Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Bình Thuận...

Tài liệu Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Bình Thuận

.PDF
85
171
147

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ VĂN TÍN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH THUẬN LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ VĂN TÍN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH THUẬN Chuyên ngành: Chính sách công Mã số: 60 34 04 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS LÊ NGỌC HÙNG HÀ NỘI - 2017 LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám đốc Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, cơ sở Học viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh, các khoa, phòng và quý thầy, cô giáo, người lao động của Học viện đã tận tâm truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm thiết thực và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập tại Học viện. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Giáo sư, Tiến sĩ Lê Ngọc Hùng – người thầy trách nhiệm, tâm huyết đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và viết luận văn. Đồng thời, tôi cũng gửi lời cảm ơn đến Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bình Thuận, lãnh đạo các cấp đã tin tưởng, tạo điều kiện để tôi tham gia khóa học. Tôi xin cảm ơn Sở Tư pháp tỉnh Bình Thuận đã hỗ trợ, cung cấp số liệu, thông tin và tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Cuối cùng, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp nơi tôi công tác, bạn bè, gia đình đã luôn tạo điều kiện, hỗ trợ, đồng hành và chia sẻ những khó khăn trong suốt thời gian tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Bình Thuận, tháng 8 năm 2017 Học viên Đỗ Văn Tín LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan các kết quả nghiên cứu, số liệu trong luận văn Thạc sĩ Chính sách công “Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Bình Thuận” là hoàn toàn trung thực, khách quan. Những nội dung trong luận văn có trích dẫn tài liệu tham khảo đều được dẫn nguồn đầy đủ. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác có liên quan với nội dung của luận văn. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn theo quy định của pháp luật. Tác giả luận văn Đỗ Văn Tín MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT ...................................................................7 1.1. Khái quát về chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật.....................................7 1.2. Khái niệm, vị trí, vai trò của việc thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật ................................................................................................................22 1.3. Nội dung thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật ..........................................22 1.4. Quy trình thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật ........................23 1.5. Các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật 27 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TẠI TỈNH BÌNH THUẬN ....................................................30 2.1. Các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật 30 2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật.........41 2.3. Kết quả thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật ..........................47 Chương 3: TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TẠI TỈNH BÌNH THUẬN ....................................................63 3.1. Quan điểm, mục tiêu tăng cường thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật ................................................................................................................63 3.2. Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật ....64 KẾT LUẬN ..............................................................................................................70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................71 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCV: Báo cáo viên CBCC: Cán bộ, công chức HĐND: Hội đồng nhân dân HĐPH: Hội đồng phối hợp MTTQ: Mặt trận Tổ quốc PBGDPL: Phổ biến, giáo dục pháp luật QPPL: Quy phạm pháp luật TGPL: Trợ giúp pháp lý TTV: Tuyên truyền viên TVPL: Tư vấn pháp luật UBND: Ủy ban nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 1.1 Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật 17 Hình 2.1: Bản đồ ranh giới hành chính tỉnh Bình Thuận .........................................30 Bảng 2.1: Số lượng Báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh tại các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh từ năm 2014 đến năm 2016 .........................................................................35 Bảng 2.2: Số lượng Báo cáo viên pháp luật cấp huyện trên địa bàn tỉnh từ năm 2014 đến năm 2016 ............................................................................................................35 Bảng 2.3: Số lượng Tuyên truyền viên pháp luật cấp xã trên địa bàn tỉnh Bình Thuận từ năm 2014 đến năm 2016 ............................................................................36 Bảng 2.4: Kết quả thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Bình Thuận từ năm 2014 đến năm 2016...........................................................Phụ lục MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay của đất nước ta thì chính sách, pháp luật được ban hành ngày càng nhiều, nội dung đa dạng, phức tạp, điều chỉnh nhiều loại hình quan hệ xã hội. Điều này dẫn đến việc để đảm bảo quản lý mọi mặt của đời sống xã hội và hoàn thiện hệ thống pháp luật, số lượng vật mang chính sách – các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) mới liên tục ra đời. Bên cạnh đó, việc sửa đổi, bổ sung để các văn bản này ngày càng phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội đã đặt công tác tổ chức thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) trước những yêu cầu và thách thức mới trong điều kiện hiện nay. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đánh giá: “Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi. Khẳng định rõ các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội”[9, tr. 166-167]. Tuy nhiên, theo Võ Khánh Vinh thì: “Nghiên cứu thực tiễn xây dựng pháp luật ở nước ta thời gian qua, cũng như trong toàn bộ đời sống xã hội hiện nay cho thấy, hoạt động xây dựng pháp luật nước ta chưa có sự tiên định mang tính khoa học, các mục tiêu đặt ra chưa thật rõ ràng, thiếu việc đánh giá khách quan các kết quả đạt được” [36, tr.5]. Tại tỉnh Bình Thuận, trong những năm qua công tác PBGDPL nhìn chung đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương quan tâm, đạt được nhiều kết quả quan trọng, hầu hết các văn bản QPPL được phổ biến bằng nhiều hình thức phong phú, phù hợp với từng đối tượng và địa bàn, từng bước đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của đông đảo cán bộ và nhân dân. Từ đó, hiểu biết pháp luật và ý thức 1 chấp hành pháp luật của CBCC, viên chức và nhân dân từng bước được nâng lên. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách PBGDPL trên địa bàn tỉnh Bình Thuận vẫn còn bộc lộ những khó khăn, hạn chế ở nhiều mặt như về nhận thức, về nhân lực, về kinh phí, về hình thức, nội dung, phương pháp thực hiện… Những khó khăn, hạn chế trong triển khai thực hiện chính sách này đang đặt các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương các cấp và đội ngũ những người làm công tác PBGDPL trước những boăn khoăn, trăn trở và mong muốn tìm ra nguyên nhân cũng như những giải pháp hiệu quả, đồng bộ để thực hiện tốt hơn công tác này trong thời gian tới. Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước nói chung và tại Bình Thuận nói riêng, yêu cầu tăng cường, phát huy vai trò, hiệu lực của pháp luật theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI và phát huy dân chủ XHCN theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, đòi hỏi công tác PBGDPL phải thực sự có chuyển biến căn bản, toàn diện. Chất lượng và hiệu quả thực hiện công tác PBGDPL chỉ được cải thiện và tạo được sự chuyển biến khi công tác này được nhìn nhận và giải quyết một cách khoa học từ thực tiễn và mang tính hệ thống, qua đó góp phần ngày càng hoàn thiện chính sách PBGDPL. Xuất phát từ lý do đó, tác giả chọn đề tài “Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Bình Thuận” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Với vị trí và vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tăng cường pháp chế XHCN, công tác PBGDPL luôn nhận được sự quan tâm của nhiều học giả, nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu nghiên cứu, tiếp cận công tác PBGDPL dưới góc độ Luật học như: - Trần Ngọc Đường, Dương Thanh Mai, Bàn về giáo dục pháp luật [10]. Tài liệu cung cấp các khái niệm cơ bản liên quan đến giáo dục pháp luật như các yếu tố cấu thành, các giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật. - Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp Luật [34]. tại mục V, chương IX trình bày về giáo dục pháp luật, qua đó mục đích của 2 giáo dục pháp luật là nhằm nâng cao nhận thức, khơi dậy niềm tin vào pháp luật và hình thành thói quen ứng xử theo pháp luật cho đối tượng được giáo dục. - Dương Thành Trung, Giáo dục pháp luật cho đồng bào Khme ở đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam [33]. Luận án trình bày các vấn đề về lý luận giáo dục pháp luật, kết quả đạt được, những khó khăn, hạn chế trong công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khme. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số quan điểm và giải pháp đảm bảo thực hiện giáo dục pháp luật cho đối tượng đặc thù (đồng bào Khme) tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. - Dương Thị Thu Hiền, Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, thực trạng và giải pháp [12]. Luận văn đánh giá thực trạng thực hiện PBGDPL, đồng thời đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng hoạt động PBGDPL tại địa phương. - Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật (tái bản lần thứ nhất, có chỉnh sửa, bổ sung) [16]. Tác giả đề xuất giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ CBCC nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật ở nước ta hiện nay. - Nguyễn Thị Kim Ngân, Phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội [15]. Luận văn nghiên cứu hoạt động PBGDPL ở cấp cơ sở là các xã, phường, thị trấn trên địa bàn thủ đô Hà Nội, đáng chú ý là tác giả phân tích yêu cầu khách quan phải nâng cao chất lượng công tác PBGDPL tại cấp cơ sở. - Nguyễn Quốc Sửu, Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam [22]. Luận án trình bày khái niệm, vai trò và các đặc trưng của giáo dục pháp luật cho đội ngũ CBCC hành chính. Qua đánh giá thực trạng giáo dục pháp luật, tác giả đưa ra các quan điểm giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho đội ngũ CBCC hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích của luận văn 3 Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức thực hiện chính sách công, luận văn tập trung phân tích thực trạng thực hiện chính sách PBGDPL tại tỉnh Bình Thuận, từ đó đề xuất các quan điểm, mục tiêu và các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách PBGDPL nói chung và tại tỉnh Bình Thuận nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: Thứ nhất, hệ thống hóa và phân tích cơ sở lý luận, pháp lý về thực hiện chính sách PBGDPL. Thứ hai, khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách PBGDPL tại tỉnh Bình Thuận nhằm tìm ra những kết quả đạt được, những mặt hạn chế, cũng như những kết luận về thực trạng thực hiện chính sách PBGDPL. Thứ ba, đề xuất một số quan điểm, kiến nghị các giải pháp cơ bản góp phần tăng cường thực hiện chính sách PBGDPL. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện chính sách PBGDPL thực tiễn tại tỉnh Bình Thuận. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu việc tổ chức thực hiện chính sách PBGDPL tại tỉnh Bình Thuận từ năm 2014 đến năm 2016 (Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 và đây là giai đoạn Luật này thật sự bắt đầu đi vào cuộc sống). 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách, pháp luật của Nhà nước về PBGDPL. 4 Luận văn sử dụng các phương pháp tiếp cận liên ngành của khoa học chính sách công cũng như kế thừa những kết quả nghiên cứu trước đây. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn, phương pháp tổng hợp và phân tích, thống kê, hệ thống hóa, khái quát hóa và một số phương pháp phân tích văn bản học, nghiên cứu tài liệu của Đảng và Nhà nước có liên quan đến chính sách PBGDPL. Phương pháp thu thập thông tin sẵn có liên quan đến đề tài nghiên cứu gồm các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, báo cáo và tài liệu của Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành ở Trung ương và địa phương về PBGDPL. Số liệu được sử dụng trong luận văn là số liệu thứ cấp. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn vận dụng lý thuyết khoa học về thực hiện chính sách công, làm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách công nói chung và tổ chức thực hiện chính sách PBGDPL nói riêng. Các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ, bổ sung thêm những tư liệu nghiên cứu, kết quả khảo sát thực tế tại tỉnh Bình Thuận, qua đó làm phong phú thêm luận cứ khoa học cho hệ thống lý luận, pháp lý về thực hiện chính sách PBGDPL. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn chỉ ra những mặt đạt được cũng như những khó khăn, hạn chế trong việc thực hiện chính sách PBGDPL. Các giải pháp, đề xuất trong luận văn góp phần giải quyết vấn đề thực tiễn hiện nay trong việc tổ chức thực hiện chính sách PBGDPL tại tỉnh Bình Thuận, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành, tham mưu và triển khai thực hiện công tác PBGDPL. Luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu về chính sách công nói chung và chính sách PBGDPL nói riêng. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được cơ cấu thành 3 chương, gồm: 5 Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách PBGDPL. Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách PBGDPL tại tỉnh Bình Thuận. Chương 3: Tăng cường thực hiện chính sách PBGDPL. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT 1.1. Khái quát về chính sách PBGDPL PBGDPL là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật, là cầu nối chuyển tải chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào đời sống xã hội và có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Với vai trò, ý nghĩa quan trọng như vậy, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, xác định PBGDPL là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam [1] và chính sách này đã đề cập trong rất nhiều văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Ngày 20 tháng 6 năm 2012, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật PBGDPL và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2013. Luật PBGDPL ra đời là nhằm thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về hoạt động PBGDPL gắn với tạo cơ sở pháp lý mạnh, đồng bộ, thống nhất cho công tác PBGDPL, góp phần nâng cao hiệu quả công tác này. Luật xác định chính sách và quản lý của Nhà nước về PBGDPL, quy định quyền được thông tin về pháp luật và trách nhiệm tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân; nguyên tắc nội dung, hình thức PBGDPL, nhất là đối với một số đối tượng đặc thù và trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân; chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng phối hợp PBGDPL; tổ chức Ngày Pháp luật nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và các điều kiện đảm bảo về tổ chức, cán bộ, cơ sở vật chất, phương tiện và bảo đảm kinh phí cho công tác PBGDPL. 1.1.1. Khái niệm chính sách PBGDPL Trước khi làm rõ khái niệm chính sách PBGDPL, đề tài cần làm rõ các khái niệm trung gian như: chính sách, chính sách công, phổ biến, giáo dục pháp luật và thực hiện chính sách PBGDPL. 7 1.1.1.1. Khái niệm về chính sách Theo James Anderson (2003): “Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề mà họ quan tâm”. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…” Theo Vũ Cao Đàm: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội” [8]. Như vậy, có thể hiểu chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hoặc quản lý đề ra để giải quyết một hoặc một số vấn đề nào đó thuộc thẩm quyền. Tác giả đồng tình với khái niệm về chính sách của Vũ Cao Đàm. 1.1.1.2. Khái niệm chính sách công Khái niệm chính sách công là một trong những đối tượng nghiên cứu của khoa học chính sách công. Tuy nhiên, do bị ảnh hưởng bởi những đặc điểm của thể chế chính trị và hình thái nhà nước khác nhau nên cho đến nay có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về chính sách công. Có thể nêu ra một số quan niệm sau: Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành (Peter Aucoin, 1971). Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978). Chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay không làm (Thomas R. Dye, 1984). 8 Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân (B. Guy Peter, 1990). Chính sách công là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà nước hay các quan chức nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992). Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các chương trình nhằm đạt được những mục tiêu xã hội (Charle L. Cochran and Eloise F. Malone, 1995). Nói cách đơn giản nhất, chính sách công là tổng hợp các hoạt động của chính phủ/chính quyền, trực tiếp hoặc thông qua tác nhân bởi vì nó có ảnh hưởng tới đời sống của công dân (B. Guy Peters, 1999). Thuật ngữ chính sách công luôn chỉ những hành động của chính phủ/chính quyền và những ý định quyết định hành động này; hoặc chính sách công là kết quả của cuộc đấu tranh trong chính quyền để ai giành được cái gì (Clarke E. Cochran, et al, 1999). Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình (Kraft and Furlong, 2004). Ở Việt Nam những năm gần đây, thuật ngữ “Chính sách công” được sử dụng với nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về chính sách công ở nước ta vẫn còn khá khiêm tốn; nhiều vấn đề liên quan đến chính sách công cần phải tiếp tục được làm rõ cả về lý luận và thực tiễn. Có thể nêu ra một số quan niệm sau: Theo Võ Khánh Vinh: “Chính sách công là những đường hướng ứng xử cơ bản của Nhà nước với những vấn đề chính sách phát sinh trong đời sống cộng đồng bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm thúc đẩy phát triển xã hội và quản lý xã hội”[36]. 9 Theo Đỗ Phú Hải: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với các giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định của đảng chính trị cầm quyền”[36]. Theo Lê Chi Mai (Học viện Hành chính Quốc gia) cho rằng: “Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách công vẫn là một chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi” và “chính sách công có những đặc trưng cơ bản nhất như: chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước; chính sách công không chỉ là các quyết định (thể hiện trên văn bản) mà còn là những hành động, hành vi thực tiễn (thực hiện chính sách); chính sách công tập trung giải quyết các vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định; chính sách công gồm nhiều quyết định chính sách có liên quan lẫn nhau”. Đồng thời, Lê Chi Mai còn đưa ra khái niệm “chính sách tư” là các chính sách do các cơ quan, tổ chức ban hành nhằm giải quyết những vấn đề nội bộ cơ quan, tổ chức và không có hiệu lực thi hành bên ngoài phạm vi cơ quan, tổ chức. Từ các quan niệm trên, chính sách công được Đặng Ngọc Lợi nhìn nhận trong bài viết đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo (số tháng 01 năm 2002) như sau: Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước, do chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chung của mỗi nước. Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách công phản ánh và thể hiện hoạt động cũng như quản lý đối với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cộng cho nền kinh tế. Thứ ba, là một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng để: Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cho nền kinh tế, khuyến khích cả với khu vực công và cả với khu vực tư; Quản lý nguồn lực công một cách hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn. Nói cách khác chính sách công là một trong những căn cứ đo lường năng lực hoạch định chính sách, xác định mục tiêu, căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công như ngân sách nhà nước, tài sản công, tài nguyên đất nước. Như vậy, bản 10 chất của chính sách công là công cụ để Nhà nước thực hiện các hoạt động liên quan đến công dân và can thiệp vào mọi hành vi xã hội trong quá trình phát triển. 1.1.1.3. Khái niệm PBGDPL Phổ biến, giáo dục pháp luật là một từ ghép của “phổ biến pháp luật” và “giáo dục pháp luật”. Phổ biến pháp luật: “là làm cho đông đảo mọi người biết đến một vấn đề, một tri thức bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thông quan hình thức nào đó" hoặc “làm cho mọi người đều biết đến”. Như vậy, phổ biến pháp luật có đối tượng tác động rộng rãi, nhằm làm cho các đối tượng cụ thể hiểu thấu suốt các quy định của pháp luật để thực hiện pháp luật trên thực tế. Giáo dục pháp luật: Trong các tài liệu khoa học về pháp luật ở nước ta hiện nay, các tác giả đã khá thống nhất với khái niệm giáo dục pháp luật như sau: “là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện hành”. Như vậy, có thể hiểu PBGDPL theo nghĩa rộng: “là công tác, lĩnh vực hoạt động, bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho việc thực hiện PBGDPL (xây dựng chương trình, kế hoạch; triển khai chương trình, kế hoạch thông qua việc áp dụng các hình thức, biện pháp PBGDPL; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện chương trình, kế hoạch). Hiểu theo nghĩa hẹp là: “truyền đạt tinh thần, nội dung pháp luật giúp cho đối tượng tác động hiểu và hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm, hành vi phù hợp với các đòi hỏi của các quy định pháp luật hiện hành”[13]. 1.1.1.4. Khái niệm chính sách PBGDPL Từ những khái niệm trung gian trên, chính sách PBGDPL có thể được hiểu: “là chính sách công, tập hợp các quyết định có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với các giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề về PBGDPL theo các mục tiêu đã xác định”. Chính sách gồm nhiều bộ phận cấu 11 thành như: chính sách đào tạo, bồi dưỡng và đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL; chính sách nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất và phương tiện cho công tác PBDGPL; chính sách xã hội hóa công tác PBGDPL; chính sách PBGDPL cho một số đối tượng đặc thù và chính sách hỗ trợ đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia thực hiện PBGDPL. Lịch sử hình thành chính sách PBGDPL: Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dân là chủ và dân làm chủ. Cán bộ là đầy tớ của nhân dân, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, toàn thể cán bộ và nhân dân sống, học tập và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Ngay từ rất sớm, Người đã nhận thức rõ tầm quan trọng của pháp luật đối với quản lý nhà nước và xã hội, được Người khái quát một cách độc đáo, bình dị nhưng không kém phần thiêng liêng, tôn quý trong bài “Việt Nam yêu cầu ca”: “...Bảy xin hiến pháp ban hành, Trăm điều phải có thần linh pháp quyền...”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc công bố đạo luật chưa phải đã xong mà còn phải tuyên truyền, giáo dục lâu dài đến mọi người dân thì mới thực hiện tốt được”. Qua các thời kỳ, công tác PBGDPL luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm nhưng do nhiều nguyên nhân và bối cảnh lịch sử, văn bản QPPL về PBGDPL còn tản mác, chưa đồng bộ, chưa có tính hệ thống, hiệu lực pháp lý chưa cao, chủ yếu mới chỉ dừng ở các văn bản dùng để chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc thực hiện PBGDPL, chưa có hành lang pháp lý cụ thể, rõ ràng nên việc triển khai PBGDPL gặp nhiều khó khăn, nhất là thiếu cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm và cơ chế phối hợp, huy động nguồn lực có hiệu quả giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như các tổ chức chính trị - xã hội trong PBGDPL, chưa có cơ chế pháp lý để thực hiện xã hội hóa hiệu quả công tác này theo quan điểm, chủ trương của Đảng. Cùng với quá trình phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, thể chế chính sách và pháp luật về công tác này như Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg “về việc tăng cường công tác PBGDPL trong giai đoạn hiện 12 nay” và Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg, ngày 07 tháng 01 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ “về việc ban hành Kế hoạch triển khai công tác PBGDPL từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL”. Tiếp đó, ngày 17 tháng 01 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg, phê duyệt Chương trình PBGDPL từ năm 2003- 2007. Để tiếp tục đưa công tác PBGDPL lên một tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW, ngày 09 tháng 12 năm 2003 “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân” (Chỉ thị số 32-CT/TW). Chỉ thị thể hiện sự đổi mới về nhận thức của Đảng ta đối với công tác PBGDPL và yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp, các ngành phải “xác định rõ PBGDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và công tác PBGDPL cần được tăng cường thường xuyên, liên tục” [1]. Để triển khai thực hiện Chỉ thị này, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP, ngày 07 tháng 12 năm 2007 về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW; Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg, ngày 16 tháng 12 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động quốc gia PBGDPL và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010. Đến ngày 12 tháng 3 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg, phê duyệt Chương trình PBGDPL từ năm 2008 đến năm 2012, trong đó có 04 đề án về PBGDPL tạo nguồn lực quan trọng cho công tác này. Tiếp đó, ngày 26 tháng 11 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2160/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án tăng cường công tác PBGDPL nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011 – 2015. Sau khi Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI ban hành Kết luận số 04-KL/TW, ngày 19 tháng 4 năm 2011 (Kết luận 04-KL/TW) về kết quả thực hiện Chỉ thị số 32CT/TW, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 409/QĐ-TTg, ngày 09 tháng 4 năm 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan