Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thủ tục thi hành án dân sự trong pháp luật thi hành án dân sự việt nam hiện nay...

Tài liệu Thủ tục thi hành án dân sự trong pháp luật thi hành án dân sự việt nam hiện nay

.PDF
110
843
113

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ---------- BÙI THỊ VÂN ANH THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRONG PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Hà Nội - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ---------- BÙI THỊ VÂN ANH THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRONG PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Thị Huyền Hà Nội- 2016 ii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Bùi Thị Vân Anh iii MỤC LỤC Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt PHẦN MỞ ĐẦU PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ................................................................................................................. 1 1.1.Khái niệm và đặc điểm của thủ tục thi hành án dân sự ................................ 1 1.2.Cơ sở khoa học của việc xây dựng thủ tục thi hành án dân sự ..................... 6 1.3. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật THADS về thủ tục thi hành án ở Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. ..................... 7 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của thủ tục thi hành án dân sự .........18 1.5. Khái quát về thủ tục thi hành án theo pháp luật một số nước trên Thế giới và kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam. ..........................................................23 CHƢƠNG 2 - THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH .....................................................................33 2.1. Thủ tục thi hành án dân sự theo đơn yêu cầu ............................................33 2.2. Thủ tục thi hành án dân sự chủ động ........................................................42 2.3. Thủ tục xác minh thi hành án dân sự ........................................................46 2.4. Ủy thác thi hành án dân sự.........................................................................52 2.5. Một số quyết định phát sinh trong quá trình THADS ..............................55 2.5.1. Thủ tục ra quyết định hoãn thi hành án dân sự .......................................... 55 2.5.2. Thủ tục ra quyết định tạm đình chỉ THADS............................................. 60 iv 2.5.3. Thủ tục ra quyết định đình chỉ THADS ..................................................... 62 CHƢƠNG 3 - THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM ....................................................................................................................68 3.1. Thực tiễn áp dụng thủ tục thi hành án dân sự ............................................68 3.1.1. Những kết quả đạt được từ khi thực hiện pháp luật về thủ tục THADS theo Luật THADS năm 2008 đến trước ngày 1/7/2015 ...................................... 68 3.1.2. Những hạn chế, bất cập về thủ tục THADS còn tồn tại ......................... 72 3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong công tác THADS ...... 82 3.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về thủ tục THADS ở Việt Nam. ...85 3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay ....................................................................................................87 3.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục thi hành án trên thực tiễn hiện nay ..............................................................................................89 KẾT LUẬN .........................................................................................................94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................96 v DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT BLTTDS 2004 Bộ luật Tố Tụng dân sự năm 2004 Luật THADS 2008 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 Luật sửa đổi, bổ sung Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự 2008 PLTHADS 2004 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 PLTHADS 1993 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 PLTHADS 1989 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 THA Thi hành án THADS Thi hành án dân sự CQTHADS Cơ quan thi hành án dân sự CHV Chấp hành viên UBND Ủy ban Nhân dân VKSND Viện kiểm sát nhân dân TAND Tòa án nhân dân CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa BA, QĐ Bản án, Quyết định Bản án, quyết định dân sự của Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh (Gọi tắt là BA, QĐ có hiệu lực thi hành). vi PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Thi hành án là một trong những hoạt động thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, tính uy nghiêm của Nhà nước. Hoạt động thi hành án là hoạt động đưa các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế. Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngoài chức năng của cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án thì cơ quan THADS giữ một vai trò đặc biệt và là một mắt xích không thể thiếu của quá trình tố tụng. Mọi phán quyết của Tòa án chỉ là những quyết định trên giấy và không thể phát huy hết hiệu quả trên thực tế nếu không được thi hành đúng và đầy đủ, nhất là trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Trong điều kiện kinh tế phát triển như hiện nay, khi nước ta đang xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; vô số các quan hệ giao dịch được phát sinh dẫn đến các tranh chấp cũng nhiều hơn, số lượng công việc mà các cơ quan Tư pháp phải giải quyết vì thế cũng ngày càng tăng, và tính chất cũng phức tạp hơn. Đòi hỏi tất yếu đặt ra là các cơ quan Tư pháp nói chung và cơ quan THADS nói riêng phải hoạt động sao cho đạt hiệu quả cao nhất nhằm đảm bảo pháp luật được thực thi, xây dựng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Luật Thi hành án dân sự (THADS) được Quốc hội thông qua ngày 14/11/2008 và có hiệu lực thi hành ngày 1/7/2009 là cơ sở pháp lý quan trọng cho tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Qua 05 năm thi hành luật, công tác thi hành án dân sự đã từng bước đi vào nề nếp và có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, quá trình thi hành luật cũng cho thấy nhiều nội dung, quy định của luật không còn phù hợp với thực tiễn, tạo ra trở lực cho quá trình thi hành án và chưa thực sự đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, dự thảo luật THADS ban hành ngày 21/2/2014 đã được lấy ý kiến sâu rộng từ nhân dân, vii và được Quốc hội biểu quyết thông qua vào ngày 25/11/2014. Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự 2008 đã có hiệu lực thi hành từ 01/7/2015, có nhiều điểm mới về thủ tục THADS. Đổi mới hoạt động THA nói chung và nâng cao hiệu quả đối với THADS nói riêng là một nội dung quan trọng của công cuộc cải cách tư pháp được ghi nhận trong nhiều văn bản như: Nghị quyết Trung Ương 8 khóa VII, Nghị quyết Trung ương 3 Khóa VIII, báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng qua các kì họp, đặc biệt Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 của Bộ Chính trị ngày 24/5/2005, Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Chính vì lẽ đó mà tác giả lựa chọn đề tài “Thủ tục Thi hành án dân sự trong pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu. Bởi lẽ đây là vấn đề đang được thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân quan tâm - việc sửa đổi, bổ sung luật THADS 2008 nói chung, thủ tục THADS nói riêng không những nằm trong chiến lược cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020 mà còn nằm trong chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, cũng dựa trên kinh nghiệm thực tế làm việc tại cơ quan tiến hành tố tụng (Viện kiểm sát) của bản thân với công tác kiểm sát thi hành án dân sự, tác giả hiểu rằng, muốn tiến tới mục tiêu giảm án dân sự tồn đọng, nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự thì việc hoàn thiện pháp luật về thủ tục THADS là một yêu cầu khách quan và tất yếu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước khi Luật THADS ra đời, THADS cũng đã được quan tâm nghiên cứu trong các công trình như Luận văn thạc sỹ “Đổi mới thủ tục THADS ở Việt Nam” của tác giả Lê Anh Tuấn năm 2004; Luận văn thạc sỹ “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy năm 2001... Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật THADS của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004, Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bình luận Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, của Viện khoa học pháp lý - Bộ tư pháp năm 2006…và rất nhiều công trình nghiên cứu khác. viii Từ khi Luật THADS năm 2008 có hiệu lực pháp luật đến nay, việc nghiên cứu về THADS đã được quan tâm đáng kể hơn nữa. Năm 2011 có Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường về “Những điểm mới của Luật THADS năm 2008” của trường Đại học Luật Hà Nội do Tiến sỹ Bùi Thị Huyền chủ nhiệm. Ngoài ra trên sách báo pháp lý, các diễn đàn pháp luật từ 2009 đến nay cũng có rất nhiều bài nghiên cứu, trao đổi về THADS, trong đó có thủ tục THADS. Cũng có thể kể đến những nghiên cứu khác như cuốn sách tham khảo “Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật Thi hành án dân sự Việt Nam” – tác giả Tiến sỹ Lê Thu Hà – học viện Tư Pháp viết, xuất bản năm 2011, hay các bài viết trên tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề về thi hành án dân sự các tháng 2/2012, tháng 4/2012, tháng 12/2012, tháng 03/2014; số chuyên đề tháng 6/2012 về thi hành án dân sự tồn đọng; số chuyên đề tháng 12/2013 về thực hiện Luật THADS … và rất nhiều các bài viết khác trong các sách báo, tạp chí nghiên cứu về thủ tục THADS như Tạp chí Nghề Luật của Học viện Tư pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,… Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp, Bộ tư pháp đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự. Luật đã được Quốc hội thảo luận, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2014) và được biểu quyết thông qua vào kỳ họp thứ 8 ngày 25/11/2014, có hiệu lực thi hành từ 01/7/2015 vừa qua. Trên cơ sở các nghiên cứu trước đó, luận văn của tác giả nghiên cứu sâu hơn về một số thủ tục THADS, với việc đưa ra khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, quá trình hình thành và phát triển qua các thời kì của thủ tục THADS; tìm hiểu thủ tục THADS theo quy định một số nước trên Thế giới và đặc biệt là phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng thủ tục THADS từ khi Luật THADS 2008 ra đời cho đến nay, chỉ ra những bất cập, đề xuất những đóng góp cho quá trình sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự hiện nay. 3. Mục tiêu nghiên cứu Dựa trên kết quả nghiên cứu, mục tiêu của Luận văn là phân tích, đánh giá một số thủ tục THADS, nêu ra những hạn chế, bất cập và đề xuất quan điểm hoàn thiện pháp luật về thủ tục THADS: - Phân tích được những vấn đề lý luận và thực tiễn của thủ tục THADS ở Việt Nam. ix - Đánh giá đúng thực trạng, hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện thủ tục THADS ở Việt Nam hiện nay. - Đưa ra các quan điểm cá nhân đánh giá Luật sửa đổi, bổ sung Luật THADS năm 2014 cũng như đề xuất các giải pháp có tính khả thi cao nhằm bảo đảm việc thực thi pháp luật thi hành án, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài - Đánh giá đúng thực trạng, hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay. - Đưa ra các quan điểm cá nhân về việc sửa đổi, bổ sung pháp luật về thủ tục THADS, góp ý về một số vấn đề liên quan đến thủ tục thi hành án trong Luật sửa đổi, bổ sung Luật THADS năm 2008; cũng như đề xuất các giải pháp có tính khả thi cao nhằm bảo đảm việc thực thi pháp luật THADS, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5.1 . Đối tƣợng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu những vấn đề chung về thủ tục THADS, thực tiễn áp dụng thủ tục THADS tại các địa phương hiện nay và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật; đưa ra các kiến nghị, đóng góp để nâng cao hiệu quả công tác THADS. 5.2. Phạm vi: Thủ tục THADS bao gồm rất nhiều thủ tục khác nhau, cho nên phạm vi của đề tài rất rộng, với phạm vi của một luận văn thạc sỹ, tác giả không đi sâu vào tìm hiểu hết tất cả các thủ tục THADS mà chỉ đi sâu vào một số thủ tục cụ thể, nổi bật theo Luật THADS năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Đó là các thủ tục: Thủ tục ra quyết định thi hành án theo đơn (bao gồm cấp, chuyển giao bản án, thủ tục nhận, từ chối đơn yêu cầu, và ra quyết định THA) và thủ tục thi hành án chủ động của CQTHADS; Thủ tục xác minh THA; Thủ tục ủy thác x THA; Các quyết định phát sinh trong quá trình THADS: thủ tục ra quyết định hoãn; đình chỉ; tạm đình chỉ. Luận văn không nghiên cứu về thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế bảo đảm THADS. 6. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu 6.1. Nội dung nghiên cứu Nội dung nghiên cứu của luận văn bám sát việc phân tích các thủ tục thi hành án dân sự theo Luật THADS năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014, và những hạn chế, vướng mắc trong công tác THADS để từ đó đề xuất các phương hướng, quan điểm cá nhân trong việc hoàn thiện pháp luật THADS. 6.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mac – Lê nin, quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, quy nạp và một số phương pháp luận khác để lựa chọn những vấn đề cần thiết đưa vào nội dung nghiên cứu. 7. Kết cấu của luận văn Chương 1 – Những vấn đề chung về thủ tục thi hành án dân sự Chương 2 – Thủ tục thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành Chương 3 – Thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam xi CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm và đặc điểm của thủ tục thi hành án dân sự Trước khi tìm hiểu khái niệm thủ tục thi hành án cần làm rõ các khái niệm sau: “Thủ tục” – xét về mặt ngôn ngữ có nghĩa “những việc cụ thể phải làm theo một trình tự đã được quy định, để tiến hành một công việc có tính chất chính thức” [14, tr.905]. Trình tự là “sự sắp xếp thứ tự trước sau” [14, tr.934]. Qua đó, có thể hiểu khái niệm thủ tục là phải thực hiện một công việc nhất định theo những quy định cụ thể được sắp xếp theo trình tự nhất định. Còn “thi hành” là: "Thực hiện điều đã chính thức quyết định" [15, tr. 1559]. Trong khoa học pháp lý, “thi hành án” được hiểu là việc đưa các bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Bản án, quyết định của Tòa án là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính... Có thể nói, thi hành án được coi là một trong những hoạt động quan trọng của Nhà nước. Bởi lẽ, thi hành án một mặt bảo đảm việc thực hiện quyền lực của Nhà nước, mặt khác lại là công cụ hữu hiệu để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân khi khi bị xâm hại. Trong các công trình nghiên cứu khoa học về thi hành án, có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm thi hành án: Có quan điểm xem thi hành án là một giai đoạn tố tụng, đây là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử không thể thiếu trong quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự. Quan điểm cho rằng thi hành án là giai đoạn kết thúc của tố tụng mà trong đó cơ quan thi hành án đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành ra thi hành nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân, cơ quan, tổ chức [25, tr. 86]. Có quan điểm lại cho rằng thi hành án không phải là một thủ tục tố tụng mà là một hoạt động mang tính chấp hành và điều hành quyết định của tòa án – cơ quan tư pháp – mang tính chất của hoạt động quản lý hành chính – tư pháp… Thi hành án không mang tính tố tụng thuần túy mà có nhiều tính chất của giai đoạn mang tính hành chính - tư pháp. Ở đây có nhiều điểm khác nhau giữa tố 1 tụng và quá trình thực hiện thi hành án. Hoạt động thi hành án là hoạt động đặc thù mà chủ thể thực thi không phải là Tòa án. Các thủ tục trong quá trình thi hành án mang nặng tính hành chính - tư pháp hơn (đặc biệt là trong thi hành án kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, lao động và một phần của thi hành án hình sự đối với loại hình phạt không phải là hình phạt tù...) [28, tr. 12]. Quan điểm của tác giả đồng nhất với quan điểm cho rằng thi hành án là một thủ tục tố tụng tư pháp:“Thi hành án là thủ tục tố tụng tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành để thi hành bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước, tổ chức khác do pháp luật quy định, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp cả các cơ quan, tổ chức và cá nhân.” [25, tr14]. Thi hành án bao gồm thi hành án hình sự và thi hành án dân sự, trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn về thủ tục thi hành án dân sự, các quan điểm trên về thi hành án đều có những điểm hợp lý, song dù theo quan điểm nào thì thủ tục THADS đều có các đặc điểm sau: Thứ nhất, thủ tục thi hành án dân sự là cách thức, trình tự tổ chức thi hành BA, QĐ dân sự có hiệu lực thi hành được pháp luật quy định, bao gồm nhiều thủ tục khác nhau. Thủ tục THADS do pháp luật quy định, Chấp hành viên cũng không được đặt ra trình tự, thủ tục và không tùy tiện trong quá trình tổ chức thực hiện THA mà phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Quá trình THADS thực hiện thông qua nhiều thủ tục và theo một trình tự nhất định. Thủ tục THA bao gồm nhiều bước để đưa một bản án, quyết định của Tòa án ra thi hành. Đầu tiên là thủ tục cấp, chuyển giao BA, QĐ của Tòa án cho đương sự và CQTHADS để thi hành; cùng với đó là thủ tục gửi và giải thích BA, QĐ của Tòa án nhằm mục đích để các cơ quan thực thi pháp luật có cách hiểu thống nhất đối với các BA, QĐ đảm bảo cho việc CQTHA thực thi đúng bản chất của sự việc, đúng pháp luật, đúng phán quyết của Tòa án và các cơ quan khác. Tiếp theo đến thủ tục yêu cầu THA của đương sự, nộp đơn yêu cầu THA, thủ tục nhận hoặc từ chối nhận đơn của CQTHADS. Và bước quan trọng là thủ tục ra quyết định THA của thủ trưởng CQTHADS, trong quá trình THA có thể phát sinh các thủ tục như hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ THA, trả lại đơn yêu cầu THA, xác minh 2 THA… cho đến chuyển giao quyền và nghĩa vụ THA, nộp phí thi hành án, cưỡng chế thi hành án… rồi cuối cùng kết thúc THA. Trong quá trình THADS, ở mỗi giai đoạn thực hiện từng thủ tục là khác nhau và các thủ tục này liên kết toàn bộ quá trình thi hành án dân sự. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành án, có những thủ tục không phải thực hiện hoặc có những thủ tục phải thực hiện ngay ở giai đoạn đầu, giữa hoặc sau khi đã thi hành xong việc thi hành án, ví dụ như thủ tục giải quyết khiếu nại hoặc thực hiện kháng nghị của Viện kiểm sát. Thứ hai, thủ tục thi hành án dân sự là thủ tục nhằm thi hành phán quyết của các cơ quan như Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Thi hành án dân sự gắn liền với hoạt động xét xử, xét xử chính là tiền đề của thi hành án dân sự. Hoạt động thi hành án lệ thuộc và chịu sự chi phối của hoạt động xét xử, bởi lẽ thi hành án được tiến hành dựa trên BA, QĐ đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Nói cách khác, căn cứ pháp lý để thi hành án là bản án, quyết định của các cơ quan nói trên đã có hiệu lực pháp luật. Ngược lại, THADS tiếp nối với xét xử làm cho BA, QĐ được thực hiện trên thực tế. Sau khi có bản án, quyết định của tòa án, trọng tài, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh trên cơ sở của bản án, quyết định do Tòa án và các cơ quan này chuyển giao hoặc đơn yêu cầu THA của đương sự, CQTHADS ra quyết định thi hành và thụ lý, tổ chức việc thực hiện thi hành án. THADS là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối quan hệ mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó (ví dụ: việc thi hành các quyết định khẩn cấp tạm thời của Toà án; trong quá trình thi hành án, Chánh án Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền yêu cầu CQTHA hoãn việc THA, quyết định tạm đình chỉ THA để xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm...). Tuy nhiên, THA lại có tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ hoạt động này được bắt đầu bằng quyết định của Thủ trưởng CQTHADS đối với THADS. Những quyết định này mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc THA. Các cơ quan, tổ chức, công dân, trong phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện để thi hành án đạt hiệu quả. Nhằm bảo đảm hiệu lực thi hành của các bản án, quyết định của các cơ quan Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, hiện nay, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này được quy định tại các Điều từ Điều 3 465 đến Điều 467 Bộ Luật TTDS năm 2015, Điều 66, 67 Luật trọng tài thương mại, từ Điều 134 đến Điều 135 NĐ số 116/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh và các Điều 26, 27, 28, 48, 49 và 179 Luật THADS đã được sửa đổi, bổ sung. Với ý nghĩa có mối quan hệ hữu cơ, mật thiết với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử - thi hành án nhằm thi hành phán quyết của các cơ quan như Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Cụ thể, khoản 2 Điều 121 Luật cạnh tranh năm 2004 quy định“Trường hợp quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành thì bên được thi hành có quyền yêu cầu cơ quan THADS tỉnh, TP trực thuộc Trung ương nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải THA tổ chức thực hiện quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh”. Đối với việc thi hành quyết định của Trọng tài thương mại cũng được quy định tại Điều 66, 67 Luật Trọng tài thương mại năm 2010: “Phán quyết của trọng tài được thi hành theo quy định của Pháp luật về THADS”. Như vậy, nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu như một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý Nhà nước. Thứ ba, thủ tục thi hành án dân sự do cơ quan, tổ chức thi hành án thực hiện. Mặc dù có sự lệ thuộc và chịu sự chi phối vào giai đoạn xét xử, nhưng THA cũng mang tính độc lập, đây là đặc trưng của hoạt động tư pháp. Ở giai đoạn THA, tính chất tố tụng đã chấm dứt, bởi vì khi BA, QĐ của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì có nghĩa là chức năng xét xử đã hoàn thành, có tội hay vô tội, đúng hay sai đã được phân xử rõ ràng. Để đảm bảo hiệu quả của THADS thì CQTHADS và chấp hành viên phải thực hiện thủ tục THA một cách độc lập và không cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được can thiệp trái pháp luật vào quá trình thi hành án dân sự. Cơ quan, tổ chức THA phải tuân thủ đúng thủ tục THA trong quá trình tổ chức việc THA. 4 Bên cạnh đó, cơ sở của hoạt động thi hành án là các BA, QĐ có hiệu lực thi hành; các cơ quan tham gia vào quá trình THA chủ yếu là cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, các bản án, quyết định do các cơ quan như Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh sau khi được tuyên sẽ được CQTHADS thi hành. Các nước trên thế giới có các mô hình khác nhau về cơ quan, tổ chức thi hành án. Ở Việt Nam, ngoài cơ quan thi hành án dân sự của Nhà nước còn có tổ chức Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh và hiện nay nhân rộng ra phạm vi cả nước theo nghị quyết số 107 ngày 26/11/2015, thì một số thủ tục THADS do văn phòng thừa phát lại thực hiện như: Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc CQTHADS; lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; xác minh điều kiện THA theo yêu cầu của đương sự; trực tiếp tổ chức THA các BA, QĐ của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Thừa phát lại không tổ chức THA các BA, QĐ thuộc diện Thủ trưởng CQTHADS chủ động ra quyết định THA. Tòa án có trách nhiệm gửi bản án, quyết định tới CQTHADS và Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án đã xét sử sơ thẩm. Thủ tục THA do CQTHADS thực hiện từ việc ra quyết định thi hành án, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ THA, việc cưỡng chế THA,… cho đến việc trả lại đơn yêu cầu THA, và quyết định kết thúc THA. Cơ quan THA là cơ quan chuyên trách để thực thi các BA, QĐ có hiệu lực thi hành trên thực tế. Việc ra quyết định THA để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của đương sự do Thủ trưởng CQTHADS đảm nhiệm. Trước đây, PLTHADS 1989, việc ra quyết định THA còn do chánh án Tòa án sơ thẩm xét xử vụ án, điều này dẫn đến việc chồng chéo và gánh nặng cho Tòa án, từ PLTHADS năm 1993, PLTHADS năm 2004 và Luật THADS năm 2008 hiện nay, việc THA chỉ do cơ quan chuyên trách thi hành án thực hiện, đảm bảo tính công bằng, khách quan. Như vậy qua những đặc điểm đặc trưng của thủ tục THA, chúng ta có thể rút ra khái niệm về thủ tục thi hành án như sau: Thủ tục thi hành án dân sự là trình tự thi hành các bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định về hình sự, hành chính và quyết định khác do Cơ quan, tổ chức thi hành án dân sự thực hiện theo qui định pháp luật. 5 1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng thủ tục thi hành án dân sự Thứ nhất, thủ tục THADS là cơ sở pháp lý đảm bảo thi hành BA, QĐ có hiệu lực thi hành và thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Kết quả của quá trình xét xử là giải quyết các tranh chấp và đưa ra các BA, QĐ có hiệu lực thi hành. Nhưng những bản án, quyết định đó, nếu không được đưa ra thi hành thì chỉ là những phán quyết trên giấy tờ, không có giá trị pháp lý ràng buộc các bên trong quan hệ THADS, không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự. Cho nên, pháp luật quy định về thủ tục THADS là cần thiết và đảm bảo cho việc thực thi các bản án, quyết định trên thực tế, thể hiện sự tôn trọng các phán quyết của Tòa án, sự nghiêm minh của pháp luật. Vì nếu không thực thi các phán quyết trên thực tế thì quá trình xét xử, giải quyết của Tòa án, Trọng tài cũng như Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh là vô nghĩa. Thứ hai, thủ tục thi hành án còn là cơ sở bảo đảm cho hoạt động THA được tuân thủ đúng pháp luật. Thủ tục thi hành án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm việc thi hành án của chấp hành viên, cán bộ cơ quan thi hành án dân sự theo đúng pháp luật, hạn chế tình trạng lạm quyền để thi hành những bản án, quyết định không thuộc thẩm quyền thi hành của mình, đồng thời ngăn chặn việc cơ quan thi hành án dân sự từ chối, đùn đẩy trách nhiệm thi hành những bản án, quyết định mà cơ quan mình có trách nhiệm phải thi hành. Bên cạnh đó, việc luật hóa các thủ tục thi hành án trong pháp luật THADS còn là cơ sở pháp lý cho chấp hành viên, cán bộ cơ quan thi hành án căn cứ vào đó để thực hiện, bảo vệ quá trình thi hành án, bảo vệ quan điểm cũng như uy tín, danh dự của chính mình. Nếu làm được như vậy mới tạo được niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào pháp luật, vào Nhà nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam. Thứ ba, thủ tục THADS cơ sở bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Quá trình thi hành án nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, do đó, các trình tự, thủ THA cũng được quy định chặt chẽ bởi pháp luật giống như những thủ tục tố tụng trước đó vì đều liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Hơn nữa, yêu cầu đặt ra đối với những người tiến hành các trình tự, thủ tục thi hành án, kể cả CHV trong THADS là phải độc 6 lập và tuân theo pháp luật để bảo đảm duy trì sự thật trong bản án, quyết định của Tòa án và tiến tới đạt được sự thật trên thực tế; nếu không độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thì giá trị sự thật mà BA, QĐ dân sự có hiệu lực đã xác định sẽ không còn nguyên nghĩa của nó, trừ trường hợp các đương sự có sự thỏa thuận tự nguyện khác trong quá trình thi hành án. Việc thực hiện THA đúng thủ tục do pháp luật quy định, bảo đảm bản án, quyết định có hiệu lực thi hành theo thủ tục THADS kịp thời thì lợi ích của cá nhân và cộng đồng được sẽ bảo vệ, kỉ cương phép nước được tôn trọng, trật tự xã hội được củng cố. Thủ tục thi hành án dân sự không được quy định hoặc quy định không rõ ràng, thiếu khoa học sẽ không có căn cứ pháp lý hoặc dẫn đến áp dụng pháp luật không đúng, không đầy đủ, làm phức tạp quá trình thi hành án, gây tốn kém kinh phí, không đáp ứng kịp thời hoặc không bảo đảm được lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. 1.3. Lƣợc sử hình thành và phát triển của pháp luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án ở Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1980 Giai đoạn từ 1945 – 1950, các văn bản pháp luật liên quan đến thủ tục THADS ở giai đoạn này có thể kể đến như Sắc lệnh ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Về việc cho tạm thời giữ các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam” nếu những luật lệ ấy không trái với các nguyên tắc độc lập của Nhà nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa, Nghị định số 37 ngày 01/12/1945 về “Tổ chức Bộ Tư pháp”, Sắc lệnh số 13 ngày 20/11/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt nam dân chủ cộng hòa về “Tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán”. Những văn bản pháp luật này đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho tổ chức THADS Việt Nam. Sắc lệnh quy định Ban Tư pháp xã có quyền “thi hành những mệnh lệnh của thẩm phán cấp trên” bao gồm các BA, QĐ của Tòa án. Đối với việc THA, Chưởng lý và Biện lý có thẩm quyền giám sát việc THA. Tại điều 3 của Sắc lệnh số 130 ngày 19/7/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quy định: “Trong các xã, thị xã hoặc khu phố, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và thư ký đều chịu trách nhiệm thi hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của các Tòa án. Bản án ấy sẽ tuỳ từng việc, chỉ định một nhân viên để 7 giao cho việc thi hành lệnh, mệnh lệnh hoặc án ở những nơi nào đã có Thừa phát lại riêng, thì đương sự có quyền nhờ thừa phát lại riêng thi hành mệnh lệnh”. Tiếp đó, thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949 của Bộ Tư pháp về việc thi hành các án hình và hộ, đoạn 4 cũng quy định rõ: “Mỗi khi có trở lực trong việc chấp hành, ông Biện lý có bổn phận can thiệp để tỏ rõ nhiệm vụ làm cho pháp luật được tôn trọng.” Như vậy, theo các văn bản này thì THADS ở nước ta giai đoạn này tồn tại dưới hai hình thức là: Thừa phát lại và ban Tư pháp xã. Theo đó, thủ tục THA được quy định bằng những nguyên tắc, thể thức chấp hành các BA, QĐ của Tòa án, theo Thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, thì thủ tục THA nước ta thời này bao gồm: Về nguyên tắc chấp hành: người đương sự được kiện, muốn chấp hành bản án của mình phải xin ở phòng lục sự một bản trích lục hoặc toàn sao bản án ấy. Nhưng việc chấp hành vẫn chịu quyền giám thị của chưởng lý và biện lý. Bản thân lục sự của Tòa án phải tự động gửi bản sao bản án cho người đương sự biết và thi hành. Về thể thức thi hành: trong các bản trích lục hoặc bản sao được phòng lục sự cấp cho đương sự, bên dưới phải được lục sự ký: "thừa lệnh Tòa án". Bên chữ ký của lục sự phải có chữ ký của thẩm phán công tố viên "duyệt". Đó là những bản sao có thể thức chấp hành. Bản sao này chỉ được cấp có một lần. Nhưng trong trường hợp đặc biệt, ví dụ: đánh mất bản sao có thể thức chấp hành, Chánh án có thể ra mệnh lệnh cho phép phòng lục sự cấp một bản toàn sao khác có thể thức chấp hành. Vị chưởng lý và biện lý có nhiệm vụ kiểm soát những thể thức chấp hành này. Về cách thức thi hành: pháp luật đặt ra những công lại riêng để thi hành các án hộ và thương mại, được gọi là các thừa phát lại. Tuy nhiên, thừa phát lại trước năm 1945 là lý trưởng, thì nay trong tổ chức tư pháp mới là tư pháp xã. Chức năng này của ban tư pháp xã đã được quy định chính thức trong Sắc lệnh số 13, ngày 24/01/1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán. Khi cần thiết, các vị chỉ huy binh lực sẽ can thiệp vào việc thi hành án. Giai đoạn từ 1950 – 1980, tổ chức và hoạt động THADS có sự thay đổi mang tính chất bước ngoặt kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh 8 số 85/SL ngày 22/5/1950 về “Cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng”. Theo quy định tại điều Điều 19 của Sắc lệnh thì: Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của Biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ, mà chính Toà án huyện hoặc Toà án trên đã tuyên. Việc phát mại bất động sản và phân phối tiền bán được cũng do Toà án huyện phụ trách. Trong trường hợp có nhiều bất động sản rải rác ở nhiều huyện khác nhau thì Biện lý sẽ chỉ định một Thẩm phán huyện để việc phát mại đó vừa có lợi cho chủ nợ lẫn người mắc nợ. Như vậy, việc THADS không do Thừa phát lại và Ban Tư pháp thực hiện nữa mà được thay thế bằng Thẩm phán huyện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án Tòa án. Thủ tục THADS cũng từ việc căn cứ vào đơn yêu cầu của đương sự trở thành trách nhiệm của Nhà nước, Tòa án chủ động THADS mà không chờ yêu cầu của người được THA. Việc THADS trong giai đoạn này do nhân viên chấp hành án thực hiện theo thủ tục do pháp luật quy định (Theo Điều 24, Hiến pháp 1959, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1960). Ngày 13/10/1972, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra Quyết định số 186/TC về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên. Từ đó, tên gọi “chấp hành viên” ra đời thay cho“nhân viên chấp hành án”để làm nhiệm vụ THADS theo Thông tư số 187/TC hướng dẫn thi hành Quyết định số 186/TC do Tòa án nhân dân tối cao ban hành. CHV được đặt tại Tòa án, dưới sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Chánh án Tòa án. Thông tư số 443-TC ngày 04/7/1968 của TANDTC về việc đẩy mạnh công tác THA đã xác định nhiệm vụ của chính quyền cấp xã là giáo dục, theo dõi, đôn đốc đương sự tự nguyện THA, giúp tòa án điều tra nắm tình hình trong quá trình THA. TANDTC cũng đã ban hành Điều lệ tạm thời về công tác THA (kèm theo công văn số 827/CV ngày 23/10/1979) quy định khá chi tiết, cụ thể về trình tự, thủ tục THA. Tại Điều 6 của bản Điều lệ nêu trên có quy định: "Khi bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc theo pháp luật phải chấp hành khẩn cấp, Tòa án đã xét xử bản án đó phải trích lục án cho CHV nơi phải chấp hành án và VKSND cùng cấp chậm nhất là trong ba ngày... Sau khi nhận được trích lục bản án, chậm nhất là ba ngày CHV phải tống đạt trích lục án cho những người phải chấp hành án, những người được chấp hành án và 9
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan