu? Có hai tuyến thượng thận nằm ở phía trên mỗi thận. Kích thước khoảng bằng quả óc chó, mỗi tuyến thượng thận có một phần bên ngoài (vỏ thượng thận) và một phần bên trong (tủy thượng thận). Tế bào trong những vùng khác nhau của tuyến thượng thận tạo những hormone khác nhau. 3, Cấu tạo và chức năng của các hormone tuyến thượng thận Tuyến này chia làm hai miền: miền tủy và miền vỏ có nguồn gốc khác nhau và chức năng khác nhau.  Miền vỏ: gồm ba lớp: lớp cầu, lớp sợi, lớp lưới. +Lớp ngoài (lớp cầu) tiết hormone điều hòa các muối khoáng (các chất điện giải), trong đó, quan trọng nhất là hormon aldosteron, có tác dụng giữ các ion Na+ và thải K+ trong máu, giúp điều hòa huyết áp. +Lớp giữa (lớp sợi) tiết hormon điều hòa đường huyết, trong đó có Cortisol là hormon có tác dụng chuyển hóa glucozo từ protein và lipit). Khi cơ thể cần, dưới tác dụng của Cortisol, glucose có thể được tổng hợp từ axit amin và axit béo do sự phân giải của protein và lipit. +Lớp trong (lớp lưới) tiết hormone điều hòa sinh dục nam tính, trong đó chủ yếu là androgen, ngoài ra còn có một lượng không đáng kể ostrogen. Androgen có tác dụng lên sự phát triển các đặc tính nam. Trong quá trình phát triển phôi, sự phân hóa giới tính nam chủ yếu là do tác dụng của androgen. Đến tuổi dậy thì, anđrôgen cùng với hormon tinh hoàn (testosteron) kích thích cơ quan sinh dục phát triển. Tuyến trên thận ở nữ cũng tiết loại hormon này, nếu tiết nhiều trong thời kì còn là thai nhi, có thể phát triển tính nam (thể hiện ở cơ quan sinh sản về bề ngoài hơi giống nam giới). 5 +Miền tủy: là một bộ phận thuộc hệ thần kinh giao cảm, được coi như hạch giao cảm, bao gồm các noron sau hạch đã bị biến đổi, chỉ có thân mà không có sợi nhánh và sợi trục được chi phối bởi các sợi trước hạch của hệ giao cảm. Khi bị kích thích, các tế bào tuyến tiết ra adrenalin và noradenalin có tác dụng giống với thần kinh giao cảm, nhưng hiệu quả có tác dụng kéo dài hơn khoảng mười lần vì chúng bị phân hủy chậm hơn chất truyền tin thần kinh (chất môi giới thần kinh). Tác dụng của hormon tủy tuyến trên thận là làm tăng nhịp tim, tăng lực co tim, tăng nhịp thở, dãn phế quản, tăng huyết áp, tăng đường huyết. 4, Vai trò của tuyến thượng thận Tuyến thượng thận là nơi tiết ra những hormone cân bằng cơ thể, ví như những hormone chống lại stress, điều tiết huyết áp... Tuyến thượng thận tiết ra adrenalin và cortisol, hai hormone đóng vai trò quan trọng trong làm giảm stress của con người. Nếu như adrenalin hoạt động tương đối 6 ngắn thì cortisol đóng vai trò kiểm soát stress lâu dài. Ban đầu, tuyến thượng thận tiết ra adrenalin làm giảm căng thẳng ngay tức thời, làm tăng nhịp tim và huyết áp. Sau đó, tuyến thượng thận tiết ra khá nhiều cortisol để kiểm soát stress lâu dài. Giống như adrenalin, cortisol có xu hương tăng lượng đường, một phần thông qua khả năng điều khiển quá trình chuyển các nhiên liệu không có đường như acid amin (nguyên liệu chính tạo protein) thành glucose. Hormone này cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình điều khiển hoạt động của hệ miễn dịch... Tuyến thượng thận cũng tiết ra hormonedihydroepiandrosterone và aldosterone. DHEA có vai trò trong điều tiết cơ thể như góp phần tăng cường và sửa chữa các phân tử protein trong mô tế bào, đặc biệt là trong cơ. Hormone này tham gia vào quá trình hàn gắn các mô tế bào sau khi chúng bị chấn thương hoặc viêm nhiễm. Thêm vào đó DHEA còn có thể được chuyển hoá thành các hormone khác như testoterone và oestrogen. Còn aldosterone là hormone tham gia điều khiển các chất khoáng trong cơ thể. Nó góp phần bảo vệ lượng sodium trong cơ thể và kích thích suy giảm potassium, những hoạt động giúp duy trì lượng chất lỏng và huyết áp. II, Các hormone tuyến thượng thận 7 1, Giới thiệu chung *Hormone là gì? "Hormone" là một từ tiếng Anh. Theo từ điển Anh - Việt có nghĩa là "nội tiết tố" là "một chất hóa học được tiết ra bởi một hoặc nhiều tế bào và chúng tác động lên các tế bào trong các bộ phận khác nhau của sinh vật". Chỉ một lượng nhỏ hormon được dùng trong quá trình trao đổi chất của tế bào. Nó là công cụ hóa học truyền các tín hiệu từ tế bào này đến tế bào khác. Tất cả các sinh vật đa bào đều sản xuất hormone, hormone thực vật được gọi là phytohormon. Cơ chế các hormone trong cơ thể động vật thường được truyền trong máu. Các tế bào phản ứng lại với hormone khi chúng tiếp nhận hormone đó. Hormone gắn chặt với protein tiếp nhận, tạo ra sự kích hoạt cơ chế chuyển đổi tín hiệu và cuối cùng dẫn đến các phản ứng riêng biệt trên từng loại tế bào. *Hormone tuyến thượng thận Ở người và các động vật khác, hormone tuyến thượng thận là hormone do vỏ thượng thận, vùng ngoài của tuyến thượng thận sản xuất. Các hoocmon steroid đa vòng này có nhiều vai trò quan trọng đối với phản ứng của cơ thể đối với căng thẳng (ví dụ: phản ứng chiến đấu hoặc bỏ chạy) và chúng cũng điều chỉnh các chức năng khác trong cơ thể. Các mối đe dọa đối với cân bằng nội môi, chẳng hạn như chấn thương, mất cân bằng hóa học, nhiễm trùng hoặc căng thẳng tâm lý, có thể bắt đầu một phản ứng căng thẳng. Ví dụ về các hormon vỏ thượng thận có liên quan đến phản ứng căng thẳng là aldosterone và cortisol. Những hormone này cũng có chức năng điều chỉnh sự bảo tồn nước của thận và chuyển hóa carbonhydrat, tương ứng. 1.1, Phân loại hormone tuyến thượng thận 8 Hormone vỏ thượng thận được chia thành ba loại theo chức năng: mineralocorticoid, glucocorticoid và androgen. -Các hormon khoáng bào được tổng hợp ở lớp ngoài cùng của vỏ thượng thận được gọi là zona glomerulosa. Chức năng của chúng là điều chỉnh nồng độ các chất điện giải lưu thông trong máu.Ví dụ, aldosterone có chức năng tăng nồng độ natri trong máu và giảm mức kali trong máu bằng cách nhắm mục tiêu đến thận. Cụ thể, nó liên kết các thụ thể của các tế bào bao gồm các ống thận ở xa, sau đó kích thích các kênh ion để bảo tồn natri và bài tiết kali. Ngoài ra, gradient ion bắt đầu bảo tồn nước. -Họ nội tiết tố glucocorticoid được tổng hợp ở lớp giữa của vỏ thượng thận được gọi là zona fasciculata. Những hormone này điều chỉnh quá trình xử lý protein, chất béo và carbohydrate của cơ thể con người. Họ cũng đóng một vai trò trong việc duy trì một chu kỳ phản ứng căng thẳng bình thường. -Androgens, hay hoóc môn giới tính, được tổng hợp trong lớp trong cùng của vỏ thượng thận được gọi là zona reticularis. Những hormone này, chẳng hạn như estrogen ở nữ và testosterone ở nam, thường được biết đến với việc thúc đẩy các đặc tính tình dục và sự trưởng thành của các cơ quan sinh sản của giới tính tương ứng. Tóm tắt lại Hormone vỏ thượng thận có nguồn gốc từ cholesterol tạo thành các steroid. Cholesterol qua các giai đoạn, hình thành 3 loại: Glucocorticoid (Gc): Cortisol, corticosterone. Mineralocorticoid (Gm): Aldosteron, 11-desoxycorticosterone. Nhóm hormon sinh dục: Androgen, estrogen (vết). Khoảng 30 loại steroid khác nhau được phân lập từ vỏ thượng thận, nhưng chỉ có 2 hormon có chức năng quan trọng là cortisol và 9 aldosteron. Tất cả hormon vỏ thượng thận được tổng hợp từ những mẫu acetat theo con đường cholesterol (sơ đồ). Trong máu 94% cortisol ở dạng kết hợp, chủ yếu gắn với globulin, được gọi là transcortin. 50% aldosteron ở dạng kết hợp lỏng lẻo với protein huyết tương. Ở mô đích, cortisol tác dụng và bị phá huỷ trong vòng 1-2 giờ còn aldosteron thì trong khoảng 30 phút. Các hormon vỏ thượng thận bị phá huỷ ở gan, 25% thải qua đường mật và 75% theo đường thận. Nồng độ cortisol bình thường khoảng 12 (g/dl), bài tiết mỗi ngày 15-20 mg. Nồng độ aldosteron khoảng 6 ng/dl, bài tiết 150-250 (g/ngày). 1.2, Kết cấu Hormone vỏ thượng thận được coi là hormone steroid vì đặc điểm chung với một xương sống cholesterol. Cấu trúc của các steroid khác nhau khác nhau bởi các loại và vị trí của các nguyên tử bổ sung trên xương sống cholesterol. Xương sống cholesterol bao gồm bốn vòng hydrocarbon, ba vòng cyclohexane và một cyclopentane, góp phần vào tính không hòa tan của nó trong môi trường nước. Tuy nhiên, bản chất kỵ nước cho phép chúng dễ dàng khuếch tán qua màng plasma của tế bào. Điều này rất quan trọng đối với chức năng của hormone steroid vì 10 chúng dựa vào con đường phản ứng của tế bào để khôi phục sự mất cân bằng cân bằng nội môi bắt đầu giải phóng hormone. 1.3, Tổng hợp Sự tổng hợp của hoocmon steroid vỏ thượng thận liên quan đến một chuỗi các phản ứng oxy hóa - khử được xúc tác bởi một loạt các enzyme. Tổng hợp bắt đầu với một phân tử cholesterol. Thông qua các chất trung gian được chia sẻ và con đường phân nhánh từ các chất trung gian được chia sẻ này, các loại steroid khác nhau được tổng hợp. Steroid được tổng hợp từ cholesterol trong khu vực tương ứng của vỏ thượng thận. Quá trình này được kiểm soát bởi protein điều hòa cấp tính steroidogen (StAR) nằm trong màng ty thể và điều chỉnh sự đi qua của cholesterol.Đây là bước giới hạn tỷ lệ của sinh tổng hợp steroid. Khi StAR đã vận chuyển cholesterol vào ty thể, phân tử cholesterol trải qua một chuỗi các phản ứng oxy hóa - khử được xúc tác bởi một loạt các enzyme từ họ enzyme cytochrom P450. Một hệ thống coenzyme có tên adrenodoxin reductase chuyển các electron sang enzyme P450, khởi đầu các phản ứng oxy hóa - khử làm biến đổi cholesterol thành các hoocmon steroid. Mặc dù quá trình tổng hợp được bắt đầu bên trong ty thể, tiền chất được đưa vào mạng lưới nội chất để xử lý bởi các enzyme có trong mạng lưới nội chất. Các tiền chất được đưa trở lại ty thể trong khu vực vỏ thượng thận trong đó quá trình tổng hợp ban đầu bắt đầu và tại đó quá trình tổng hợp được hoàn thành. 2, Các loại hormone tuyến thượng thận 2.1, Loại Mineralocorticoids Mineralocorticoids là một nhóm corticosteroid, lần lượt là một loại hormone steroid. Mineralocorticoids được sản xuất ở vỏ thượng thận và ảnh hưởng đến cân bằng muối và nước (cân bằng điện giải và cân bằng chất lỏng). Khoáng chất chính là aldosterone. 11 Aldosterone, hormone khoáng chất chính, là một hoocmon steroid được sản xuất bởi zona glomerulosa của vỏ thượng thận ở tuyến thượng thận. Aldosterone rất cần thiết cho việc bảo tồn natri ở thận, tuyến nước bọt, tuyến mồ hôi và ruột kết. Nó đóng một vai trò trung tâm trong các hằng định nội môi quy định của huyết áp, huyết tương natri (Na +) và kali (K +) các cấp. Aldosterone làm như vậy chủ yếu bằng cách tác động lên các thụ thể mineralocorticoid trongống lượn xa và ống thu thập của nephron. Nó ảnh hưởng đến sự tái hấp thu natri và bài tiết kali (từ và vào dịch ống tương ứng) của thận, do đó ảnh hưởng gián tiếp đến việc giữ hoặc mất nước, huyết áp và thể tích máu. Khi bị điều hòa, aldosterone gây bệnh và góp phần vào sự phát triển và tiến triển của bệnh tim mạch và thận. Aldosterone có chức năng hoàn toàn ngược lại với hormone natriuretic nhĩ do trái tim. Aldosterone là một phần của hệ thống aldosterone anginensinin của renin. Nó có thời gian bán hủy trong huyết tương dưới 20 phút. Vai Trò: 12 Tăng tái hấp thu ion Na và tăng bài tiết ion K, Cl ở ống thận, kéo theo sự tái hấp thu nước (chủ yếu qua trung gian ADH), gây tăng thể tích ngoại bào. Nồng độ aldosteron tăng cao có thể làm tăng thể tích dịch ngoại bào lên từ 5-15% và dẫn đến tăng huyết áp động mạch lên 15-25%. Ngược lại, sự giảm aldosteron gây mất natri, giảm thể tích dịch ngoại bào, đồng thời tăng ion K+ có thể gây độc cơ tim. Tác dụng tương tự như trên xảy ra ở tuyến nước bọt, tuyến mồ hôi. Tác dụng này đặc biệt quan trọng khi cơ thể hoạt động trong môi trường nóng, nhờ aldosteron mà việc mất muối qua da theo mồ hôi sẽ giảm bớt. Điều hòa bài tiết: Liên quan với chuyển hóa natri, khi natri máu cao, thì sẽ giảm aldosteron máu, natri được bài tiết ra ngoài, và ngược lại. Nồng độ K+ cao trong dịch ngoại bào sẽ làm tăng tiết aldosteron. Bên cạnh đó sự điều hòa còn thông qua hệ thống Renin-angiotensinaldosteron. 2.2, Loại Glucocorticoid Glucocorticoid là một loại corticosteroid, cũng là một loại hormone steroid.Glucocorticoid làcorticosteroid liên kết với thụ thể glucocorticoid.Chúng có mặt ở hầu hết các tế bào động vật có xương sống. Cái tên glucocorticoid (glucose + cortex + steroid) được lấy từ vai trò của nó trong điều hòa chuyển hóa glucose, được tổng hợp trong vỏ tuyến thượng thận và cấu trúc steroid của nó. Một từ đồng nghĩa ít phổ biến hơn là glucocorticosteroid. Glucocorticoid là một phần của cơ chế phản hồi trong hệ miễn dịch giúp làm giảm một số khía cạnh của chức năng miễn dịch, chẳng hạn như 13 viêm. Glucocorticoid cũng can thiệp vào một số cơ chế bất thường trong tế bào ung thư, vì vậy chúng cũng có thể được sử dụng với liều cao để điều trị ung thư. Điều này bao gồm các tác dụng ức chế sự tăng sinh tế bào lympho, như trong điều trị u lymphoma và ung thư bạch cầu, cũng như giảm thiểu tác dụng phụ của thuốc chống ung thư. Glucocorticoid ảnh hưởng đến tế bào bằng cách gắn kết với thụ thể glucocorticoid. Phức hợp glucocorticoid-thụ thể glucocorticoid hoạt hóa tăng cường sự sự biểu hiện của các protein chống viêm trong nhân (một quá trình được gọi là hoạt hóa chéo) và ức chế sự biểu hiện của các protein tiền viêm trong bào tương bằng cách ngăn chặn sự dịch chuyển các yếu tố phiên mã khác từ bào tương sang nhân (bất hoạt chéo). Glucocorticoid được phân biệt với mineralocorticoid và steroid giới tính bởi các thụ thể đặc hiệu, tế bào đích và tác dụng của chúng. Về mặt kỹ thuật, "corticosteroid" dùng để chỉ cả glucocorticoid và mineralocorticoid (vì cả hai đều giống như các hormone được tạo ra bởi vỏ thượng thận), nhưng "corticosteroid" thường được sử dụng như một từ đồng nghĩa với "glucocorticoid" hơn. Glucocorticoid chủ yếu được sản xuất trong zona fasciculata của vỏ thượng thận, trong khi mineralocorticoid được tổng hợp trong zona glomerulosa. Cortisol (hoặc hydrocortisone) là glucocorticoid quan trọng nhất của con người. Hormone này là thiết yếu cho sự sống, chúng điều chỉnh hoặc hỗ trợ một loạt các chức năng tim mạch, trao đổi chất, miễn dịch học và cân bằng nội môi quan trọng. Nhiều glucocorticoid tổng hợp có sẵn; chúng được sử dụng rộng rãi và phổ biến trong y tế bình thường cũng nhiều biện pháp đặc biệt, chẳng hạn như làm liệu pháp thay thế trong thiếu hụt glucocorticoid, hoặc để ức chế hệ miễn dịch. 14 Cortisol là một loại hooc môn corticosteroid (corticosteroid là một loại hooc môn loại steroid – tức là loại hợp chất hữu cơ tự nhiên được tổng hợp bởi các tuyến nội tiết trong cơ thể) được sản sinh bởi bộ phận tên là Zona fasciculata trên vỏ thượng thận (thuộc tuyến thượng thận). Đây là hooc môn vô cùng quan trọng và được xem là hormon chống stress. Nó làm tăng huyết áp, tăng đường huyết, có tác động ức chế miễn dịch (chống viêm), chống dị ứng. Trong y học, cortisol tổng hợp (Hydrocortisone) được dùng như là thuốc để điều trị bệnh dị ứng (đặc biệt trong cấp cứu sốc phản vệ) và chống viêm cũng như dùng làm chất thay thế bổ sung trong các chứng thiếu hụt cortisol bẩm sinh. Khi lần đầu được giới thiệu như là thuốc điều trị bệnh thấp khớp nó được gọi là hợp chấp E. Cortisol thuộc loại Glucocorticoid. Ngoài ra, cortisol kiểm soát quá trình giáng hóa hydratcacbon, chất béo và trao đổi protein và là chất kháng viêm với tác dụng ngăn cản sự giải phóng phospholipid, giảm hoạt động bạch cầu ưa toan và hàng loạt các cơ chế khác. Vai trò: Tác dụng trên chuyển hóa: Glucid: tăng tạo đường mới ở gan; giảm sử dụng glucose ở tế bào; làm tăng glucose máu, có thể gây đái đường, tương tự đái đường yên. 15 Protein: tăng thoái hóa protein ở hầu hết tế bào cơ thể, trừ tế bào gan. Tăng chuyển acid amin vào tế bào gan, tăng tổng hợp protein ở gan, tăng chuyển acid amin thành glucose. Tăng nồng độ acid amin, làm giảm vận chuyển acid amin vào tế bào trừ gan. Lipid: tăng thoái hóa lipid ở mô mỡ gây tăng nồng độ acid béo tự do huyết tương và tăng sử dụng để cho năng lượng; tăng oxid hóa acid béo ở mô. Tác dụng chống stress: Khi bị stress, cơ thể lập tức tăng lượng ACTH, sau vài phút, một lượng lớn cortisol được bài tiết bởi vỏ thượng thận, có thể tăng đến 300mg/24giờ. Có lẽ do Cortisol huy động nhanh acid amin và mỡ dự trữ, cung cấp năng lượng cho tố chức; đồng thời các acid amin này được dùng để tổng hợp các chất cần duy trì cho sự sống tế bào như purines, pyrimidines và creatine phosphate. Tác dụng chống viêm: Cortisol làm giảm tất cả các giai đoạn của quá trình viêm, đặc biệt ở liều cao, tác dụng này được sử dụng trên lâm sàng. Do cortisol làm ổn định màng lysosom trong tế bào và ức chế men phospholipaza A2, ngăn cản hình thành các chất gây viêm như leukotrien, prostaglandins, đây là hai chất gây dãn mạch, tăng nhiệt độ, tăng tính thấm mao mạch trong các phản ứng viêm. Tác dụng chống dị ứng: Cortisol ức chế sự giải phóng histamin trong các phản ứng kháng nguyên-kháng thể, do đó làm giảm hiện tượng dị ứng. Tác dụng lên tế bào máu: Làm giảm số lượng bạch cầu ưa acid, bạch cầu lympho, giảm kích thước hạch và tuyến ức. 16 Tác dụng lên hệ thống miễn dịch: Gây giảm kháng thể, do đó sử dụng cortisol dài ngày dễ nhiễm khuẩn, nhưng được dùng để ngăn sự loại bỏ mảnh ghép. Tác dụng lên các tuyến nội tiết khác: Nồng độ cortisol tăng cao sẽ giảm chuyển T4 thành T3 và tăng chuyển T3 thành T4, làm giảm nồng độ hormon sinh dục. Tác dụng khác: Tăng bài tiết dịch vị nên nếu dùng cortisol kéo dài có thể gây loét dạ dày, đối với hệ xương, có thể ức chế hình thành xương, giảm tăng sinh tế bào, giảm lắng đọng tổng hợp protein của xương. Điều hòa bài tiết: Cortisol được điều hòa bởi ACTH của tiền yên theo cơ chế điều hoà ngược. Nhịp bài tiết cortisol tương ứng với nhịp bài tiết ACTH. *Hàm lượng cortisol trong máu -Nồng độ của Cortisol từ 8h sáng đến 12h trưa: 5,0 - 25,0 µ/dL hay 138 690 nmol/L. -Nồng độ của Cortisol từ 12h trưa đến 20h tối: 5,0 -15,0 µg/dL hay 138410 nmol/L -Nồng độ của Cortisol từ 20h tối đến 8h sáng: 0,0 -10,0 µg/dL hay 0 276 nmol/L. 17 2.3, Loại Androgen Androgen (từ tiếng Hy Lạp andr-, gốc của từ có nghĩa là "người đàn ông") là bất kỳ hoocmon steroid tự nhiên hoặc tổng hợp nào điều chỉnh sự phát triển và duy trì các đặc tính nam ở động vật có xương sống bằng cách liên kết với các thụ thể androgen.Điều này bao gồm sự phát triển phôi thai của các cơ quan sinh dục nam chính và sự phát triển của các đặc điểm giới tính thứ cấp nam ở tuổi dậy thì. Các androgen được tổng hợp trong tinh hoàn, buồng trứng và tuyến thượng thận. Androgens tăng ở cả bé trai và bé gái trong giai đoạn dậy thì. Androgen chủ yếu ở nam giới là testosterone. Ở loài người, testosterone đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của các mô sinh sản của nam như tinh hoàn và tuyến tiền liệt cũng 18 như thúc đẩy các đặc tính sinh dục phụ như làm tăng cơ bắp, xương và sự phát triển tóc. Ngoài ra, testosterone là cần thiết cho sức khỏe và hạnh phúc cũng như phòng ngừa bệnh loãng xương. Vai trò của testosterone ở nam giới Testosterone có vai trò quan trọng đối với hầu hết mọi chức năng của nam giới, từ hệ thống sinh sản và tình dục đến khối cơ và mật độ xương. Hệ thống nội tiết Hệ thống nội tiết của cơ thể bao gồm các tuyến sản xuất hormone. Vùng dưới đồi trong não có nhiệm vụ báo hiệu cho tuyến yên biết cơ thể cần bao nhiêu Testosterone. Tuyến yên sau đó gửi tín hiệu đến tinh hoàn để kích thích sự sản xuất Testosterone. Hầu hết Testosterone được sản xuất trong tinh hoàn, nhưng một lượng nhỏ đến từ tuyến thượng thận, nằm ngay phía trên thận. Testosterone bắt đầu hoạt động ngay cả khi cơ thể chưa được sinh ra đời. Lúc này, Testosterone có vai trò trong sự hình thành bộ phận sinh dục nam. Ở tuổi dậy thì, Testosterone chịu trách nhiệm cho sự phát triển của các thuộc tính nam như giọng nói trầm hơn, kích thích mọc râu và lông trên cơ thể. Ngoài ra, Testosterone cũng thúc đẩy sự phát triển của cơ bắp và hình thành cảm giác “ham muốn tình dục”. Hệ thống sinh sản Bộ phận sinh dục nam được hình thành vào khoảng tuần thai thứ bảy với sự tác động của Testosterone. Ở tuổi dậy thì, khi nồng độ Testosterone tăng lên, tinh hoàn và dương vật phát triển mạnh mẽ. Tinh hoàn tạo ra một lượng testosterone ổn định và cung cấp tinh trùng mới mỗi ngày. Nếu lượng Testosterone thấp có nguy cơ bị rối loạn chức năng cương dương. Bên cạnh đó, nếu sử dụng liệu pháp Testosterone dài hạn có thể gây giảm sản xuất tinh trùng. Liệu pháp Testosterone cũng có thể gây phì đại tuyến tiền liệt và khiến tinh hoàn nhỏ hơn, mềm hơn. Ngoài ra, 19 nam giới bị ung thư tuyến tiền liệt hoặc ung thư vú không nên thực hiện liệu pháp thay thế Testosterone. Khả năng tình dục Ở độ tuổi dậy thì, nồng độ Testosterone ở nam giới tăng cao, kích thích sự phát triển và hoàn thiện của tinh hoàn, dương vật và lông mu. Giọng nói trở nên trầm hơn, cơ bắp và lông trên cơ thể phát triển. Cùng với đó, ham muốn tình dục ngày càng tăng cao. Nam giới có lượng Testosterone thấp có khả năng bị mất ham muốn tình dục. Sự kích thích tình dục hay hoạt động tình dục khiến nồng độ Testosterone tăng cao. Testosterone có thể giảm trong một thời gian dài không hoạt động tình dục. Hệ thần kinh trung ương Cơ thể chúng ta có một hệ thống kiểm soát Testosterone, gửi tín hiệu thông qua các hormone và chất hóa học đặc hiệu trong máu. Vùng dưới đồi trong não là nơi cho tuyến yên biết cần bao nhiêu Testosterone và tuyến yên sẽ chuyển thông tin đó đến tinh hoàn. Testosterone có một vai trò cần thiết trong một số hành vi nhất định, bao gồm sự hung hăng và khả năng lãnh đạo. Bên cạnh đó, Testosterone cũng là thước đo khả năng cạnh tranh và giúp tăng cường lòng tự trọng. Tương tự như cơ chế hoạt động tình dục có thể ảnh hưởng đến nồng độ testosterone, việc tham gia vào các hoạt động cạnh tranh có khả năng khiến mức độ testosterone của người đàn ông tăng, hoặc giảm. Testosterone thấp dẫn đến mất tự tin, gây rối loạn giấc ngủ, thiếu năng lượng và giảm động lực. Chưa hết, tình trạng này còn làm giảm khả năng tập trung và gây ra cảm giác buồn bã. Da và tóc 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan