®¹i häc quèc gia hµ néi
khoa luËt
nguyÔn thÞ hoµi ph-¬ng
thùc hiÖn ph¸p luËt m«i tr-êng ë viÖt nam
trong giai ®o¹n hiÖn nay
Chuyªn ngµnh : Lý luËn vµ lÞch sö nhµ n-íc vµ ph¸p luËt
M· sè
: 60 38 01
tãm t¾t luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
hµ néi - 2009
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP
5
LUẬT MÔI TRƯỜNG
1.1.
Môi trường và pháp luật môi trường
5
1.1.1. Khái niệm môi trường, sự biến đổi môi trường và sự cần
thiết phải bảo vệ môi trường
5
1.1.2. Pháp luật môi trường
9
1.2.
12
Tổng quan về thực hiện pháp luật môi trường
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của thực hiện pháp luật môi trường
12
1.2.2. Các hình thức thực hiện pháp luật môi trường
15
1.2.3. Chủ thể thực hiện pháp luật môi trường
18
1.3.
Một số yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến việc thực hiện
pháp luật môi trường
20
1.3.1. Yếu tố pháp lý
20
1.3.2. Yếu tố về kinh tế - xã hội
21
1.3.3. Yếu tố tâm lý
22
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM
23
2.1.
Thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ tài nguyên đất
23
2.1.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ tài nguyên đất
23
2.1.2. Thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ tài nguyên đất
26
2.2.
30
Thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ tài nguyên nước
2.2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước
30
2.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ tài nguyên nước
34
2.3.
Thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không
khí
40
2.3.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không
khí
40
2.3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không
khí
43
2.4.
46
Thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng
2.4.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng
46
2.4.2. Thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng
49
2.5.
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng thực hiện pháp luật môi
trường
53
2.5.1. Sự phát triển thiếu bền vững, thiếu hài hòa của nền kinh tế
53
2.5.2. Hệ thống pháp luật môi trường Việt Nam thiếu đồng bộ,
còn nhiều bất cập và thiếu tính khả thi
55
2.5.3. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu và mục tiêu quản lý nhà
nước
60
2.5.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác bảo vệ môi trường
nghèo nàn, lạc hậu
62
2.5.5. Ý thức pháp luật về bảo vệ môi trường của các tổ chức, cá
63
nhân trong xã hội còn nhiều hạn chế
Chương 3:
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
65
PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
3.1.
Những quan điểm cơ bản
65
3.1.1. Thực hiện pháp luật môi trường phải phù hợp với lý luận
khoa học về bảo vệ môi trường
65
3.1.2. Thực hiện pháp luật môi trường phải phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
66
3.1.3. Thực hiện pháp luật môi trường phải gắn với việc thực
hiện tổng thể các quy định có liên quan trong hệ thống pháp
luật Việt Nam
66
3.1.4. Thực hiện pháp luật môi trường phải phù hợp với xu thế
hội nhập quốc tế
67
3.1.5. Thực hiện pháp luật môi trường muốn đạt kết quả tốt phải
thực hiện đồng bộ, có hệ thống các giải pháp
67
Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật môi trường ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
68
3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường
68
3.2.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về sử dụng và bảo vệ
môi trường
70
3.2.3. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật môi trường
74
3.2.4. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường
77
3.2.5. Một số giải pháp khác
78
3.2.
KẾT LUẬN
81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
83
Danh môc c¸c b¶ng
Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng
Trang
2.1
Số ca mắc bệnh và tử vong của các bệnh liên quan đến
ô nhiễm nước từ năm 1990 đến năm 2003
34
2.2
Lượng chất thải từ một số hoạt động giao thông vận tải
biển
39
2.3
Diễn biến diện tích rừng từ năm 1943 đến năm 2004
50
Danh môc c¸c biÓu ®å
Sè hiÖu
biÓu ®å
Tªn biÓu ®å
Trang
2.1
Sự gia tăng số lượng xe máy và nồng độ khí CO trong
không khí đường phố đô thị tại Hà Nội và Thành phố
Hồ Chí Minh
43
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà nền kinh tế phát triển ngày một mạnh
mẽ thì vấn đề bảo vệ môi trường càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Với ý
nghĩa đó, thông qua các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, Việt Nam đã khẳng định quan điểm phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo
vệ môi trường. Nói cách khác, Việt Nam đang từng bước thực hiện các giải
pháp nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền vững.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, hàng loạt các vụ việc tiêu cực liên quan
đến thực hiện pháp luật về môi trường đã phát sinh, thu hút sự chú ý của công
luận, ví dụ như: Vụ Vedan xả nước thải chưa qua xử lý vào sông Thị Vải; vụ
Miwon xả nước thải chưa qua xử lý ra sông Hồng; công ty trách nhiệm hữu hạn
Văn Đạo (Hà Nội) đầu độc sông Đáy; một loạt nhà máy ở Thanh Hóa đầu độc
sông Chu; công ty Hào Dương có nhà máy thuộc da thuộc loại lớn nhất Đông
Nam Á từ 3 năm nay bức tử sông Đồng Điền; nhiều doanh nghiệp chặt phá
rừng trồng, rừng tự nhiên... Những vụ việc nêu trên chỉ là những ví dụ đơn lẻ
trong vô số các hiện tượng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của các cá
nhân, doanh nghiệp. Thực tế đó cho thấy, rõ ràng môi trường cả nước đang bị
xâm hại nghiêm trọng.
Vấn đề cần được đặt ra là vì sao một số cá nhân, doanh nghiệp cố tình
hủy hoại môi trường đến như vậy? Vì lợi nhuận tối đa, các doanh nghiệp đó tìm
mọi cách để giảm chi phí, cũng như do nhận thức còn hạn chế, ý thức coi
thường pháp luật nên việc thực hiện pháp luật môi trường đã không được đảm
bảo, mặc dù, Luật Bảo vệ môi trường đã có hiệu lực từ năm 2004 và bộ máy
quản lý tài nguyên môi trường từ Trung ương đến địa phương đã được thiết
lập.
Để trả lời câu hỏi nêu trên, trong phạm vi đề tài này, tác giả sẽ tập trung
phân tích, làm rõ việc thực hiện pháp luật môi trường ở Việt Nam cả từ góc độ
lý luận và góc độ thực tiễn. Qua đó, hi vọng sẽ giúp chúng ta có được sự nhìn
nhận, đánh giá khách quan về việc thực hiện pháp luật môi trường, cũng như có
giải pháp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ môi
trường trong điều kiện hội nhập và phát triển kinh tế.
2. Iình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, đến thời điểm hiện nay, có một số công trình nghiên cứu về
thực hiện pháp luật như các sách chuyên khảo: Áp dụng pháp luật ở Việt Nam
hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của PGS.TS Nguyễn Thị Hồi;
Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam, của PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan; và
một số bài viết về thực hiện pháp luật trên các Tạp chí, ví dụ như: Về thực hiện
pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam, của Lê Sơn Hải đăng trên
tạp chí Nhà nước và Pháp luật; Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật bảo vệ
môi trường, của PGS.TS. Phạm Hữu Nghị trong tài liệu hội thảo khoa học "Môi
trường trong mối quan hệ với sức khỏe và quyền con người"… Đây là những
công trình nghiên cứu, những bài viết có chất lượng, với sự tham gia của các
chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực khoa học pháp lý. Song, do giác độ nghiên
cứu được xác định là tập trung phân tích, đánh giá toàn diện về thực hiện pháp
luật nói chung hoặc chỉ chuyên sâu về vấn đề môi trường nên các công trình
nghiên cứu, các bài viết nêu trên đã không tập trung phân tích, đánh giá toàn
diện, chi tiết về lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường ở
Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài "Thực hiện pháp luật môi trường ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay" nhằm đạt các mục đích chủ yếu sau đây:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật môi trường, cụ
thể như: Khái niệm thực hiện pháp luật môi trường; các đặc điểm của thực
hiện pháp luật môi trường; vai trò, tác dụng của việc thực hiện pháp luật môi
trường đối với việc bảo vệ môi trường sống trong sạch của nhân dân và sự phát
triển bền vững của đất nước trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phân tích, đánh giá khái quát các quy định pháp luật môi trường ở
nước ta và thực tiễn thực hiện pháp luật môi trường của người dân và doanh
nghiệp, các cơ quan nhà nước trong đó tập trung phân tích về những nội dung
chủ yếu sau đây: Đánh giá thực trạng việc thực hiện pháp luật môi trường của
người dân và doanh nghiệp, các cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện;
phân tích nguyên nhân dẫn đến kết quả thực hiện pháp luật môi trường.
- Trên cơ sở các nội dung nghiên cứu nêu trên, đưa ra kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về môi trường ở nước ta.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Do điều kiện lịch sử, xuất phát từ một nước nghèo, lại trải qua hàng
chục năm chiến tranh, không những nền kinh tế bị kiệt quệ, mà môi trường tự
nhiên cũng bị hủy hoại trầm trọng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã có rất
nhiều nỗ lực để khắc phục những hậu quả của chiến tranh, khôi phục và phát
triển kinh tế, song song với những nỗ lực về mặt bảo vệ môi trường. Mặc dù,
Việt Nam là một trong số các nước đã sớm đưa các mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ vào các chiến lược và chương trình quốc gia, nhưng thực tế cho thấy
mức độ ô nhiễm gia tăng, chất lượng môi trường và tình trạng tài nguyên thiên
nhiên bị suy thoái. Thực tế đó, đòi hỏi các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động
thực tiễn phải tập trung nguồn lực để đánh giá và đề xuất giải pháp nhằm nâng
cao ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tôi không thể giải quyết được một
cách trọn vẹn tất cả các vấn đề có liên quan đến thực hiện pháp luật bảo vệ môi
trường ở Việt Nam. Do đó, Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu một số vấn đề
lý luận cơ bản nhất, các quy định pháp luật của Việt Nam và thực trạng thực
hiện pháp về bảo vệ môi trường ở Việt Nam, đồng thời đề xuất một số giải pháp
bước đầu tháo gỡ những bất cập, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện
nhằm nâng cao hơn nữa ý thức, trách nhiệm của cộng đồng xã hội đối với việc
bảo vệ môi trường ở nước ta trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế thị trường của Đảng và
Nhà nước ta được trình bày trong các văn kiện, nghị quyết và các văn bản quy
phạm pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, so sánh, tổng hợp
cũng sẽ được sử dụng ở mức độ phù hợp để hoàn thành mục tiêu của đề tài.
6. Những kết quả đạt được của luận văn
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên ở Việt Nam tập trung nghiên
cứu sâu sắc, toàn diện về thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam.
Đây chính là đóng góp lớn nhất của luận văn.
Những vấn đề cụ thể về lý luận, cách nhìn nhận, đánh giá luật thực định
và thực tiễn, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao ý thức, chất lượng bảo
vệ môi trường là những đóng góp có giá trị đối với công tác nghiên cứu khoa
học, công tác lập pháp và áp dụng pháp luật của luận văn.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật môi trường.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật môi trường ở Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật môi
trường ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG
1.1. MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG
1.1.1. Khái niệm môi trường, sự biến đổi môi trường và sự cần thiết
phải bảo vệ môi trường
* Khái niệm môi trường
Cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội thì môi trường đã và đang trở
thành vấn đề nóng bỏng được tất cả các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan
tâm. Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, môi trường thế giới nói chung
và môi trường ở Việt Nam nói riêng đang bị suy thoái và ô nhiễm nghiêm trọng,
dẫn đến chất lượng các thành phần môi trường ngày càng trở nên xấu hơn và
thiên tai xảy ra ngày càng nhiều nên đã gây thiệt hại nghiêm trọng về tính
mạng, tài sản của người dân, đặc biệt trong nhiều trường hợp đã vượt ra ngoài
khả năng ngăn chặn và khắc phục của con người. Từ giác độ lý luận, chúng ta
cần "giải mã" được những vấn đề chủ yếu như: Môi trường là gì? Môi trường
bao gồm những thành tố nào? Sự biến đổi của môi trường ảnh hưởng như thế
nào tới cuộc sống của con người?
Hiện nay, trên thế giới và ở Việt Nam có nhiều khái niệm khác nhau về
môi trường. Theo Từ điển bách khoa Larouse thì:
Môi trường là tất cả những gì bao quanh chúng ta hoặc sinh
vật. Nói cụ thể hơn, đó là các yếu tố tự nhiên và nhân tạo diễn ra trong
không gian cụ thể, nơi đó có thể có sự sống hoặc không có sự sống.
Các yếu tố đều chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của những định luật vật lý,
mang tính tổng quát hoặc chi tiết như luật hấp dẫn vũ trụ, năng lượng
phát xạ, bảo tồn vật chất. Trong đó, hiện tượng hóa học và sinh học là
những đặc thù của môi trường bao gồm tất cả những nhân tố tác động
qua lại trực tiếp hoặc gián tiếp với sinh vật và quần xã sinh vật [46].
Đơn giản hơn, The American Heritage Dictionary định nghĩa "môi trường
là sự kết hợp toàn bộ hoàn cảnh hoặc điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới sự
tồn tại, phát triển của một thực thể hữu cơ" [52, tr. 616]. Chương trình môi
trường của UNESCO (1981) định nghĩa: Môi trường bao gồm toàn bộ các hệ
thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình (đô thị,
hồ chứa...) và những cái vô hình (tập quán, nghệ thuật...) trong đó con người
sống bằng lao động của mình, họ khai thác các tài nguyên thiên nhiên và nhân
tạo nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình.
Từ những định nghĩa nêu trên cho thấy, môi trường không chỉ là nơi tồn
tại, sinh trưởng và phát triển cho một thực thể sinh vật và con người, mà còn là
"khung cảnh của cuộc sống, của lao động và sự vui chơi giải trí của con người"
[54].
Ở Việt Nam, khái niệm về môi trường cũng được một số tác giả quan
tâm, cụ thể như: Theo Từ điển tiếng Việt thì "môi trường là toàn bộ nói chung
những điều kiện tự nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại,
phát triển trong mối quan hệ với con người hay sinh vật ấy" [47, tr. 618]. Trong
khi đó, theo PGS.TS Nguyễn Đức Khiển "một cách cô đọng nhất thì môi trường
là tổng hợp các điều kiện sống của con người" [26]...
Khi phân loại môi trường, chúng ta có thể chia môi trường thành ba hệ
thống cơ bản là: môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và môi trường nhân
tạo, trong đó:
Môi trường tự nhiên, bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hóa
học, sinh học, tồn tài ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu sự
tác động của con người, như đất, nước, không khí, khí hậu, ánh sáng, động
thực vật, sông, biển...
Môi trường xã hội, là tổng thể các quan hệ xã hội giữa người và người.
Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định...
Môi trường nhân tạo, bao gồm những nhân tố do con người tạo ra và chịu
sự chi phối của con người. Ví dụ: nhà ở, công sở, khu công nghiệp, các cảnh
quan kiến trúc, các di tích lịch sử, văn hóa...
Giữa ba loại môi trường trên luôn tồn tại một mối quan hệ đan xen và
tương tác chặt chẽ với nhau trong quá trình phát triển của xã hội. Vì vậy, bất
cứ một sự biến đổi không có lợi nào đối với chúng cũng sẽ gây ảnh hưởng, tác
hại xấu đến chất lượng cuộc sống của con người.
Trong khoa học pháp lý, môi trường là khái niệm được hiểu như là mối
liên hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó môi trường là những yếu tố, hoàn
cảnh và điều kiện tự nhiên bao quanh con người. Theo quy định tại Điều 1 Luật
Bảo vệ Môi trường được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 29/11/2005, "môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất
nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại
và phát triển của con người và sinh vật" [41]. Theo cách định nghĩa này, con
người đã trở thành trung tâm trong mối quan hệ với tự nhiên. Môi trường được
tạo thành bởi vô số các yếu tố vật chất. Trong số đó những yếu tố vật chất tự
nhiên như đất, nước, không khí, ánh sáng, âm thanh, các hệ thực vật, hệ động
vật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng hơn cả. Những yếu tố này được coi là thành
phần cơ bản của môi trường. Chúng hình thành và phát triển theo những quy
luật tự nhiên vốn có và nằm ngoài khả năng quyết định của con người. Con
người chỉ có thể tác động tới chúng trong một chừng mực nhất định. Bên cạnh
những yếu tố vật chất tự nhiên, môi trường còn bao gồm cả những yếu tố nhân
tạo, do con người tạo ra nhằm tác động tới các yếu tố thiên nhiên để phục vụ
cho nhu cầu của bản thân mình.
Từ những phân tích trên cho thấy, môi trường là một khái niệm rộng và
đa dạng, được sử dụng ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Với mục đích tìm hiểu
việc thực hiện pháp luật môi trường ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, khái
niệm môi trường được đề cập tới trong Luật bảo vệ môi trường là hoàn toàn
phù hợp với phạm vi và mục đích nghiên cứu, và cũng là khái niệm được sử
dụng trong luận văn này. Theo đó, môi trường sẽ được cấu thành lên nó bởi một
loạt các thành tố. Giữa các thành tố của môi trường có mối liên hệ tương hỗ lẫn
nhau, một thành tố bị ô nhiễm sẽ ảnh hưởng xấu đến các thành tố khác của môi
trường.
* Sự biến đổi của môi trường và sự cần thiết phải bảo vệ môi trường
Trong những năm vừa qua, sự phát triển kinh tế - xã hội và gia tăng dân
số trên phạm vi toàn cầu đang có những tác động lớn đến môi trường. Hoạt
động của loài người đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên trên trái đất,
làm chất lượng môi trường sống bị giảm sút nghiêm trọng. Trên phạm vi toàn
cầu, sự thay đổi theo chiều hướng xấu của môi trường diễn ra trên nhiều yếu tố
với những cấp độ khác nhau, đặc biệt là những yếu tố mang tính tự nhiên như
đất, nước, không khí, hệ thực vật, hệ động vật... Có thể kể đến một số biểu
hiện nghiêm trọng như: Tầng ôzôn bị suy giảm tạo ra những biến đổi xấu của
môi trường trên trái đất; một loạt những thảm họa thiên nhiên liên tiếp xảy ra
trong cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI (sóng thần Tsunami ở Đông Nam Á, núi
lửa phun trào ở lòng đại dương, động đất ở Nhật Bản...); sự suy giảm của nhiều
loại thực vật, sự diệt vong của nhiều loại động vật (ví dụ như sự sụt giảm
nghiêm trọng về số lượng của đàn voi ở châu Phi, loài tê giác ở Việt Nam hay
loài hổ ở Ấn Độ); hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu đang trở thành vấn đề
cấp bách hơn bao giờ hết...
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, do vậy, tình trạng môi trường
cũng có những nét chung của môi trường thế giới, bên cạnh những nét riêng do
hoàn cảnh lịch sử và sự phát triển qua các giai đoạn khác nhau. Thực tế cho
thấy, có nhiều yếu tố môi trường Việt Nam hiện xấu hơn ở nhiều nước trên thế
giới, ví dụ như: Môi trường nước ta hiện đang bị ô nhiễm và suy thoái nghiêm
trọng; đất đai bị xói mòn và thoái hóa, nhiều nơi diễn ra hiện tượng sa mạc hóa;
đa dạng sinh học trên đất liền và dưới biển đều bị suy giảm, môi trường vùng
ven biển và các lưu vực sông đang có dấu hiệu ô nhiễm ngày càng gia tăng,
nguồn nước mặt và nước ngầm đang ngày càng bị ô nhiễm và cạn kiệt. Nhiều
đô thị, khu công nghiệp, làng nghề bị ô nhiễm nặng do nước thải, khí thải, chất
thải rắn; tình trạng nhập khẩu thiết bị, công nghệ lạc hậu, phế liệu không đáp
ứng tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường diễn ra khá phổ biến.Việc khai thác có
tính chất hủy diệt các nguồn lợi sinh vật trên cạn và dưới nước chưa bị ngăn
chặn, rằng tiếp tục bị tàn phá nặng nề. Diễn biến xấu của môi trường nước ta
nói trên đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của nhân dân, đe dọa
sự phát triển bền vững của đất nước.
1.1.2. Pháp luật môi trường
* Khái niệm pháp luật môi trường
Mặc dù, môi trường có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống của
con người và sự phát triển của mỗi quốc gia, nhưng pháp luật về môi trường
của Việt Nam được hình thành tương đối muộn. Một trong những nguyên nhân
quan trọng là do Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển, sau những năm
bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh thì mục tiêu trước mắt là ổn định đất nước
và phát triển kinh tế, thậm chí là phát triển bằng mọi giá bất chấp việc phải hy
sinh các nguồn tài nguyên, khai thác không tính đến khả năng tái sinh. Khi đó,
môi trường chưa phải là vấn đề cấp thiết được đặt ra. Chỉ đến khi các nguồn tài
nguyên đã dần cạn kiệt, sự mất cân bằng sinh thái cùng quá trình thay đổi khí
hậu toàn cầu đang diễn ra hàng ngày gây nên những hậu quả nghiêm trọng thì
vấn đề bảo vệ môi trường mới nổi lên như một thách thức xã hội, và nhu cầu
phải hình thành một hệ thống pháp luật môi trường mới thực sự được quan tâm
xác đáng.
Trong khoa học pháp lý, luật môi trường là lĩnh vực pháp luật chuyên
ngành bao gồm các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các
quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình khai thác, sử dụng hoặc tác
động đến một hoặc một vài yếu tố của môi trường trên cơ sở kết hợp các
phương pháp điều chỉnh khác nhau nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả môi
trường sống của con người [45].
Với cách hiểu như trên, pháp luật về bảo vệ môi trường ở nước ta bao
gồm các quy định nhằm bảo vệ hiệu quả môi trường và các thành tố của nó.
Đồng thời, Nhà nước cũng ban hành các quy định giới hạn hành vi, xác định
nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên
thiên nhiên. Bảo vệ môi trường được coi là sự nghiệp của toàn dân. Do đó, có
thể thấy pháp luật môi trường gồm rất nhiều các quy định điều chỉnh các quan
hệ xã hội liên quan đến việc sử dụng và bảo vệ môi trường, có thể phân thành
các nhóm như sau:
- Nhóm quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá
trình khai thác, sử dụng các thành tố môi trường;
- Nhóm quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ hình thành trong hoạt
động quản lý nhà nước về môi trường;
- Nhóm quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ về các biện pháp khắc
phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, phòng chống sự cố môi trường;
- Nhóm quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ về giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực môi trường, xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường;
- Nhóm quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ về hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực môi trường.
* Vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ môi trường
Khi vấn đề môi trường đã trở thành sự thách thức đối với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội hay quá trình tiến hóa của nhân loại nói chung, cũng là lúc
người ta khẩn trương tìm kiếm các giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề môi
trường bức bách được đặt ra. Môi trường có thể được bảo vệ bằng nhiều biện
pháp khác nhau, như biện pháp tổ chức - chính trị, biện pháp kinh tế, biện pháp
khoa học công nghệ, biện pháp giáo dục... Khó có thể liệt kê hết các biện pháp
mà các quốc gia đã và đang thực hiện để công tác bảo vệ môi trường có hiệu
quả. Tuy nhiên, khi nói đến bảo vệ môi trường, chúng ta không thể không kể
đến biện pháp pháp lý với sự nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của pháp
luật trong việc bảo vệ môi trường thông qua những khía cạnh sau:
Thứ nhất, pháp luật với tư cách là công cụ điều tiết các hành vi của công
dân trong xã hội có tác dụng rất lớn trong việc định hướng quá trình khai thác
và sử dụng môi trường. Con người sử dụng và khai thác môi trường theo những
tiêu chuẩn nhất định thì sẽ hạn chế những tác hại, ngăn chặn được sự suy
thoái. Các tiêu chuẩn này thực chất là những tiêu chuẩn kỹ thuật nhưng do được
ban hành bằng các văn bản pháp lý nên chúng trở thành những tiêu chuẩn pháp
lý, buộc các tổ chức, cá nhân trong xã hội phải tuân thủ nghiêm ngặt khi khai
thác, sử dụng các yếu tố khác nhau của môi trường. Đây sẽ là cơ sở pháp lý
quan trọng cho việc xác định có hay không hành vi vi phạm pháp luật môi
trường.
Thứ hai, pháp luật quy định các chế tài hình sự, kinh tế, hành chính, dân
sự để buộc các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật môi trường phải thực
hiện đầy đủ các đòi hỏi của pháp luật trong quá trình khai thác, sử dụng các
thành tố của môi trường. Các chế tài này hoặc cách ly những kẻ vi phạm nguy
hiểm khỏi xã hội hoặc áp dụng những hậu quả vật chất, tinh thần đối với họ,
vừa có tác dụng ngăn chặn các hành vi vi phạm, vừa có tác dụng giáo dục công
dân tôn trọng pháp luật bảo vệ môi trường.
Thứ ba, bảo vệ môi trường là công việc khó khăn và phức tạp đòi hỏi
phải có hệ thống các tổ chức thích hợp với đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn. Pháp
luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tạo ra cơ chế hoạt động hiệu
quả cho các tổ chức bảo vệ môi trường thực hiện nhiệm vụ của mình.
Thứ tư, vai trò to lớn của pháp luật trong việc bảo vệ môi trường là việc
giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc bảo vệ môi trường. Tranh chấp về môi
trường là tranh chấp liên quan tới việc khai thác, sử dụng các yếu tố của môi
trường. Tranh chấp môi trường có thể xảy ra giữa cá nhân với nhau, song cũng có khi
xảy ra giữa cá nhân với các doanh nghiệp hoặc các cơ quan nhà nước.
1.2. TỔNG QUAN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của thực hiện pháp luật môi trường
Khi ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các
quan hệ xã hội, Nhà nước mong muốn các văn bản đó phải được tôn trọng và
thực thi có hiệu quả trong thực tế. Đây cũng chính là yêu cầu để pháp luật phát
huy được giá trị đích thực của chính nó đối với đời sống xã hội con người.
Trong những năm vừa qua, Nhà nước đã ban hành một hệ thống pháp luật môi
trường tương đối đầy đủ cả về nội dung và hình thức, quy định khá bao quát về
những vấn đề và các yếu tố khác nhau của môi trường và ngày càng có sự tương
đồng với hệ thống pháp luật môi trường quốc tế. Đây sẽ là cơ sở tiền đề quan
trọng để việc thực hiện pháp luật môi trường trên thực tế đạt kết quả tốt. Vậy
thực hiện pháp luật môi trường là gì? Nó bao gồm những hình thức nào?
Những yếu tố nào sẽ đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả pháp luật môi
trường trong cuộc sống?
* Khái niệm thực hiện pháp luật môi trường
Trước khi đi tìm hiểu khái niệm thực hiện pháp luật môi trường, chúng ta
cùng làm rõ khái niệm thực hiện pháp luật nói chung. Theo lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, thực hiện pháp luật là "một quá trình hoạt động có mục đích
làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi
thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật" [27, tr. 494].
Thực hiện pháp luật do nhiều chủ thể khác nhau tiến hành với nhiều cách
thức khác nhau. Đó có thể là hành vi của mỗi cá nhân, nhưng cũng có thể là hoạt
động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế... Dưới
góc độ pháp lý, thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp. Hành vi đó không trái
mà phù hợp với những quy định của pháp luật và có lợi cho xã hội, cho Nhà
nước, cho công dân. Hành vi hợp pháp này có thể được chủ thể thực hiện trên
cơ sở tự nhận thức là cần thiết phải xử sự theo đúng quy định của pháp luật;
Cũng có thể chúng được thực hiện do chủ thể bị ảnh hưởng của những người
xung quanh mà hành động; Hoặc có thể có những hành vi hợp pháp được thực
hiện là kết quả của việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước hoặc do
sợ bị áp dụng những biện pháp đó.
Pháp luật môi trường là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam.
Qua việc tìm hiểu khái niệm và các đặc điểm của việc thực hiện pháp luật như
trên, chúng ta có thể rút ra được khái niệm thực hiện pháp luật môi trường như
sau: Thực hiện pháp luật môi trường là một quá trình hoạt động có mục đích
của các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội và mọi công dân nhằm
- Xem thêm -