ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM PHÖC THỊNH
THỪA PHÁT LẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM PHÖC THỊNH
THỪA PHÁT LẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số
: 60 38 30
luận văn thạc sĩ luật học
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Anh Tuấn
HÀ NỘI - 2014
2
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
Ph¹m Phóc ThÞnh
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
1
MỞ ĐẦU
Chương 1:
KHÁI QUÁT VỀ THỪA PHÁT LẠI TRONG THI HÀNH
5
ÁN DÂN SỰ
1.1.
Khái niệm Thừa phát lại
5
1.2.
Lược sử pháp luật về Thừa phát lại trong thi hành asn dân sự 8
ở Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
8
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1950
9
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1950 đến 1975
10
1.2.4. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2009
12
1.2.5. Giai đoạn từ năm 2009 đến nay
15
1.3.
16
Mô hình tổ chức Thừa phát lại ở một số nước trên thế giới
1.3.1. Mô hình tổ chức Thừa phát lại ở Pháp
16
1.3.2. Mô hình Thừa phát lại ở Úc
23
1.3.3. Mô hình Thừa phát lại ở Đức
24
1.4.
Cơ sở của việc thực hiện Thừa phát lại trong thi hành án dân 25
sự ở Việt Nam
1.4.1. Cơ sở lý luận cho việc thực hiện Thừa phát lại ở Việt Nam
26
1.4.2. Cơ sở thực tiễn cho việc thực hiện Thừa phát lại ở Việt Nam
29
1.4.3. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện Thừa phát lại ở Việt Nam
33
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỪA PHÁT LẠI TRONG 37
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
2.1.
Quy chế về Thừa phát lại và văn phòng Thừa phát lại
2.1.1. Về những điều kiện, tiêu chuẩn của Thừa phát lại
4
37
37
2.1.2. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Thừa phát lại
37
2.1.3. Về văn phòng Thừa phát lại
39
2.2.
Quy định về hoạt động của Thừa phát lại và văn phòng Thừa 40
phát lại
2.2.1. Tống đạt văn bản theo yêu cầu của Tòa án hoặc cơ quan thi 40
hành án dân sự
2.2.2. Về lập vi bằng
45
2.2.3. Về xác minh điều kiện thi hành án dân sự
50
2.2.4. Về tổ chức thi hành các bản án, quyết định theo yêu cầu của 54
đương sự
Chương 3:
THỪA PHÁT LẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở
60
VIỆT NAM, THỰC TIỄN THÍ ĐIỂM, NHỮNG BẤT CẬP
VÀ KIẾN NGHỊ
3.1.
Tình hình thực hiện thí điểm Thừa phát lại
60
3.1.1. "Luâ ̣t hóa " chủ trương của Đảng, nghị quyết của Quốc hội về 60
Thừa phát la ̣i
3.1.2. Tuyên truyền về Thừa phát lại
63
3.1.3. Quản lý, kiểm tra, giám sát, kiểm sát hoạt động Thừa phát lại
66
3.1.4. Kết quả cụ thể đạt được trong quá trình thực hiện thí điểm chế 68
định Thừa phát lại
3.2.
Những khó khăn, bất cập từ thực tiễn thực hiện thí điểm Thừa 73
phát lại
3.2.1. Khó khăn trong việc triển khai thực hiện chủ trương về Thừa 73
phát lại
3.2.2. Bất cập trong thực hiện quy định của pháp luật về Thừa phát lại
75
3.3.
81
Một số kiến nghị về Thừa phát lại ở Việt Nam
3.3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại
81
3.3.2. Kiến nghị tổ chức thực hiện pháp luật về Thừa phát lại
89
KẾT LUẬN
92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
93
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thi hành án dân sự có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động
tư pháp nói chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Tại Điều 136
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung ngày 25 tháng 12 năm 2001) quy định:
"Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải
được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ
trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan
phải nghiêm chỉnh chấp hành". Bản án, quyết định của tòa án chỉ thực sự có
giá trị khi được thi hành trên thực tế và hoạt động thi hành án là công đoạn
cuối cùng đảm bảo cho bản án, quyết định của tòa án được thực thi, bảo đảm
tính nghiêm minh của pháp luật; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân và nhà nước; góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thi hành án và yêu cầu
cải cách tư pháp, hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm đáp ứng cho công
cuộc hội nhập quốc tế và khu vực. Đảng và Nhà nước ta chủ trương phải cải
cách và đổi mới một cách mạnh mẽ công tác thi hành án dân sự ở Việt Nam. Đặc
biệt là việc từng bước tiến hành xã hội hóa các hoạt động thi hành án dân sự.
Trên tinh thần của Nghị quyết số 48/2005/NQ-TƯ ngày 24/5/2005 của
Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 48);
Nghị quyết số 49/2005/NQ-TƯ ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 49), ngày
19/2/2009 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số
224/QĐ-TTg "Phê duyệt đề án thực hiện thí điểm chế định thừa phát lại tại
Thành phố Hồ Chí Minh". Cùng với đó là Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày
6
24/7/2009 của Chính phủ "Về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại thực
hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh" (sau đây gọi tắt là Nghị định
61/2009/NĐ-CP).
Hoạt động thừa phát lại sau ba năm thực hiện thí điểm tại Thành phố
Hồ Chí Minh nhìn chung là nghiêm túc, có hiệu quả, phù hợp với nhu cầu của
xã hội và được đánh giá là thành công. Thông qua hoạt động thừa phát lại,
người dân có thể chủ động hơn trong các hoạt động dân sự, tố tụng dân sự,
hành chính, giúp người dân có sự lựa chọn trong hoạt động thi hành án, hạn
chế tiêu cực và tính độc quyền của hoạt động này. Dưới góc độ xã hội, hoạt
động thừa phát lại đã hỗ trợ tích cực hoạt động tư pháp: giảm bớt áp lực, tình
trạng quá tải, tiêu cực, đồng thời làm tăng tính minh bạch, khách quan.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện thí điểm chế định thừa phát lại ở nước
ta đã bộc lộ ra nhiều hạn chế. Dù đã tồn tại nhiều năm ở nước ta dưới chế độ
cũ nhưng hiện tại phần lớn người dân vẫn chưa biết, chưa biết rõ về mô hình
dịch vụ trong lĩnh vực hành chính tư pháp này. Ngoài ra, cơ chế hiện hành nói
chung và các quy định pháp luật về Thừa phát lại nói riêng còn nhiều bất cập;
sự phối hợp giữa các tổ chức hành nghề thừa phát lại và các cơ quan hữu quan
còn thiếu sự chặt chẽ.
Trên cơ sở thực tiễn đó, tôi chọn chủ đề "Thừa phát lại trong thi
hành án dân sự" làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên tinh thần của Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, chế định thừa phát lại đã được tổ chức thí điểm
tại Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2009. Trước và sau khi tổ chức thực
hiện thí điểm, chế định Thừa phát lại đã được triển khai nghiên cứu, tiêu biểu
là một số đề tài như:
- Nguyễn Đức Chính (1998), Đề tài nghiên cứu cấp bộ: Cơ sở lý luận
và thực tiễn về định chế thừa phát lại;
7
- Nguyễn Đức Chính (2006), Tổ chức thừa phát lại, Nxb Tư pháp;
- Nguyễn Văn Nghĩa, (2006), Chế định thừa phát lại: Lịch sử ra đời
và đổi mới theo tinh thần cải cách tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật - Bộ
Tư pháp;
- Lê Xuân Hồng, (2011), Từ nhu cầu xã hội đến chủ trương và kết
quả bước đầu của việc thực hiện thí điểm thừa phát lại, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật - Bộ Tư pháp;
- TS. Nguyễn Công Bình, (2012), Xu hướng xã hội hóa thi hành án
dân sự từ việc thí điểm hoạt động thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật - Bộ Tư pháp;
- ThS. Vũ Hoài Nam, (2013), Tổ chức và hoạt động của thừa phát lại
ở Việt Nam hiện nay, Nxb Tư pháp.
Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu khác được công bố trên
sách, báo, tạp chí như: Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, Tạp chí Luật học, Bản tin Thi hành án dân sự,...
Những công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu những khía cạnh,
phạm vi cụ thể khác nhau hoặc đã đề cập đến vấn đề mang tính tổng thể về
thừa phát lại. Nhưng cho đến nay, chưa có một công trình chuyên khảo nào đề
cập và nghiên cứu một cách chuyên sâu, có hệ thống về thừa phát lại trong thi
hành án dân sự ở Việt Nam cả về lý luận, pháp luật và thực tiễn thực hiện. Vì
vậy, luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu tương đối có hệ thống, toàn
diện về thừa phát lại trong thi hành án dân sự ở Việt Nam. Những công trình
nghiên cứu nêu trên là tài liệu tham khảo có giá trị để học viên nghiên cứu và
hoàn thành luận văn của mình.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về thừa phát lại; nghiên cứu,
phân tích các quy định của pháp luật về cơ cấu, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ
chức thừa phát lại trong giai đoạn thí điểm ở Việt Nam và các nước trên thế
8
giới cũng như làm rõ vai trò của thừa phát lại đối với hoạt động thi hành án
dân sự ở Việt Nam; phát hiện ra những bất cập trong việc thực hiện hoạt động
thừa phát lại ở nước ta để trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, hệ thống, diễn
giải, quy nạp, điều tra xã hội v.v… để thực hiện những nội dung đã đặt ra.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận về thừa phát lại; pháp luật về
thừa phát lại ở Việt Nam; những khó khăn, bất cập và kết quả đạt được trong
thực tiễn quá trình thí điểm thừa phát lại ở Việt Nam (từ 2009 đến nay) để qua
đó làm nổi bật vai trò của thừa phát lại trong thi hành án dân sự. Luận văn có
mở rộng nghiên cứu so sánh những quy định pháp luật của nước ta về thừa
phát lại với các quy định về thừa phát lại của các quốc gia trên thế giới, cùng
với thực tế việc thực hiện thí điểm thừa phát lại từ khi thực hiện thí điểm để
đưa ra những phân tích, đánh giá và kiến nghị.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về Thừa phát lại trong thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về Thừa phát lại trong thi hành án
dân sự ở Việt Nam.
Chương 3: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự ở Việt Nam, thực
tiễn thí điểm, những bất cập và kiến nghị.
9
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ THỪA PHÁT LẠI
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM THỪA PHÁT LẠI
Trên thế giới, Thừa phát lại hình thành, phát triển từ rất sớm và Pháp
là nơi bắt nguồn của Thừa phát lại trên toàn thế giới. Tại Pháp, từ thời La Mã
cổ đại, Thừa phát lại đã có quy chế là nghề tự do; trong thời kỳ quân chủ hay
thậm chí đến thời kỳ cách mạng năm 1792 và cả thời đế chế thứ nhất, nghề
Thừa phát lại luôn được hưởng một quy chế nhất định vì các văn bản do các
Thừa phát lại lập ra bị đánh thuế rất cao và là nguồn thu ngân sách đáng kể
cho Nhà nước.
Ban đầu, thời La Mã cổ đại, Thừa phát lại là những người được gọi là
"officiales" được các Quan tòa ở Pháp sử dụng để thực hiện hai chức năng là
gìn giữ trật tự tại phiên tòa và kê biên tài sản của những con nợ chây ỳ hoặc
đưa những người đó vào tù. Đến thời Trung cổ, những người thực hiện các
chức năng ở trên được chia thành "Sergent" - là những người chủ yếu làm
nhiệm vụ tống đạt văn bản, thi hành án và "Huissier" - dịch sang tiếng Việt là
Thừa phát lại, là những người có nhiệm vụ bảo vệ trật tự tại phiên tòa. Đến
năm 1705, hai chức năng "Sergent" và "Huissier" được tập trung lại và giao
cho một người duy nhất thực hiện là Thừa phát lại. Chế định Thừa phát lại
được ra đời từ thời điểm đó, được duy trì, phát triển và nhân rộng sau này.
Các Thừa phát lại Pháp thông qua Liên minh Quốc tế các Thừa phát
lại, Nhân viên tư pháp, Hội đồng Thừa phát lại Quốc gia và Trường Tố tụng
quốc gia cùng các đồng nghiệp châu Âu đã góp phần quảng bá, phổ biến pháp
luật Pháp, pháp luật châu Âu và đặc biệt là các vấn đề có liên quan đến Thừa
phát lại đến các quốc gia khác trên Thế giới. Ở Pháp, Điều 1 Pháp lệnh số
452592 ngày 02/11/1945 quy định thẩm quyền theo nội dung của Thừa phát
lại và tổ chức nghề Thừa phát lại quy định:
10
Thừa phát lại là người sở hữu một tước vị, có độc quyền
trong việc tống đạt văn bản và văn bản tố tụng, tiến hành các thủ
tục thông báo được pháp luật quy định trong trường hợp không quy
định rõ phương thức thông báo, và thi hành các bản án, quyết định
của tòa án và các văn bản có hiệu lực thi hành khác…[28].
Cùng với sự phát triển của Thừa phát lại ở Pháp, các nước châu Âu
như Anh, xứ Galles, Bỉ, Hà Lan, Ê-cốt, Hy Lạp, Luých-xăm-bua, các Thừa
phát lại luôn có quy chế nghề độc lập. Sau khi liên bang Xô-viết tan rã, nhiều
nước Trung Âu chuyển mình phát triển theo mô hình tự do, các quốc gia như
Hungary, Cộng hòa Séc, Ba Lan, Slovakia, Slovennia, Lét-tô-ni, Lít-tua-ni,
Etsx-tô-ni đã thừa nhận Thừa phát lại là nghề tự do, độc lập với quyền lực
Nhà nước. Thừa phát lại có thể sử dụng phương pháp tống đạt cùng với
phương pháp thông báo bằng đường bưu điện nhưng về nguyên tắc phải thực
hiện phương thức tống đạt trong đại đa số các trường hợp để thông báo cho
đương sự và thi hành bản án, quyết định của Tòa. Các nước như Ba Lan,
Hungary, Lít-tua-ni, Etsx-tô-ni quy định thẩm quyền lập vi bằng của Thừa
phát lại và cho phép sử dụng văn bản vi bằng của Thừa phát lại như một loại
chứng cứ. Còn ở một số quốc gia khác như Áo, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,
Đan Mạch,... chấp hành viên là công chức nhưng dường như cũng hoạt động
theo phương thức nghề tự do, cụ thể như sau:
(i) Chấp hành viên độc lập với Tòa án;
(ii) Chấp hành viên chịu trách nhiệm về tài chính, nghề nghiệp và kỷ luật;
(iii) Nhà nước không trả lương dưới bất cứ hình thức nào cho những
người hành nghề độc lập này.
Còn ở một số nước châu Phi, Thừa phát lại cũng có quy chế nghề tự
do và độc lập, có cơ cấu tổ chức giống như ở Pháp và các nước châu Âu khác.
Ở Việt Nam, Thừa phát lại là khái niệm xuất hiện từ thời Pháp thuộc,
Thừa phát lại không phải là viên chức, không hưởng lương từ Ngân khố Quốc
11
gia, hoạt động không theo chế độ công vụ. Do được quy định ở các văn bản
pháp luật khác nhau nên trước đây Thừa phát lại ở nước ta được gọi theo
những tên gọi khác nhau theo từng miền như Chưởng tòa (Miền Bắc), Mõ tòa
(Miền Trung) và Thừa phát lại (Miền Nam).
Thừa phát lại là một từ Hán - Việt: Thừa có nghĩa là thừa ủy quyền,
thừa lệnh (nguyên nghĩa là chuyển tải); phát nghĩa là phát ra, đưa đến; lại là
một viên chức thực hiện lệnh của quan. Còn theo quy định của pháp luật hiện
hành mà cụ thể là Nghị định 61/2009/NĐ-CP, "Thừa phát lại là người được
Nhà nước bổ nhiệm để làm các công việc về thi hành án dân sự, tống đạt giấy
tờ, lập vi bằng và các công việc khác theo quy định của Nghị định và pháp
luật có liên quan" [16]. Thừa phát lại được tham gia những công việc mang
tính chất hỗ trợ Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự tống đạt các văn bản giấy
tờ và các hoạt động thi hành án.
Qua trên có thể thấy, so với Thừa phát lại ở các nước trên thế giới,
Thừa phát lại ở Việt Nam có phạm vi hoạt động bó hẹp hơn. Công việc của
Thừa phát lại ở các nước trên thế giới là công việc độc quyền, chỉ Thừa phát
lại mới được làm. Ngoài ra, Thừa phát lại ở các nước còn được tiến hành các
hoạt động tư pháp khác như đấu giá tài sản, đại diện khách hàng, hòa giải...
Nhìn chung, do quy định về Thừa phát lại ở mỗi quốc gia khác nhau
mà phạm vi hoạt động của Thừa phát lại cũng khác nhau nhưng tựu chung
Thừa phát lại có những đặc điểm cơ bản sau:
- Thừa phát lại là người đạt đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp
luật, được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để thực hiện một số công việc
theo quy định của pháp luật;
- Thừa phát lại là người hành nghề tự do, không phải là công chức,
không hưởng lương từ ngân sách nhà nước, hoạt động không theo chế độ
công vụ nhưng khi thực hiện một số công việc nhất định lại có quyền như
những cán bộ, công chức;
12
- Thừa phát lại thực hiện các công việc chủ yếu như: Tống đạt văn
bản, giấy tờ và thi hành án;
- Thừa phát lại hoạt động tuân theo những nguyên tắc về quy chế hoạt
động, đạo đức nghề nghiệp mà pháp luật quy định, chịu sự kiểm tra, giám sát
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, từ những kết quả nghiên cứu trên có thể rút ra khái niệm về
Thừa phát lại như sau: Thừa phát lại là người đáp ứng đủ các tiêu chuẩn theo
quy định của pháp luật, được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để thực hiện
công việc tống đạt các văn bản, giấy tờ của Tòa án, Cơ quan thi hành án; lập
vi bằng; trực tiếp thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của
Tòa án và các công việ c khác theo quy đ ị nh củ a pháp luậ t.
Thừ a phát lạ i hành nghề tự do và chịu sự giám sát của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
1.2. LƢỢC SỬ PHÁP LUẬT VỀ THỪA PHÁT LẠI TRONG THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
1.2.1. Giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945
Ngày 05 /6/1862, đại diện triều đình nhà Nguyễn (thời vua Tự Đức) là
Chánh sứ Phan Thanh Giản và Phó sứ Lâm Duy Hiệp đã ký kết với đại diện
của Pháp là thiếu tướng Bonard và đại diện của Tây Ban Nha là đại tá Don
Carlos Palanca Gutiere Hiệp ước Nhâm Tuất. Sau Hiệp ước Nhâm Tuất, "Nam
Kỳ Lục tỉnh" của nước ta nằm dưới sự cai trị của người Pháp, họ đã tiến hành
phân chia lại địa giới hành chính, thiết lập chính quyền cai trị, hệ thống Tòa
án và cùng với đó là việc áp dụng hệ thống hệ thống luật của Pháp vào sáu
tỉnh Nam Kỳ nước ta. Thừa phát lại cũng từ đó mà du nhập vào Việt Nam.
Ban đầu, Thừa phát lại chỉ xuất hiện ở Nam Kỳ còn ở Bắc Kỳ và Trung
Kỳ chưa có chế định Thừa phát lại, những công việc của Thừa phát lại như
trát đòi hầu tòa, truyền phiếu,... vẫn do các môn lại, môn vệ - tức là các sứ giả
của nhà vua thực hiện. Sau đó, triều đình nhà Nguyễn tiếp tục ký kết các Hòa
ước, Hiệp ước song phương với Pháp, pháp luật của Pháp nói chung và chế
13
định Thừa phát lại nói riêng được áp dụng rộng rãi trên lãnh thổ Việt Nam.
Cụ thể, thuật ngữ Thừa phát lại đã chính thức được ghi nhận trong các
văn bản:
(i) "Bộ Dân sự tố tụng Nam Việt" ban hành kèm Nghị định ngày
16/3/1910 ở Nam Kỳ;
(ii) "Bộ dân luật Trung năm 1936 - 1939" ban hành kèm Bộ Hộ sự,
Thương sự tố tụng Trung Việt năm 1942 ở Trung Kỳ;
(iii) "Bộ luật Bắc năm 1931" kèm theo Bộ Dân sự tố tụng Bắc năm
1917 ở Bắc Kỳ [13, tr. 9-10].
Thừa phát lại trong thời kỳ này là công lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp
bổ nhiệm và quản lý, hành nghề trên cơ sở quy định của pháp luật, được
hưởng thù lao do khách hàng trả dựa trên biểu giá theo pháp luật quy định.
Công việc của Thừa phát lại theo quy định là thực hiện nhiệm vụ hoạt động
Thi hành án dân sự. Tại phiên tòa, Thừa phát lại là nhiệm vụ thông báo tòa
khai mạc, gọi các đương sự, nhân chứng, thi hành lệnh giữ trật tự, thông báo
bế mạc phiên tòa; ngoài ra, Thừa phát lại còn thực hiện nhiệm vụ tống đạt
giấy tờ theo yêu cầu của Tòa án, triệu tập đương sự, lập các văn bằng theo
quy định của pháp luật, thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật,... Nhìn
chung, Thừa phát lại ở nước ta trong thời kỳ này chủ yếu dựa trên khuôn mẫu
được ghi nhận trong Bộ Dân luật Pháp năm 1804 và Bộ Dân sự Tố tụng Pháp
năm 1807.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1950
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ngày từ những năm đầu
thành lập nước, khi chính quyền cách mạng đang còn trong thời kỳ "trứng
nước", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm xóa
bỏ nền tư pháp của chế độ thực dân phong kiến và xây dựng nên tư pháp nước
nhà. Tuy vậy, xây dựng một hệ thống pháp luật không phải là việc có thể thực
14
hiện ngay lập tức.
Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành sắc lệnh
90/SL về việc tạm thời giữ các quy định pháp luật của chế độ cũ đã được áp
dụng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 nếu những quy định đó không
trái với các nguyên tắc của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng Hòa. Theo đó,
chế định Thừa phát lại được tiếp tục duy trì. Đây là một sự lựa chọn đúng đắn
và chính xác của Đảng, thể hiện đúng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là:
"Không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng là mới. Cái gì cũ
mà xấu thì phải bỏ... Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa
đổi lại cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm..." [27]. Cũng theo
tinh thần của Sắc lệnh 90/SL, tổ chức Thừa phát lại vẫn thực hiện các nhiệm
vụ thi hành án dân sự. Tuy vậy, tổ chức thi hành án dân sự đầu tiên của Việt
Nam dân chủ cộng hòa không còn mang ý nghĩa là công cụ của chính quyền
thực dân phong kiến như từng có mà trở thành công cụ đắc lực trong việc thi
hành các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án nhân dân.
Ngày 24/01/1946, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành
Sắc lệnh số 13 về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán, tại khoản 3
Điều 3 của Sắc lệnh này quy định: Ban Tư pháp xã có quyền thi hành những
mệnh lệnh của các Thẩm phán cấp trên bao gồm các bản án, quyết định có
hiệu lực của Tòa án [13].
Như vậy, những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Thừa
phát lại vẫn được duy trì với tư cách là tổ chức được Nhà nước trao quyền thực
hiện nhiệm vụ thi hành án dân sự cùng Ban tư pháp xã. Việc thi hành án dân sự
thể hiện quyền lực nhà nước và được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế, Nhà
nước không chỉ tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong giao lưu
dân sự, thương sự và tố tụng mà còn đảm bảo quyền tự định đoạt của các
đương sự trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1950 đến 1975
15
Đây là khoảng thời gian mà đất nước ta hai miền chia cắt, chia cắt về
lãnh thổ và cả hệ thống chính trị, luật pháp.
Ở miền Bắc, ngày 22/5/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số
85/SL về "cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng". Theo Sắc lệnh này, việc
thi hành án dân sự sẽ không do Thừa phát lại và Ban tư pháp xã thực hiện như
trước đây nữa mà do Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện thực hiện dưới
sự chỉ đạo của Chánh án. Quy định này làm thay đổi cơ bản cơ chế, tổ chức
hoạt động thi hành án dân sự; hoạt động thi hành án dân sự chuyển từ việc căn
cứ vào yêu cầu của đương sự thành trách nhiệm của Nhà nước, những người
thực hiện nhiệm vụ thi hành án dân sự trở thành công chức Tòa án.
Đến năm 1960, khi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ra đời đã quy định
cụ thể vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của những người thực hiện
nhiệm vụ thi hành án dân sự. Luật này quy định rõ: "Tại các Tòa án nhân dân
địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án,
quyết định dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các bản án,
quyết định hình sự" [31].
Như vậy, có thể thấy rằng, ở miền Bắc nước ta trong giai đoạn này
mọi bản án, quyết định của Tòa án là nhân danh Nhà nước, có giá trị bắt buộc
và được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế Nhà nước; những người
được Nhà nước trao quyền thực hiện công việc Thi hành án dân sự chủ động
thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, các đương sự không có quyền tự
định đoạt trong yêu việc yêu cầu Thi hành án dân sự. Từ năm 1950, tổ chức
và hoạt động Thừa phát lại không còn được duy trì ở miền Bắc nước ta.
Riêng ở miền Nam, sau khi Hiệp định Élysée ngày 08/3/1949 giữa
chính quyền Pháp và chính quyền Bảo Đại được ký kết, Tổng trưởng Bộ Tư
pháp đã ban hành Nghị định số 111/BTP-NĐ ngày 04/2/1950 quy định chi tiết
về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thừa phát lại. Cụ thể, nhiệm
vụ của Thừa phát lại gồm 4 công việc tổng quát sau:
16
(i) Làm các truyền phiếu (giấy mời, giấy triệu tập);
(ii) Làm các việc lục tống về tư pháp hay không thuộc tư pháp;
(iii) Thi hành các bản án, công văn;
(iv) Công việc nội bộ trong các Tòa án.
Sở dĩ, Nghị định 111/BTP-NĐ ngày 04/2/1950 chỉ ấn định nhiệm vụ
của Thừa phát lại một cách tổng quát vì nhiệm vụ này đã được quy định tại
Bộ luật Tố tụng dDân sự 1910 và sau đó là Bộ luật Dân sự và Thương sự Tố
tụng, Bộ luật hình sự tố tụng do chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ban hành
năm 1972.
Thời kỳ này, ở miền Nam, mỗi văn phòng Thừa phát lại có một Thừa
phát lại và một Thư ký trưởng hữu thệ - là những người được thay thế Thừa
phát lại thực thụ để thực hiện các hành vi tố tụng theo luật định. Số lượng
Thừa phát lại là 36 người, trong đó có 18 Thừa phát lại thực thụ và 18 Thư ký
trưởng. Ở các tỉnh không có Văn phòng Thừa phát lại, công việc của Thừa
phát lại được giao cho các Cảnh sát trưởng hoặc Phó cảnh sát trưởng (Trưởng
ty cảnh sát) hoặc các Quận trưởng tạm thời kiêm nhiệm do Nghị định của
Tổng trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm và các viên chức này được thu lệ phí như
Thừa phát lại [29, tr. 18-20].
1.2.4. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2009
Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 1981 ra đời
tạo cơ sở pháp lý cho việc Bộ Tư pháp (mới được thành lập sau hơn 20 năm
giải thể) đảm nhiệm công tác quản lý Tòa án nhân dân về mặt tổ chức, trong
có có việc quản lý về mặt tổ chức đối với nhân sự làm công tác thi hành án
dân sự. Tại Nghị định 143-HĐBT ngày 22/11/1981, Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Chính phủ) giao cho Bộ Tư pháp có nhiệm vụ "trình Hội đồng Bộ trưởng
ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy chế chấp hành án". Để thực
hiện nhiệm vụ này, ngày 18/7/1982, Bộ Tư pháp phối hợp với Tòa án nhân
dân tối cao ban hành Thông tư liên ngành số 472/TTLN về quản lý công tác
17
thi hành án, theo đó tại các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương có Phòng thi hành án nằm trong cơ cấu bộ máy và biên chế của Tòa án,
giúp Chánh án chỉ đạo công tác thi hành án; ở các Tòa án nhân dân quận,
huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh có Chấp hành viên hoặc cán bộ làm
công tác thi hành án dưới sự chỉ đạo của Chánh án. Các cơ quan Tư pháp và
Tòa án từ trung ương đến địa phương, nhất là giữa cơ quan Tư pháp và Tòa
án địa phương nơi thực hiện việc Thi hành án phải thường xuyên phối hợp
chặt chẽ với nhau trong công tác thi hành án. Chánh án Tòa án nhân dân cấp
huyện báo cáo kết quả công tác thi hành án với Sở Tư pháp và Tòa án nhân
dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh báo cáo công tác thi hành án
của địa phương với Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 28/8/1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự đầu tiên ở nước ta
được ban hành đặt cơ sở pháp lý cho việc tăng cường và hoàn thiện tổ chức,
hoạt động thi hành án dân sự. Từ đó, chỉ có Chấp hành viên là người được
Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án. Tại Nghị định 68/HĐBT ngày 06/3/1990 của Hội đồng Bộ
trưởng thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định số lượng biên chế Chấp hành
viên, cán bộ Thi hành án cho từng Tòa án địa phương và bổ nhiệm, miễn
nhiệm Chấp hành viên làm nhiệm vụ thi hành án.
Sau một thời gian thực hiện, công tác thi hành án dân sự có những
bước phát triển nhất định kể cả về mặt tổ chức và hoạt động, tuy nhiên do Tòa
án vừa là cơ quan xét xử, vừa là cơ quan đảm bảo thi hành án nên chưa thực
sự đảm bảo tính khách quan, công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự.
Với chủ trương đổi mới toàn diện, cải cách bộ máy Nhà nước nói chung và
cải cách tư pháp nói riêng, Hiến pháp 1992 và một số đạo luật như Luật Tổ
chức Chính phủ năm 1992, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 1992 đã đặt ra
những nguyên tắc mang tính nền tảng cho quá trình cải cách tư pháp trong đó
có cải cách về thi hành án dân sự. Tại kỳ họp thứ I ngày 06/12/1992, Quốc hội
18
khóa IX thông qua Nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án từ Tòa án
nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ. Ngày 02/6/1993, Thủ
tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 226/Ttg về triển khai việc bàn giao và tăng
cường công tác thi hành án dân sự. Trên thực tế, đến hết tháng 6/1993 thì việc
thành lập các cơ quan thi hành án và bàn giao công tác thi hành án dân sự từ
Tòa án nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ đã thực hiện
xong. Hệ thống cơ quan Thi hành án từ trung ương đến địa phương do Bộ Tư
pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý và chỉ đạo thi hành trong phạm vi
toàn quốc. Ở địa phương, các Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện việc quản lý nhà nước về hoạt động thi hành
án dân sự. Về mặt thể chế, nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành thi hành án
dân sự đã được ban hành với nhiều quy định chặt chẽ, rõ ràng và phù hợp hơn
với thực tiễn thi hành án, trong đó phải kể đến Pháp lệnh thi hành án dân sự
ngày 21/4/1993, đây là nền tảng cơ bản, là cơ sở pháp lý quan trọng để giải
quyết việc thi hành án dân sự. Pháp lệnh này sau đó được sửa đổi, bổ sung
năm 2004.
Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993 ra đời đã cụ thể hóa cơ cấu tổ chức
của cơ quan thi hành án, cơ quan quản lý thi hành án và nhiệm vụ, quyền hạn
của Chấp hành viên. Theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993,
chỉ các Chấp hành viên mới là chủ thế có thẩm quyền thi hành án và thực hiện
các công việc liên quan đến thi hành án trong khi số lượng vụ việc lớn, nhân
lực thực hiện việc thi hành án còn thiếu, kinh phí thực hiện thi hành án còn eo
hẹp,... dẫn đến tình trạng tồn đọng số lượng rất lớn án chưa thi hành được.
Nhận thức được những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động cũng như tầm
quan trọng của công tác thi hành án dân sự, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã
ra Nghị quyết số 49/NQ-TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
trong đó xác định:
Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ
19
phía Nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập
chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình...
từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức,
thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực
hiện một số công việc thi hành án dân sự...
Nghiên cứu chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên); trước
mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên
cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo [23].
Theo chủ trương đó, tại kì họp thứ IV, khóa XII, Quốc hội đã thông
qua Luật Thi hành án dân sự gồm 9 Chương 183 Điều, có hiệu lực thi hành từ
01/7/2009. Trong nội dung của Luật Thi hành án dân sự 2008, vấn đề xã hội
hóa thi hành án mà cụ thể là tổ chức Thừa phát lại vẫn chưa được quy định cụ
thể. Tuy nhiên, trong nội dung Nghị quyết số 24/2008/QH 12 ngày 14/11/2008
đã quy định rõ:
Để triển khai chủ trương xã hội hóa một số công việc có liên
quan đến thi hành án dân sự, giao Chính phủ quy định và tổ chức
thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (thừa hành viên) tại một
số địa phương.Việc thí điểm được thực hiện từ ngày Luật Thi hành
án dân sự 2008 có hiệu lực thi hành (01/7/2008) đến ngày 01/7/2012.
Chính phủ tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm và báo cáo
Quốc hội xem xét quyết định [34].
Như vậy, trong giai đoạn này, Thừa phát lại không tham gia vào bất
cứ hoạt động thi hành án dân sự nào. Tuy nhiên, tính ưu việt của mô hình
Thừa phát lại luôn được các nhà làm luật nhìn nhận một cách đúng đắn, khách
quan và quá trình xây dựng các văn bản pháp luật liên quan đến công tác thi
hành án đã có hướng tạo cơ sở cụ thể cho việc "khôi phục" mô hình Thừa
phát lại trong công tác thi hành án dân sự [29, tr. 23-24].
1.2.5. Giai đoạn từ năm 2009 đến nay
20
- Xem thêm -