Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phi...

Tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hải Phòng

.PDF
87
218
133

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRƢƠNG THỊ THANH NHÀN THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI. 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRƢƠNG THỊ THANH NHÀN THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số: 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Phạm Mạnh Hùng HÀ NỘI. 2013 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta trong những năm vừa qua đã đạt được những thành tựu to lớn. Việt Nam đã trở thành điểm đến thu hút các nhà đầu tư bởi một nền chính trị ổn định, môi trường đầu tư an toàn. Cùng với sự nỗ lực của toàn xã hội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng trong hoạt động tư pháp góp phần quan trọng vào việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Có được những thành tựu đó là cả một sự phấn đấu, nỗ lực của toàn xã hội nhằm mục tiêu xây dựng xã hội "công bằng, dân chủ, văn minh và tiến bộ xã hội", trong đó có sự đóng góp của những nhà hoạch định chính sách, các nhà hoạt động thực tiễn trong các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự vẫn còn tình trạng để xảy ra oan, sai gây ảnh hưởng đến các quyền tự do, dân chủ của người dân. Do vậy, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương cải cách tư pháp nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), hạn chế tình trạng oan, sai đồng thời hiện thực hóa các quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Với chức năng thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong những năm qua, ngành Kiểm sát nhân dân đã làm tốt nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh chống tội phạm và ngăn ngừa các vi phạm pháp luật. Với việc ban hành Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2002 và Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003, vai trò, vị trí của VKSND trong hoạt động tố tụng hình sự (TTHS) ngày càng được nhấn mạnh. Để công cuộc cải cách tư pháp đạt kết quả, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết làm cơ sở và định hướng lớn cho công cuộc cải cách này. Trong lĩnh vực TTHS, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nêu rõ: "Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên 1 tòa bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác" [13]. Tiếp đến, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị tiếp tục khẳng định: "Nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp" [14]. Đây là một yêu cầu và đòi hỏi mang tính khách quan và là một biện pháp đảm bảo cho việc xét xử tại các phiên tòa được dân chủ, khách quan, toàn diện; để việc phán quyết của Hội đồng xét xử (HĐXX) được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Có thể nói, quá trình giải quyết một vụ án hình sự là một quá trình giải quyết xung đột giữa hai lợi ích: lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân. Lợi ích xã hội đòi hỏi mọi tội phạm đều được phát hiện, điều tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh. Trong khi đó lợi ích cá nhân trong TTHS đòi hỏi không làm oan sai, quyền công dân, quyền con người được đảm bảo và tôn trọng. Để đảm bảo được cả hai lợi ích này, vấn đề tranh tụng dân chủ, công khai tại phiên tòa là một trong những thủ tục tố tụng có tính chất mấu chốt. Tranh tụng tại phiên tòa có vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là sự đánh giá kết quả hoạt động của các giai đoạn điều tra, truy tố mà còn có tác dụng to lớn đối với chính giai đoạn xét xử. Đây chính là cơ chế tối ưu nhất để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị cáo, đảm bảo việc truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên trong những năm qua, hoạt động tranh tụng tại phiên tòa luôn được sự quan tâm, nghiên cứu đã thực sự trở thành vấn đề nóng hổi, không chỉ được tranh luận tại các hội nghị khoa học và các hội nghị về tư pháp mà còn trở thành một yêu cầu bức thiết trong hoạt động xây dựng pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, vấn đề tranh tụng của Kiểm sát viên (KSV) tại phiên tòa hình sự mới chỉ được ghi nhận trong các nghị quyết của Đảng. Bên cạnh đó, thực tiễn hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự trên phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn thành phố Hải Phòng nói riêng cho thấy còn nhiều tồn 2 tại, dẫn đến chất lượng của hoạt động này chưa đáp ứng được những đòi hỏi mà Đảng, Nhà nước và xã hội đã đặt ra. Trước yêu cầu của thực tế, đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng các quyền con người trong hoạt động TTHS, tránh bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội; đồng thời góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận của vấn đề tranh tụng, học viên chọn đề tài: "Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hải Phòng" làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nhằm hiện thực hóa chủ trương về cải cách tư pháp trong đó có vấn đề tranh tụng tại phiên tòa, những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến vấn đề này. Đáng chú ý là các công trình sau: - Lê Minh Thông (Chủ biên): Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; Mai Thị Nam: Tranh tụng tại phiên tòa những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2001; Lê Thị Tuyết Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2002; Nguyễn Xuân Hà - Phạm Hoàng Diệu Linh: Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 để đảm bảo phù hợp với việc tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp theo tinh thần nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Đề tài khoa học cấp bộ; Hà Nội, 2009; Ngô Văn Đọn (Chủ biên): Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong các công tác kiểm sát hình sự, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội, 2004; Hoàng Thế Anh: Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2006; Nguyễn Mạnh Tiến: Bàn về một số quy 3 định của Bộ luật tố tụng hình sự về tranh tụng tại phiên tòa, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 17/2005; TS. Dương Thanh Biểu: Bàn về việc tranh luận của kiểm sát viên tại tòa hình sự sơ thẩm, Tạp chí Kiểm sát, số 13, 2007; Nguyễn Đức Mai: Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sư thẩm, Tạp chí Luật học, số 7/2008; Lê Thúc Anh: Một số suy nghĩ về tranh tụng tại phiên tòa trong cải cách tư pháp, Tạp chí Toà án nhân dân, số 1/2008; ThS. Nguyễn Thương Tín: Một số vấn đề về mối quan hệ giữa tranh tụng trong tố tụng hình sự với chức năng xét xử của tòa án trong bối cảnh cải cách tư pháp, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10, 2008; Nguyễn Nông: Bàn về vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Kiểm sát, số 9/2003; TS. Nguyễn Đức Mai: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Toà án nhân dân, số 17, 2007; Nguyễn Mạnh Tiến: Tranh tụng tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 02/2006; Từ Văn Nhũ: Đổi mới thủ tục xét xử nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11/2003; Nguyễn Thái Phúc: Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) và nguyên tắc tranh tụng, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9/2003; Mai Thị Nam: Một số giải pháp nâng cao trách nhiệm và chất lượng tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa, Tạp chí Kiểm sát, số 3, 2007... Nhìn chung, các công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu làm rõ một số về vấn đề tranh tụng của KSV tại phiên tòa hoặc mới chỉ đưa ra những thực tiễn trong quá trình KSV THQCT tại phiên tòa hình sự chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm (HSST). Vì vậy, đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu nhất là trong bối cảnh chúng ta đang nghiên cứu, thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Làm sáng tỏ vấn đề này cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn tạo cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về tranh tụng của KSV tại phiên tòa HSST đáp ứng yêu cầu của cải 4 cách tư pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử của Tòa án, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, chống làm oan người vô tội và chống bỏ lọt tội phạm cũng như bảo vệ pháp chế XHCN. Đây cũng là lý do mà học viên chọn đề tài "Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hải Phòng" để làm luận văn thạc sĩ Luật học. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích Mục đích của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng vấn đề tranh tụng của KSV tại phiên tòa HSST trên địa bàn thành phố Hải Phòng, phân tích các bất cập, hạn chế. Qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa HSST bảo đảm một phiên tòa hình sự công bằng, dân chủ, văn minh. * Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn đặt ra là: - Nghiên cứu cơ sở lý luận hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa như: Khái niệm, đặc điểm, điều kiện, yêu cầu của tranh tụng tại phiên tòa; cơ sở pháp lý quy định về tranh tụng của KSV tại phiên tòa; ý nghĩa của tranh tụng tại phiên tòa (có so sánh với mô hình tranh tụng của một số nước trên thế giới). - Phân tích, đánh giá thực trạng tranh tụng của KSV tại phiên tòa trên địa bàn thành phố Hải Phòng những năm gần đây, qua đó rút ra những mặt tích cực; những tồn tại, hạn chế trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa ở địa phương. - Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự nhằm tạo cơ sở pháp lý 5 cho việc thực hiện chức năng THQCT của KSV nói chung, tranh tụng của KSV nói riêng nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng trước yêu cầu cải cách tư pháp. 4. Phạm vi nghiên cứu Tranh tụng là một vấn đề lớn, bao hàm nhiều nội dung thể hiện ở các giai đoạn khác nhau của quá trình tố tụng. Với phạm vi nghiên cứu của một luận văn thạc sĩ tác giả chỉ tập trung làm rõ thực trạng việc tranh tụng của KSV tại phiên tòa HSST trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong các năm từ 2006 đến năm 2011 để qua đó đánh giá, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài - Về cơ sở lý luận của luận văn: Luận văn được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp. - Về phương pháp nghiên cứu của luận văn: Tác giả luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể để nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn. 7. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn Luận văn có một số đóng góp về mặt khoa học như sau: - Làm sáng tỏ các cơ sở lý luận về tranh tụng của KSV tại phiên tòa HSST, góp phần nâng cao nhận thức về nội dung, bản chất của hoạt động tranh tụng của KSV. - Luận văn tập trung vào phân tích các quy định của pháp luật về tranh tụng của KSV tại phiên tòa HSST, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định 6 về tranh tụng của KSV tại phiên tòa HSST trên địa bàn thành phố Hải Phòng, chỉ ra các tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân của những hạn chế đó. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa HSST của VKSND thành phố Hải Phòng hiện nay. - Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy của các cơ sở nghiên cứu khoa học pháp lý; là tài liệu tham khảo giúp cho VKSND các cấp để nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV trong phiên tòa hình sự đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Chương 2: Thực trạng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hải Phòng. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ NỘI DUNG CỦA VIỆC TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ 1.1.1. Khái niệm Sự ra đời và phát triển của việc tranh tụng trong quá trình giải quyết các vụ án gắn liền với sự hình thành và phát triển của các tư tưởng dân chủ, tiến bộ của nhân loại. Tư tưởng về tranh tụng xuất hiện từ thời cổ đại và ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều coi tranh tụng là một trong các nguyên tắc cơ bản của trong hoạt động tố tụng. Tranh tụng không đơn thuần chỉ là thành tựu trong lĩnh vực pháp lý mà là thành tựu của sự phát triển tư tưởng của nền văn minh nhân loại. Trong xã hội hiện đại, dù ở các nước có tổ chức hệ thống tư pháp khác nhau, dù là hệ thống luật án lệ (common law), hệ thống luật lục địa (legal law) hay hệ thống luật XHCN thì ít hay nhiều và bằng các cách thể hiện khác nhau, trong hệ thống tố tụng đều có yếu tố tranh tụng. Đây là cơ chế tố tụng góp phần đảm bảo cho tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết đúng đắn vụ việc, bảo đảm sự công bằng và lợi ích của các bên tham gia tố tụng. Tranh tụng bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tài phán của Tòa án. Tại phiên tòa, Tòa án tiến hành xác định sự thật của vụ án bằng cách điều tra công khai, chính thức về vụ việc, nghe các bên tranh luận về giải quyết vụ án từ góc độ nội dung cũng như pháp luật áp dụng để ra phán quyết. Trong quá trình tranh tụng, Tòa án là cơ quan thực hiện chức năng xét xử. Tòa án thực hiện chức năng như một trọng tài có địa vị độc lập với các bên để phân xử một cách khách quan, theo pháp luật. Trong TTHS, chức năng 8 xét xử của Tòa án độc lập với chức năng buộc tội và chức năng bào chữa; trong tố tụng dân sự, kinh tế, Tòa án là người đứng ra phân xử giữa bên khởi kiện và bên bị kiện để ra phán quyết về vụ án. Với tính chất là sự tranh luận giữa các bên có quyền và lợi ích khác nhau, tranh tụng luôn luôn tồn tại trong các hệ thống tố tụng khác nhau. Bởi vì, mục đích của các hệ thống tố tụng dân chủ, tiến bộ trong thế giới hiện đại là xác định được sự thật và phán quyết về vụ án trên cơ sở quy định của pháp luật. Theo Từ điển tiếng Việt, tranh tụng có nghĩa là kiện cáo lẫn nhau. Còn theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ tranh tụng được ghép từ hai từ "tranh luận" và "tố tụng". Tranh tụng là tranh luận trong tố tụng. Trong tố tụng bao giờ cũng có sự tham gia của các bên có quyền và (hoặc) lợi ích trái ngược nhau là bên buộc tội và bên gỡ tội. Bên buộc tội có trách nhiệm chứng minh bị cáo là người có tội, còn bên gỡ tội cố gắng dùng mọi căn cứ để bác bỏ những lời buộc tội do bên gỡ tội đưa ra. Trước đây, với quan điểm cho rằng tranh tụng là nguyên tắc đặc trưng của TTHS tư sản nên vấn đề này không được khoa học pháp lý nước ta quan tâm nghiên cứu. Vì vậy, về mặt lý luận tranh tụng không được thừa nhận và thuật ngữ "tranh tụng" không được dùng trong các văn bản pháp luật của nước ta. Bắt đầu từ Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", vấn đề tranh tụng lần đầu tiên đã được đề cập đến. Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với hoạt động TTHS thể hiện đậm nét trong hai nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 đưa ra yêu cầu: Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở 9 xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn… để ra những bản án quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục trong thời hạn do luật định. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng, tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa [13, tr. 1]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2006 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp là "nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử" [14, tr. 1]. Có thể nói, tranh tụng nói chung và tranh tụng tại phiên tòa hình sự nói riêng là một vấn đề mới mẻ đối với lĩnh vực tư pháp ở nước ta. Về mặt lý luận, đang còn có những quan điểm nhận thức rất khác nhau giữa các nhà khoa học cũng như cán bộ làm công tác thực tiễn về khái niệm tranh tụng tại phiên tòa; thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của tranh tụng tại phiên tòa; về phạm vi, phương pháp và nội dung tranh tụng mà các chủ thể cần thực hiện. Có quan điểm đồng nhất tranh tụng tại phiên tòa với tranh luận. Có quan điểm cho rằng "Không nên hiểu tranh tụng đơn thuần là việc tranh luận một cách đầy đủ tại phiên tòa, mà cần phải hiểu bản chất của tranh tụng là một phương thức xác định sự thật khách quan của vụ án" [51, tr. 592]. Tuy còn có sự khác nhau về quan điểm nghiên cứu, nhưng có sự thống nhất về mục đích của tranh tụng tại phiên tòa nhằm đảm bảo tính khách quan, công bằng, dân chủ giữa các chủ thế là KSV THQCT và những người tham gia tố tụng; phía buộc tội và phía bào chữa có quyền lập luận, đưa ra những chứng cứ, căn cứ pháp luật để tranh luận, phản bác để bảo vệ tính có căn cứ từ quan điểm của mình. HĐXX điều hành theo trình tự tố tụng tại phiên tòa và có trách nhiệm tạo điều kiện để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ tranh tụng, đồng thời lắng nghe, xem xét, cân nhắc và ra phán quyết. 10 Dưới góc độ tranh tụng là một nguyên tắc của TTHS, tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng: Tranh tụng tại tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bào chữa) nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trò trung gian trọng tài [52, tr. 808]. Trong các giai đoạn TTHS, thực hiện nguyên tắc tranh tụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm được coi là giai đoạn trung tâm. 1.1.2. Đặc điểm tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm Một là, tranh tụng tại phiên tòa có sự bình đẳng giữa KSV thực hành quyền công tố với bị cáo, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác. Sự bình đẳng ở đây là bình đẳng trên cơ sở quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng. Hay nói cách khác, sự bình đẳng giữa các bên tranh tụng không hẳn là sự bình đẳng thực tế về địa vị pháp lý cũng như không có nghĩa là các bên có quyền và nghĩa vụ như nhau do bên buộc tội và bên gỡ tội thực hiện hai chức năng khác nhau trong TTHS, nhất là tại phiên tòa. Do đó, quyền bình đẳng ở đây được hiểu là bình đẳng về phương diện tố tụng khi cả hai đều có tư cách tố tụng, đều được pháp luật quy định cho những quyền và nghĩa vụ nhất định để thực hiện hiệu quả chức năng của mình. Trong tố tụng tranh tụng Công tố viên và Luật sư hoàn toàn bình đẳng với nhau, họ được pháp luật trao những quyền tương ứng với chức năng để có thể điều tra độc lập và thu thập chứng cứ phục vụ cho công việc của mình. Công tố viên dưới danh nghĩa người đại diện cho quyền lợi của nhà nước đưa ra các quan điểm, các lập luận, các chứng cứ để buộc tội bị cáo. Còn bên bị buộc tội là bị cáo và luật sư cũng dùng mọi lý lẽ, dùng mọi phương tiện được pháp luật cho phép để phản bác lại. Hai bên sẽ trực tiếp liên tục chất vấn và trả lời chất vấn nhau công khai tại phiên tòa để làm rõ những vấn đề. Khác 11 với tố tụng xét hỏi, tố tụng tranh tụng đặc biệt coi trọng các nguyên tắc bằng miệng, công khai, tất cả các tình tiết, chứng cứ mà Tòa án áp dụng để ra bản án đều phải được các bên tranh tụng tại phiên tòa. Với khoa học công nghệ phát triển như hiện nay các thủ tục tố tụng tại phiên tòa đều phải được ghi âm hoặc ghi hình, việc xét xử công khai trực tiếp có thể được tiến hành qua điện thoại hội nghị (Conference call) và cầu truyền hình trực tiếp. Tòa án tiến hành xét xử một vụ án ở một nơi có thể nghe lời khai trực tiếp của người làm chứng ở một nơi khác. Hai là, hoạt động tranh tụng tại phiên tòa không bị hạn chế về mặt thời gian và có sự tranh luận trực tiếp. Vấn đề cơ bản của nguyên tắc tranh tụng là phải tạo ra cơ chế để các bên tranh luận, đưa ra chứng cứ buộc tội hay gỡ tội. Có thể coi tranh luận tại phiên tòa là đỉnh điểm của việc tranh tụng để nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, áp dụng đúng pháp luật để giải quyết vụ án. Do đó, tranh luận tại phiên tòa là phần việc rất quan trọng, bên buộc tội và bên gỡ tội có quyền tranh luận dân chủ, công khai và bình đẳng theo quy định của Luật TTHS hiện hành. HĐXX phải có phương pháp điều hành hợp lý và tạo điều kiện cho cho việc tranh luận, tránh việc thiên vị với bất cứ bên nào. Ba là, Thẩm phán giữ vai trò làm trung gian, trọng tài trong quá trình tranh tụng. Hội đồng xét xử không có trách nhiệm điều tra phát hiện sự thật. Ở các quốc gia theo hệ thống tố tụng tranh tụng, hoạt động điều tra chỉ được coi là một hoạt động hành chính - tư pháp. Vì vậy, pháp luật tố tụng của các nước này đều quy định các chứng cứ đều do hai bên (bên buộc tội và bên bào chữa) đưa ra trước tòa trong quá trình tranh tụng. HĐXX ở những quốc gia theo thủ tục này không có trách nhiệm làm rõ bị cáo phạm tội hay không phạm tội. Đây cũng là điểm khác so với tố tụng xét hỏi nơi mà trước khi mở phiên tòa các chứng cứ đã được điều tra, thu thập đầy đủ và thể hiện trong hồ sơ vụ án. 12 Tại phiên tòa, Thẩm phán chỉ kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ này. Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng xét hỏi không phải là một bên trung lập mà là người có vai trò chính trong việc làm sáng tỏ nội dung vụ án tại phiên tòa, Thẩm phán có thể trực tiếp chất vấn nếu như lời khai của bị cáo còn có nhiều mâu thuẫn hay bị cáo chối tội. Trong tố tụng xét hỏi, mọi hành vi của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đều chịu sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa, các bên muốn đặt câu hỏi cho bên kia hoặc những người tham gia tố tụng khác đều phải thông qua chủ tọa phiên tòa. Trong khi đó, tại phiên tòa theo tố tụng tranh tụng mỗi bên có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho bên kia cũng như cho những người tham gia tố tụng khác. Trong nhiều trường hợp họ có quyền ngắt lời bên kia, phản đối lại các ý kiến mà bên kia vừa đưa ra. Bốn là, kết quả tranh tụng là căn cứ để HĐXX ra phán quyết. Phán quyết của HĐXX căn cứ vào kết luận điều tra qua hồ sơ vụ án, căn cứ vào cáo trạng truy tố và quan trọng hơn nữa là căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa cho dù kết quả này có thể khác so với toàn bộ hoặc một số tình tiết cụ thể trong kết luận điều tra, bản cáo trạng. 1.1.3. Nội dung tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm Thứ nhất, tranh tụng làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án dưới sự chủ trì của chủ tọa phiên tòa, các bên hỏi và trả lời câu hỏi để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Tại phiên tòa để làm sáng tỏ sự thật vụ án thì tranh tụng là quá trình quan trọng, nó bao gồm việc chất vấn liên tục, tranh luận giữa một bên đại diện cho nhà nước THQCT (bên buộc tội), còn bên kia là bên bào chữa (bị cáo và Luật sư bào chữa). Công tố viên nhân danh Nhà nước sẽ đưa ra những chứng cứ, những lập luận để bảo vệ lời buộc tội (cáo trạng), và đến lượt bị cáo và người bào chữa thể hiện ngay thái độ của họ đối với lời buộc tội đó. 13 Sau khi xem xét chứng cứ do bên buộc tội đưa ra, HĐXX xem xét đến chứng cứ do bên bào chữa đưa ra và những lý lẽ để bào chữa. Tranh tụng là quá trình mà mỗi bên đều dùng những lý lẽ, chứng cứ để chứng minh cho luận điểm của mình nên có thể coi những lý lẽ đó hoàn toàn trên cơ sở ý chí chủ quan của mỗi bên, và chứng cứ là để phục vụ cho ý chí đó. Vì vậy, cần thiết phải có người đứng ra là trọng tài giữa việc tranh tụng đó và Tòa án (HĐXX) đảm nhiệm công việc đó. Chủ tọa phiên tòa không chỉ là người điều khiển phiên tòa trong quá trình tranh tụng. Chủ tọa phiên tòa với vai trò chủ trì, điều khiển phiên tòa có toàn quyền quyết định nội dung việc xét hỏi hướng cho hai bên hỏi và trả lời câu hỏi đi vào trọng tâm của vấn đề, nhằm giải quyết vụ án. Chủ tọa phiên tòa tạo điều kiện cho các bên tranh luận, không hạn chế nhưng cũng tránh cho các bên đi vào những tình tiết vụn vặt không có giá trị làm sáng tỏ nội dung vụ án. Chủ tọa phiên tòa, cũng có thể điều khiển việc hỏi đáp giữa hai bên hướng sang vấn đề khác nếu nội dung đó đã được làm sáng tỏ. Trong quá trình đó Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa luôn thể hiện sự khách quan, tập trung lắng nghe việc tranh tụng của các bên để thấy được sự thật khách quan của vụ án, có tội hay không có tội ở những chứng cứ nào thể hiện mức độ tăng nặng, những tình tiết, chứng cứ nào là giảm nhẹ. Những chứng cứ nào là hợp pháp, những chứng cứ nào không được công nhận hợp pháp. Nếu có vật chứng thì xem xét vật chứng để thấy sự phản ánh dấu vết tội phạm trên đó ở mức độ như thế nào. Từ đó, để thấy những tình tiết chứng cứ nào còn chưa rõ những vấn đề còn mâu thuẫn, chủ tọa phiên tòa cho hai bên tranh luận rõ hơn, chất vấn nhau nhiều hơn để thấy bật ra được vấn đề, đồng thời dựa trên sự đánh giá khách quan toàn diện những chứng cứ tình tiết, quá trình tranh luận trên mà HĐXX sau đó có phán quyết công bằng. Để tranh tụng tại phiên tòa đạt được kết quả, Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa có quyền áp dụng quy định của pháp luật TTHS điều khiển phiên 14 tòa theo đúng tiến trình tranh tụng. Cũng trên cơ sở của Luật TTHS, họ có thể cho phép mọi người liên quan đến quá trình tranh tụng được vào phiên tòa; trong trường hợp cần thiết, chủ tọa phiên tòa cách ly bị cáo, nhân chứng để đảm bảo việc tranh tụng tại phiên tòa diễn ra khách quan, có hiệu quả. Thứ hai, áp dụng những quy định của pháp luật để giải quyết vụ án. Để phục vụ cho quá trình tranh tụng tại phiên tòa, hai bên buộc tội và bào chữa đều đã chuẩn bị cho mình những tài liệu chứng cứ cần thiết để bảo vệ lý lẽ của mình. Trong quá trình đó cả hai bên đều phải vận dụng những quy định của pháp luật không chỉ về luật hình thức mà còn cả luật nội dung. Đó là quá trình dựa vào chứng cứ đã được thu thập, căn cứ vào các điều khoản được quy định trong luật và các văn bản khác để đối chiếu so sánh tìm ra những tình tiết buộc tội và gỡ tội và như thế bên bào chữa thì tận dụng tối đa những chi tiết dù là nhỏ nhất để phản bác lại sự buộc tội của bên kia, còn bên buộc tội sẽ cố gắng truy tố với những chứng cứ chặt chẽ nhất nhằm không bỏ lọt tội phạm. Vì vậy, họ cũng không bỏ qua những chi tiết dù là nhỏ nhất. Tới khi ra phiên tòa, cả hai bên đều trình bày sao cho có sức thuyết phục nhất là trước HĐXX và những người tham dự phiên tòa. Vì vậy, cả hai bên sẽ cố gắng đề cập đến mọi tình tiết có lợi nhất của vụ án một cách trực tiếp, liên tục. Các bên có quyền phản đối, bác bỏ quan điểm của bên đặt câu hỏi, đưa ra những chứng cứ để chứng minh cho luận điểm của mình phản bác lại bên kia. Trong quá trình đó các bên toàn quyền tranh luận về những vấn đề để làm sáng tỏ vụ án, việc tranh luận không bị hạn chế nếu như không đi ra ngoài nội dung vụ án. Có quyền vận dụng những quy định của pháp luật để đề nghị chủ tọa phiên tòa có những quyết định tại phiên tòa thuận lợi cho việc tranh tụng và chứng minh sự thật của vụ án. Đây là cuộc đấu giữa hai bên buộc tội và bào chữa nên nó có sự đối kháng rõ rệt và phần thắng sẽ thuộc về bên nào có những chứng cứ thuyết phục, lý lẽ sắc bén hơn để HĐXX và người tham dự phiên tòa chấp nhận. 15 Thứ ba, tranh tụng nhằm đảm bảo việc đưa ra xem xét các chứng cứ, tài liệu minh chứng cho luận điểm của mỗi bên. Trong quá trình tranh tụng, chứng cứ là căn cứ quan trọng để làm sáng tỏ sự thật vụ án. Chủ tọa phiên tòa sẽ đảm bảo cho việc đưa ra chứng cứ của mỗi bên, thông qua quá trình hỏi đáp, chất vấn liên tục giữa hai bên buộc tội và bào chữa, Tòa án có thể thấy được những điểm còn mâu thuẫn của lý lẽ giữa các bên, thấy được sự không thuyết phục của chứng cứ mà bên nào đó đưa ra. Từ đó xem xét, đánh giá chứng cứ được chính xác. 1.1.4. Tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự ở một số quốc gia trên thế giới - Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (Mỹ) Người Mỹ cho rằng hệ thống tranh tụng chỉ là một hệ thống được đặt ra nhằm giải quyết những tranh chấp, xung đột quan điểm về thực tế vụ án, và những tranh chấp, xung đột được đệ trình lên Tòa án mà ở đó Thẩm phán đóng vai trò chính và công minh. Chính Thẩm phán sẽ là người quyết định bên nào thắng trong cuộc tranh chấp tại tòa. Ở hợp chủng quốc Hoa Kỳ, thuật ngữ "hệ thống tranh tụng" gắn liền với hệ thống tư pháp hình sự, một hệ thống đã pháp điển hóa bằng Hiến pháp do những người sáng lập ra Hợp chủng quốc tạo nên và được Tòa án tối cao áp dụng trong suốt hơn 2 thế kỷ. Do đó, hệ thống tranh tụng tiêu biểu cho một mô hình tố tụng đơn giản nhằm mục đích giải quyết các tranh chấp, mà điểm cốt lõi là các quyền cơ bản của con người được công nhận và để bảo vệ những giá trị chân chính của một xã hội tự do và tôn trọng các quyền tự do cá nhân. Những quyền được bảo đảm trong hệ thống tranh tụng là quyền tự do ý chí của cá nhân, quyền được sự trợ giúp có hiệu quả của Luật sư, được bảo vệ một cách bình đẳng trước pháp luật, được xét xử bởi bồi thẩm đoàn, quyền được triệu tập và đối chất với các nhân chứng và quyền được yêu cầu chính quyền phải chứng minh sự có tội. Những quyền này và những quyền khác 16 cũng bao gồm trong khái niệm rộng và cơ bản trong Hiến pháp rằng: "Không ai bị tước đoạt cuộc sống, tự do, tài sản mà không qua một tiến trình xét xử công bằng" một khái niệm mà bản thân nó về căn bản đã mang hàm ý của hệ tố tụng tranh tụng. Để thực thi công lý, các Tòa án ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định được quy định chặt chẽ trong các hiến pháp, trong truyền thống pháp luật. Các nguyên tắc này bao gồm một số nội dung như sau: + Các Tòa án phải tuân thủ pháp luật và chỉ đưa ra quyết định dựa trên các yếu tố pháp lý thích hợp. + Các Tòa án phải công bằng và đối xử bình đẳng với mọi người. + Mặc dù được độc lập khi đưa ra quyết định và điều hành xét xử, song các Tòa án phải tự chịu trách nhiệm về những quyết định, hoạt động và việc sử dụng, huy động các nguồn lực công. + Các Tòa án phải dành cho tất cả mọi người quyền tham gia phiên tòa và tiến hành công việc của mình một cách công khai. + Các Tòa án phải hoạt động một cách có hiệu quả và nhanh chóng. Theo hệ thống tranh tụng của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, phiên tòa xét xử là nơi mang tính xung đột được biểu hiện cao nhất, bởi vì Luật sư không phải là cơ quan hay nhân viên Nhà nước. Luật sư biện hộ ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ có nghĩa vụ theo sát cuộc điều tra vụ án. Tất cả các nguồn thông tin thích hợp đều phải được khai thác, khám phá, đặc biệt là các thông tin về khách hàng. Thay vì tiếp nhận những quyết định của chính quyền để lưu giữ bảo quản hoặc phá hủy chứng cứ, Luật sư biện hộ có nhiệm vụ phát hiện ra các thông tin mà cảnh sát hoặc công tố viên đang nắm giữ. Tại Hoa Kỳ, trong tất cả các vụ án hình sự mà bị cáo bị buộc tội có thể phải chịu mức hình phạt từ 6 tháng tù trở lên thì người đó có quyền yêu cầu 17 được phép xử bằng bồi thẩm đoàn. Do đó, xét xử không có bồi thẩm đoàn chỉ xảy ra đối với các vụ án nghiêm trọng khi thủ tục đó được tất cả các bên đồng ý. - Vương quốc Anh. Về cơ chế truy tố và tranh tụng, theo luật định phần lớn các thủ tục TTHS là do công tố viên tiến hành. Tuy nhiên, tiến trình TTHS cũng có thể do cá nhân và các cơ quan truy tố khác tiến hành như: Cơ quan chống các tội phạm lừa đảo nghiêm trọng, cơ quan Hải quan và Thuế vụ; một số thuộc Chính phủ, như Bộ Thương mại hoặc Bộ Công nghiệp, trong trường hợp này, các cơ quan đó sẽ thuê Luật sư làm nhiệm vụ công tố. Quyền truy tố tư nhân được quy định trong Luật về truy tố tội phạm năm 1985. Tuy nhiên, Công tố viên Hoàng gia có quyền can thiệp vào quá trình này khi cần thiết, chỉ tiếp nhận việc truy tố tư nhân vì lợi ích công. Việc từ chối tiếp nhận các vụ tư tố có thể vì lý do có ít chứng cứ hay chứng cứ không thuyết phục. Quy định như vậy nhằm tránh việc lạm dụng quyền truy tố tư nhân. Mặt khác, Cơ quan công tố Hoàng gia cũng có thể từ chối tiếp nhận tư tố trong trường hợp việc truy tố nặng về lợi ích công theo quy định của Bộ luật ứng xử của Công tố viên Hoàng gia, và do việc truy tố có thể gây phương hại tới lợi ích tư pháp hoặc vụ việc là quan trọng, phức tạp cần có quyết định công tố. Khi tiến hành TTHS tại phiên tòa, Công tố viên Hoàng gia phải thực hiện quyền tự quyết của mình theo quy định của Bộ luật về Công tố viên. Bộ luật này là một văn bản pháp lý ban hành theo Luật truy tố tội phạm năm 1985, trong đó quy định: Trong TTHS, Công tố viên Hoàng gia có quyền tự quyết định những vấn đề sau: + Có khởi tố bị can hay không. + Nếu đã khởi tố thì có thể tiếp tục tiến hành tố tụng không. + Việc buộc tội đã đúng pháp luật chưa. + Đưa ra xử lý và cách thức xét xử. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan