TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------
HUỲNH TRẦN NHẬT UYÊN
MSSV: 1853801011262
THỜI HIỆU KHỞI KIỆN
QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2018 – 2022
Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Lê Việt Sơn
TP. HỒ CHÍ MINH – Năm 2022
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------
HUỲNH TRẦN NHẬT UYÊN
MSSV: 1853801011262
THỜI HIỆU KHỞI KIỆN
QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2018 – 2022
Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Lê Việt Sơn
TP. HỒ CHÍ MINH – Năm 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Lê Việt Sơn. Các nội dung, ý tưởng của
các tác giả khác trong các tài liệu tham khảo đều được trích dẫn trung thực và chính
xác. Các kết luận nghiên cứu được trình bày trong khóa luận này có tính kế thừa một
số quan điểm khoa học và chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi xin
chịu trách nhiệm hoàn toàn về nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ KHÓA LUẬN
HUỲNH TRẦN NHẬT UYÊN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Luật TTHC năm 2010
Luật TTHC năm 2015
Luật Tố tụng hành chính năm 2010
Luật Tố tụng hành chính năm 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2019 bởi Luật số 55/2019/QH14 ngày
26 tháng 11 năm 2019 của Quốc hội sửa đổi, bổ
Luật TTHC Trung Quốc
sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước,
có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2020
Luật Tố tụng hành chính của Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa
Nghị
quyết
số
02/2011/NQ- Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP hướng dẫn thi
HĐTP
Pháp lệnh TTGQVAHC
TAND
VKSND
UBND
hành một số quy định của Luật Tố tụng hành
chính của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao ngày 29/7/2011
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án hành chính
1996 (sửa đổi, bổ sung vào các năm 1998 và
năm 2006)
Tòa án nhân dân
Viện Kiểm sát nhân dân
Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... .1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ..................................................................................... 1
3. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu ............................................................................. 2
4. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................. 2
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................................... 3
6. Kết cấu của khóa luận .............................................................................................. 3
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ THỜI HIỆU KHỞI
KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH ....................................................................... 4
1.1. Khái niệm và đặc điểm thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính….………4
1.1.1. Khái niệm thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính .......................................... 4
1.1.2. Đặc điểm thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính ........................................... 8
1.2. Ý nghĩa thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính ........................................ 10
1.2.1. Đối với cá nhân, cơ quan và tổ chức khởi kiện .................................................. 10
1.2.2. Đối với người bị kiện .......................................................................................... 11
1.2.3. Đối với Tòa án .................................................................................................... 12
1.3. Những quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính
………………………………………………………………………………... ........... 12
1.3.1. Về thời hạn được quyền khởi kiện ...................................................................... 13
1.3.2. Về cách thức xác định thời hiệu khởi kiện ......................................................... 15
1.3.3. Các trường hợp không được tính vào thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính..
........................................................................................................................... 19
1.4. Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới quy định về thời hiệu khởi kiện
quyết định hành chính ............................................................................................... 20
1.4.1. Thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính theo quy định của pháp luật một số
nước trên thế giới ......................................................................................................... 20
1.4.2. Những giá trị, kinh nghiệm tham khảo cho Việt Nam ........................................ 29
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VỀ
THỜI HIỆU KHỞI KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH ................................... 32
2.1. Thực trạng thực hiện thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính ................. 32
2.1.1. Những kết quả đạt được ..................................................................................... 32
2.1.2. Những bất cập, hạn chế...................................................................................... 34
2.2. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế về thời hiệu khởi kiện quyết định
hành chính …………………………………………………………………………...49
2.2.1. Nguyên nhân khách quan ................................................................................... 49
2.2.2. Nguyên nhân chủ quan ....................................................................................... 51
2.3. Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và thực hiện quy định của pháp luật
về thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính…………………………………… . 56
2.3.1. Về mặt pháp lý .................................................................................................... 53
2.3.2. Về mặt thực tiễn.................................................................................................. 58
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 64
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước sự chuyển mình mạnh mẽ cả về quy mô lẫn chất lượng của nền kinh tế
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hóa, việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Trong số đó, sự cải
cách nhằm đảm bảo quyền được khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong lĩnh
vực quản lý hành chính nhà nước cũng hết sức được chú trọng. Thời hiệu khởi kiện
là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết yêu cầu bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền
khởi kiện, việc xác định đúng thời hiệu khởi kiện là một trong các yếu tố nền tảng
và tiên quyết để xác định yêu cầu khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức có được
Tòa án có thẩm quyền chấp nhận thụ lý, giải quyết hay không. Trên cơ sở đó, thời
hiệu khởi kiện quyết định hành chính không phải là một vấn đề mới trong pháp luật
Việt Nam, cụ thể pháp luật tố tụng hành chính đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bắt đầu
từ việc điều chỉnh Pháp lệnh TTGQVAHC, sau đó là sự ra đời của Luật TTHC năm
2010 và ngày nay là Luật TTHC năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/7/2016. Mặc dù
có những sửa đổi, bổ sung và nhiều điểm mới, thể hiện bước tiến về kỹ thuật lập
pháp và dấu ấn của sự hoàn thiện, tuy nhiên đứng trước xu hướng ngày càng gia
tăng số lượng vụ án hành chính nói chung, khởi kiện quyết định hành chính nói
riêng cùng với tính chất của vụ việc ngày càng phức tạp thì Luật TTHC năm 2015
vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế cần được bổ sung cấp bách và hoàn thiện, nhằm đảm
bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Thực tiễn cho thấy hiện
nay đã và đang tồn tại một số vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp
luật về thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính, nhiều quy định chưa rõ ràng dẫn
đến nhiều cách hiểu và sự áp dụng thiếu thống nhất của các chủ thể có thẩm quyền
trên thực tế. Trong khi đó, các văn bản hướng dẫn không được ban hành kịp thời để
tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn này. Thực trạng trên đã đặt ra yêu cầu tất yếu
khách quan là cần phải nghiên cứu pháp luật một cách chuyên sâu, toàn diện về thời
hiệu khởi kiện quyết định hành chính, góp phần đưa ra những kiến nghị, giải pháp
hoàn thiện, khắc phục những điểm hạn chế còn tồn tại trong chế định pháp luật này
và đây cũng chính là lý do tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Thời hiệu khởi kiện
quyết định hành chính”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là một vấn đề khá được quan tâm từ
trước đến nay nên một số bài viết trên tạp chí, luận văn đã đề cập trực tiếp hoặc
1
nhắc đến những nội dung liên quan, cụ thể như: Huỳnh Thị Hồng Hà (2013), Thời
hiệu khởi kiện trong vụ án hành chính, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật, Trường
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Hoàng Quảng Lực (2012), “Bàn về vấn đề
thời hiệu khởi kiện”, Tạp chí Tòa án nhân dân (số 14/2012); Nguyễn Thị Thế
(2018), “Bàn về việc áp dụng quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện trong tố
tụng hành chính”, Tạp chí Tòa án nhân dân (số 20/2018); Nguyễn Hoàng Yến
(2015), “Hoàn thiện các quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính”, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật (số 02/2015),… Và các bài viết, luận văn khác mà các tác
giả có đề cập đến chế định thời hiệu khởi kiện với tư cách là điều kiện khởi kiện
trong vụ án hành chính: Nguyễn Hoàng Yến (2011), Bảo đảm pháp lý về quyền khởi
kiện vụ án hành chính ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học; Nguyễn Thanh
Phương (2012), “Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính (từ thực tiễn thành phố Hồ
Chí Minh)”, Luận văn Thạc sĩ Luật học,… Từ số lượng những bài nghiên cứu về
thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính nói chung và thời hiệu khởi kiện quyết định
hành chính nói riêng, tác giả nhận thấy rằng hầu hết các bài viết chỉ nghiên cứu một
cách khái quát về chế định thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính chứ chưa đi nghiên
cứu sâu vào vấn đề thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính. Chưa có bất kỳ một
công trình nghiên cứu nào thực hiện đề tài “Thời hiệu khởi kiện quyết định hành
chính”, cũng như chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu nội dung có liên quan đến chế định
này theo quy định của Luật TTHC năm 2010. Xuất phát từ những lí do trên, tác giả
tiến hành nghiên cứu một cách có tổng quan về cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và thực
trạng thực hiện thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính theo Luật TTHC năm
2015.
3. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Khóa luận làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về chế
định thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực
trạng pháp luật về thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính hiện hành, khóa luận
đã chỉ ra những điểm bất cập và đưa ra kiến nghị hoàn thiện thời hiệu khởi kiện
quyết định hành chính.
Ý nghĩa nghiên cứu: Làm rõ những vấn đề lý luận về chế định thời hiệu khởi
kiện và đưa ra kiến nghị để hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn áp dụng của thời
hiệu khởi kiện đối với quyết định hành chính, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của pháp luật trong thực tiễn.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về thời hiệu khởi kiện
quyết định hành chính, các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành quy định về thời
2
hiệu khởi kiện đối với quyết định hành chính và những vấn đề phát sinh trong thực
tiễn áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, tác giả cũng tham khảo các số liệu thống kê
liên quan đến hoạt động này trong những năm qua. Đối với pháp luật nước ngoài,
tác giả chủ yếu tìm hiểu những quy định cơ bản về thời hiệu khởi kiện quyết định
hành chính ở ba nước (Pháp, Hoa Kỳ, Trung Quốc), để từ đó có thể rút ra một số
giá trị, kinh nghiệm tham khảo cho pháp luật Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuyên suốt quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã thực hiện khảo sát, nghiên
cứu các định nghĩa, khái niệm liên quan đến những quy định pháp luật về thời hiệu
khởi kiện quyết định hành chính và các vấn đề trong thực tiễn. Đề tài có tham khảo
các bài viết của các học giả khác nhau, trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã dựa
trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Ngoài ra, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích – tổng hợp,
phương pháp liệt kê, phương pháp so sánh, phương pháp dùng số liệu để hoàn thành
khóa luận.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục từ viết tắt và danh mục tài liệu
tham khảo, khóa luận được kết cấu gồm 2 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về thời hiệu khởi kiện quyết định
hành chính
Chương 2: Thực trạng và những kiến nghị hoàn thiện về thời hiệu khởi kiện
quyết định hành chính
3
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ THỜI HIỆU
KHỞI KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm và đặc điểm thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính
1.1.1. Khái niệm thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính
Trong đời sống pháp lý, việc một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật có thể sẽ xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác và dẫn đến tranh chấp. Vì vậy, Nhà nước
đã thiết lập cơ chế pháp lý “quyền khởi kiện” để bảo vệ quyền con người nói chung,
quyền công dân nói riêng, theo đó, bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, lợi
ích bị xâm phạm đều có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của họ. Mặc dù, pháp luật bảo đảm quyền khởi kiện của cá nhân, cơ quan,
tổ chức nhưng không có nghĩa quyền này được thực hiện lúc nào cũng được mà
phải bị giới hạn về khung thời gian thực hiện quyền khởi kiện, giới hạn đó được gọi
là “thời hiệu khởi kiện”. Đặc biệt ở lĩnh vực tố tụng hành chính, quy định về thời
hiệu khởi kiện sẽ tạo điều kiện để người khởi kiện có thời gian chuẩn bị và cân
nhắc, lựa chọn việc có khởi kiện hay không khởi kiện vụ án hành chính, cho phép
bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Mặt
khác, thời hiệu khởi kiện cũng giúp Nhà nước hạn chế giải quyết các khiếu kiện
hành chính phát sinh thường xuyên trong điều kiện hệ thống pháp luật còn chưa
hoàn chỉnh1. Trên cơ sở đó, việc quy định thời hiệu khởi kiện là rất cần thiết, vừa
phù hợp với nguyên tắc bảo đảm quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi
kiện trong tố tụng hành chính2, vừa góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết
của Tòa án. Trong số các đối tượng khởi kiện thuộc thẩm quyền xét xử hành chính
của TAND theo thủ tục tố tụng hành chính thì quyết định hành chính là đối tượng
mà cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện nhiều nhất. Vì vậy, việc làm rõ các vấn đề
lý luận về thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính nói chung và khái niệm về thời
hiệu khởi kiện quyết định hành chính nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
đưa ra các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật và giải pháp thực tiễn về chế
định này.
1
Đoàn Tấn Minh (2011), Bình luận khoa học Luật TTHC và các văn bản áp dụng giải quyết các khiếu nại
hành chính tại Tòa, Nxb. Lao Động, Hà Nội, tr. 146 .
2
Điều 8 Luật TTHC năm 2015.
4
Dưới góc độ ngôn ngữ học, Thời hiệu là “thời gian có hiệu lực của một văn
bản pháp luật, một quyết định hành chính, một bản án, một hợp đồng, v.v”3; Khởi
kiện là “bắt đầu yêu cầu xét xử việc người khác đã làm thiệt hại đến mình”4; Quyết
định được xem là “văn bản hành chính về quyết định của một cấp có thẩm quyền
(ký quyết định, ra quyết định)”5; Hành chính ở đây được hiểu là “thuộc phạm vi chỉ
đạo, quản lý việc chấp hành luật pháp, chính sách của nhà nước (cơ quan hành
chính)”6. Trên cơ sở chỉ căn cứ theo từ điển Tiếng Việt, có thể khái quát thành khái
niệm sau: thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính được hiểu là thời gian có hiệu
lực để bắt đầu yêu cầu xét xử việc chủ thể khác đã làm thiệt hại đến mình bởi văn
bản hành chính về quyết định của một cấp có thẩm quyền. Khái niệm trên đã làm rõ
được thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính là thời gian có hiệu lực để yêu cầu
việc xét xử một vụ án hành chính. Tuy nhiên, khái niệm này có hạn chế là chưa xác
định chủ thể được quyền sử dụng thời hiệu khởi kiện, chưa giới hạn được khoảng
thời hạn được quyền khởi kiện vụ án hành chính, cũng như không trình bày nội
dung, tính chất của văn bản hành chính ở đây có phải là quyết định hành chính hay
không.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, thời hiệu khởi kiện vụ án hành
chính đã được giải thích như sau: “Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là khoảng
thời gian do pháp luật quy định để cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức thực hiện
quyền khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình”7. Khái niệm trên được xây dựng với phạm vi rộng, người đọc chỉ có thể
nhận biết khái quát về thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính, mà vụ án hành chính
thì có rất nhiều đối tượng khởi kiện trong số đó có quyết định hành chính, chứ vẫn
chưa đề cập cụ thể đến thuật ngữ “thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính”. Bên
cạnh đó, cũng trong cuốn từ điển này thì thuật ngữ “quyết định hành chính” đã được
giải thích bao quát và đầy đủ, đó là: “kết quả thể hiện ý chí quyền lực đơn phương
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, những người có chức vụ, các tổ chức và cá
nhân được nhà nước trao quyền, được thực hiện trên cơ sở và để thi hành pháp
luật, theo trình tự và hình thức do pháp luật quy định hướng tới việc thực hiện
nhiệm vụ quản lý hành chính trong lĩnh vực hoặc vấn đề được phân công phụ
3
Hoàng Phê (2019), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 955.
Hoàng Phê (2019), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 525.
5
Hoàng Phê (2019), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 815.
6
Hoàng Phê (2019), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 421.
7
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 114.
4
5
trách”8, vì được giải thích với phạm vi rộng nên khái niệm trên đã không xác định
được tính chất và nội dung cũng như là phạm vi chủ thể ban hành quyết định hành
chính, ngoài ra khái niệm còn chứa nhiều thuật ngữ pháp lý làm cho người đọc khó
tiếp cận, dù vậy nó vẫn có giá trị tham khảo nhất định để tác giả rút ra định nghĩa
riêng cho thuật ngữ “thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính”.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm thời hiệu khởi kiện quyết định
hành chính chưa được các tác giả quan tâm nghiên cứu mà thay vào đó chỉ nghiên
cứu về thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính nói chung. Có thể kể như: “Thời hạn
khởi kiện một vụ án nói chung là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu
cầu Tòa án giải quyết vụ án nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, khi thời
hạn đó kết thúc, thì chủ thể mất quyền khởi kiện”9, khái niệm này được tác giả xây
dựng với phạm vi rộng, chỉ đề cập đến thời hạn khởi kiện vụ án nói chung, mà
không phân biệt vụ án dân sự, hành chính, hình sự,… nhưng vẫn đưa ra được cái
nhìn ban đầu đó là thời hạn được quyền khởi kiện, hết thời hạn được pháp luật quy
định thì mất quyền khởi kiện. Tuy nhiên, vì phạm vi quá rộng nên người đọc vẫn sẽ
chưa tiếp cận được như thế nào thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính. Hay
“thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính” trong bài viết “Bàn về thời hiệu khởi kiện
trong tố tụng hành chính”10 và “Bàn về việc áp dụng quy định của pháp luật về thời
hiệu khởi kiện trong tố tụng hành chính”11 như sau: “Thời hạn khởi kiện vụ án hành
chính là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu
Tòa án giải quyết vụ án hành chính nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện”12. Khái niệm này được tác
giả trích dẫn trực tiếp từ khoản 1 Điều 116 Luật TTHC năm 2015, vì vậy đây chỉ là
khái niệm “khung”, tức là quy định chung cho tất cả các đối tượng khởi kiện bao
gồm: quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc,
quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định
giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước, danh sách cử tri bầu cử
đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, danh sách
cử tri trưng cầu ý dân (sau đây gọi chung là danh sách cử tri). Vì vậy, chưa thấy
8
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 102.
9
Hoàng Quảng Lực (2012), “Bàn về vấn đề thời hiệu khởi kiện”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (14), tr. 9.
10
Nguyễn Thị Thế (2018), “Bàn về thời hiệu khởi kiện trong tố tụng hành chính”, Tạp chí Kiểm sát, (07), tr.
17.
11
Nguyễn Thị Thế (2018), “Bàn về việc áp dụng quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện trong tố tụng
hành chính”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (20), tr. 38.
12
Khoản 1 Điều 116 Luật TTHC năm 2015.
6
được sự đặc thù của thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính so với các loại khiếu
kiện khác.
Trên cơ sở phân tích như trên, có thể nhận thấy chưa có một công trình
nghiên cứu khoa học nào đề cập trực tiếp về khái niệm thời hiệu khởi kiện quyết
định hành chính mà chỉ tiếp cận, nghiên cứu khái niệm thời hiệu khởi kiện vụ án
hành chính nói chung. Các kết quả nghiên cứu mà tác giả kế thừa bao gồm các bài
luận văn, luận án như: Huỳnh Thị Hồng Hà (2013), “Thời hiệu khởi kiện trong vụ
án hành chính”; Nguyễn Hoàng Yến (2011), “Bảo đảm pháp lý về quyền khởi kiện
vụ án hành chính ở Việt Nam”; Nguyễn Thanh Phương (2012), “Khởi kiện và thụ lý
vụ án hành chính (từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh)”,… các bài báo, tạp chí
như: Hoàng Quảng Lực (2012), “Bàn về vấn đề thời hiệu khởi kiện”, Tạp chí Tòa án
nhân dân số 14/2012; Nguyễn Thị Thế (2018), “Bàn về thời hiệu khởi kiện trong tố
tụng hành chính”, Tạp chí Kiểm sát số 7/2018; Nguyễn Thị Thế (2018), “Bàn về
việc áp dụng quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện trong tố tụng hành
chính”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 20/2018. Để làm rõ khái niệm thời hiệu khởi
kiện quyết định hành chính thì cần làm rõ khái niệm về quyết định hành chính, theo
đó khái niệm này đã được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 3 Luật TTHC năm 2015
như sau: “Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ
quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc
người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ
thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một
số đối tượng cụ thể”13. Từ đó nhận thấy rằng, khái niệm “quyết định hành chính”
được pháp luật xây dựng một cách chặt chẽ, đầy đủ, chỉ ra ba đặc điểm cơ bản của
một quyết định hành chính: thứ nhất, quyết định hành chính phải là văn bản; thứ
hai, phải do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện
quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ
chức đó ban hành; thứ ba, phải quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý
hành chính, tác động đến một hoặc một số đối tượng cụ thể và có hiệu lực áp dụng
một lần.
Qua phân tích trên, tác giả đề xuất xây dựng khái niệm khoa học về thời hiệu
khởi kiện quyết định hành chính như sau: “Thời hiệu khởi kiện quyết định hành
chính là khoảng thời gian do pháp luật quy định cho cơ quan, tổ chức, cá nhân
được quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính để bảo vệ quyền,
13
Khoản 1 Điều 3 Luật TTHC năm 2015.
7
lợi ích hợp pháp bị xâm phạm bởi văn bản chủ thể có thẩm quyền ban hành về một
vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính và được áp dụng một lần”.
1.1.2. Đặc điểm thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính
Từ khái niệm vừa được xây dựng ở trên, có thể thấy thời hiệu khởi kiện
quyết định hành chính có những đặc điểm như sau:
Một là, thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính là khoảng thời gian cụ thể,
không quá dài do pháp luật quy định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc rõ
ràng
Thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính là một khoảng thời gian xác định
do pháp luật quy định, có điểm bắt đầu và điểm kết thúc, thường được tính bằng
một đơn vị cụ thể như năm và được định lượng bằng một con số, cụ thể là 01 năm.
Xét thấy, 01 năm là mức thời hạn duy nhất mà pháp luật tố tụng hành chính đặt ra
khi khởi kiện quyết định hành chính. Đây là khoảng thời gian phù hợp, được quy
định không quá dài bởi lẽ việc ban hành quyết định hành chính là một trong những
phương thức hoạt động chủ yếu để thực hiện hoạt động quản lý nhà nước14, do đó
số lượng các quyết định hành chính được thực hiện trong hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước
là rất lớn. Nếu như pháp luật không quy định một khoảng thời gian cụ thể hoặc có
quy định nhưng lại đặt ra một thời hạn dài thì sẽ tạo ra sức ép cho Tòa án về khối
lượng công việc, vì Tòa án không chỉ phải giải quyết những tranh chấp mới phát
sinh mà còn phải giải quyết cả những tranh chấp đã xảy ra quá lâu. Điều này phát
sinh dẫn đến hệ quả là những quyết định hành chính này đã được thi hành trong
thực tế hoặc có thể là đã được thi hành trong thời gian khá lâu, nếu khởi kiện và Tòa
án đều phải thụ lý giải quyết thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại trong việc xác
minh thu thập chứng cứ, tạo ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động chung của cơ quan
quản lý hành chính nhà nước, cũng như làm mất đi tính chủ động của cơ quan Tòa
án trong việc giải quyết các tranh chấp hành chính. Mặt khác, trong điều kiện ý thức
pháp luật của một bộ phận khá lớn dân cư chưa cao, năng lực của đội ngũ cán bộ,
công chức còn nhiều hạn chế thì việc cơ quan nhà nước ra quyết định giải quyết
công việc không đúng pháp luật không phải là việc hiếm xảy ra. Nếu đặt thời hiệu
khởi kiện quá dài thì việc Tòa án chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh
chấp của đương sự trong nhiều trường hợp rõ ràng là không phù hợp, vì có thể dẫn
đến bất ổn xã hội15.
14
Nguyễn Thị Thế (2018), “Bàn về thời hiệu khởi kiện trong tố tụng hành chính”, Tạp chí Kiểm sát, (07), tr.
17.
15
Hoàng Quảng Lực (2012), “Bàn về vấn đề thời hiệu khởi kiện”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (14), tr. 9.
8
Hai là, thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính gắn liền với quyền khởi
kiện vụ án hành chính
Thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính và quyền khởi kiện vụ án hành
chính có mối quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau. Khi thời hiệu khởi kiện
bắt đầu thì đồng thời bắt đầu phát sinh quyền khởi kiện, khi thời hiệu khởi kiện kết
thúc thì tự động mất quyền khởi kiện. Quyền khởi kiện chỉ được thực hiện khi đảm
bảo đầy đủ các điều kiện khởi kiện và thời hiệu khởi kiện là một trong những căn cứ
quan trọng để Tòa án thụ lý và giải quyết vụ án hành chính. Nếu đã hết thời hiệu
khởi kiện vụ án hành chính nói chung và thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính
nói riêng mà cá nhân, cơ quan, tổ chức vẫn khởi kiện thì Tòa án sẽ tiến hành trả lại
đơn khởi kiện theo căn cứ “người khởi kiện không có quyền khởi kiện” tại điểm a
khoản 1 Điều 123 Luật TTHC năm 2015 hoặc tiến hành thụ lý vụ án hành chính sau
đó lại ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều
143 Luật TTHC năm 2015. Trong trường hợp, Tòa án vẫn thụ lý và ra bản án sơ
thẩm dù thời hiệu khởi kiện đã hết thì khi bản án đó bị Tòa án cấp trên (phúc thẩm,
giám đốc thẩm) xem xét lại thì sẽ phải bị hủy án và đình chỉ việc giải quyết vụ án
theo khoản 4 Điều 241, Điều 275 Luật TTHC năm 2015. Theo đó, khi bị đình chỉ
giải quyết vụ án xuất phát từ lý do thời hiệu khởi kiện đã hết thì đương sự không có
quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án đó, chính vì vậy mà thời hiệu
khởi kiện quyết định hành chính có mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết gắn liền với
quyền khởi kiện của chủ thể bị tác động bởi quyết định hành chính.
Ba là, trong những trường hợp khác nhau thì thời hiệu khởi kiện quyết định
hành chính lại có cách xác định thời hạn khác nhau
Đối với trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức trực tiếp khởi kiện ngay ra Tòa
án đối với quyết định hành chính mà không qua việc khiếu nại thì người khởi kiện
phải khởi kiện trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày nhận được, biết được quyết định
hành chính xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Còn trong trường
hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức khiếu nại trước khi khởi kiện thì lại có hai trường
hợp: trường hợp thứ nhất, nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì
thời hiệu khởi kiện sẽ là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định
giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai; trường
hợp thứ hai, thời hiệu khởi kiện vẫn là 01 năm nhưng tính từ ngày hết thời hạn giải
quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại. Ngoài ra,
trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho người
khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn mà pháp luật quy định thì thời hiệu
9
khởi kiện sẽ không bao gồm khoảng thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở
ngại khách quan khác. Như vậy, đối với từng trường hợp cụ thể thì thời hiệu khởi
kiện quyết định hành chính lại có các cách xác định thời hiệu khởi kiện khác nhau.
Bốn là, thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính mang nét tương đồng chứ
không đồng nhất với thời hiệu khởi kiện trong tố tụng dân sự
Tại khoản 3 Điều 150 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định: “Thời hiệu khởi
kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ
án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc
thì mất quyền khởi kiện”16, nếu xét với quy định về thời hiệu khởi kiện tại khoản 1
Điều 116 Luật TTHC năm 2015 thì khái niệm về thời hiệu khởi kiện giữa tố tụng
hành chính và tố tụng dân sự mang nét tương đồng, đồng thời khoản 5 Điều 116
Luật này có nêu: “Các quy định của Bộ luật Dân sự về cách xác định thời hạn, thời
hiệu được áp dụng trong tố tụng hành chính”17, do đó có nhiều ý kiến cho rằng hoạt
động tố tụng hành chính có những nội dung tương đồng với hoạt động tố tụng dân
sự. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của tranh chấp hành chính nên thời hiệu khởi
kiện vụ án hành chính nói chung và thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính nói
riêng vẫn mang những nét khác biệt chứ không đồng nhất với thời hiệu khởi kiện
trong tố tụng dân sự. Nếu tranh chấp dân sự là tranh chấp giữa các bên có địa vị
pháp lý bình đẳng với nhau, đề cao sự thỏa thuận nên việc áp dụng thời hiệu khởi
kiện chỉ đặt ra khi có yêu cầu của một hoặc các bên đương sự thì đối với tranh chấp
hành chính lại không có sự bình đẳng về địa vị pháp lý, bởi một bên là cơ quan
hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước
(hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện một số hoạt động quản lý nhà nước) và
để đảm bảo tính ổn định trong hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước
thì không thể quy định Tòa án phải thụ lý giải quyết tranh chấp hành chính khi có
yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức ở bất kỳ thời điểm nào.
1.2. Ý nghĩa thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính
1.2.1. Đối với cá nhân, cơ quan và tổ chức khởi kiện
Xuất phát từ đặc điểm thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính gắn liền với
quyền khởi kiện vụ án hành chính thì chế định thời hiệu khởi kiện quyết định hành
chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cá nhân, cơ quan và tổ chức khởi kiện.
Quy định này nhằm đảm bảo tốt nhất quyền khởi kiện cho đương sự, bởi lẽ khi thời
hiệu khởi kiện bắt đầu thì quyền khởi kiện cũng bắt đầu phát sinh và khi thời hiệu
16
Khoản 3 Điều 150 Bộ luật Dân sự năm 2015.
17
Khoản 5 Điều 116 Luật TTHC năm 2015.
10
khởi kiện kết thúc thì quyền khởi kiện cũng đồng thời biến mất. Do đó, trong mọi
trường hợp, bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào bị tác động từ quyết định hành
chính được ban hành bởi chủ thể có thẩm quyền cũng đều có khả năng nhận thức
rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, theo đó quy định về thời hiệu
khởi kiện quyết định hành chính là cơ sở để xác định người khởi kiện còn hay
không còn quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án thụ lý và giải quyết vụ án hành chính.
Hơn nữa, chế định này cũng giúp cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện chủ động,
nhanh chóng hơn trong việc tự bảo vệ quyền, lợi ích của bản thân đồng thời cũng
hạn chế sự thụ động, trì hoãn do tâm lý chung của người dân, vì nghĩ rằng dù sao đi
nữa mình cũng sẽ được pháp luật giải quyết và bảo vệ, thậm chí còn kéo dài tới
nhiều thế hệ sau mới chịu đi khởi kiện, tư tưởng này của người dân đã gây ra nhiều
hệ quả tiêu cực, dẫn đến bất ổn xã hội. Thông qua chế định này, người dân cũng
phần nào nâng cao nhận thức về pháp luật vì quy định này sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ nên họ sẽ tập trung, quan tâm cho vấn đề này,
qua đó gián tiếp góp một phần công sức nâng cao trình độ dân trí, hay nói cách khác
quy định về thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính vừa bảo đảm quyền, vừa đặt
ra nghĩa vụ cho người dân trong việc chủ động yêu cầu chủ thể có thẩm quyền bảo
vệ quyền, lợi ích của mình trong một thời hạn nhất định.
1.2.2. Đối với người bị kiện
Cùng với sự biến đổi không ngừng về nhu cầu, điều kiện, hoàn cảnh trong
đời sống thực tiễn thì càng có nhiều tranh chấp hành chính với tính chất đa dạng,
phức tạp. Điều này đã đặt ra một yêu cầu tất yếu khách quan là hệ thống pháp luật
phải từng bước được xây dựng, nâng cao và hoàn thiện cấp bách trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay, do vậy không thể phủ nhận năng lực thích ứng cho sự đồng
bộ, hiệu quả của đội ngũ cán bộ còn gặp nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, ban hành
quyết định hành chính là phương thức hoạt động chủ yếu để thực hiện hoạt động
quản lý nhà nước nên số lượng các quyết định hành chính là rất lớn và đồ sộ, dĩ
nhiên không hiếm thấy các trường hợp chủ thể có thẩm quyền ban hành quyết định
giải quyết công việc không đúng pháp luật. Đặc biệt, cơ quan hành chính nhà nước
hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước (hoặc cơ quan, tổ
chức được giao thực hiện một số hoạt động quản lý nhà nước) là chủ thể nhân danh
Nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, vì vậy
nếu như không quy định thời hiệu khởi kiện thì sẽ tạo sức nặng về khối lượng công
việc và khiến chủ thể quản lý hành chính nhà nước trở nên thụ động, dẫn đến tình
trạng bất ổn xã hội. Nói như vậy, không có nghĩa là việc sai lầm được phép bỏ qua,
mà chủ thể có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính bị khởi kiện phải chủ
11
động “nhận thấy sai lầm để khắc phục, sửa chữa”, vì hiện nay thời hiệu khởi kiện
quyết định hành chính là khoảng thời gian tương đối dài, quyền khởi kiện được mở
rộng nên người bị kiện sẽ thường xuyên có thể bị người dân kiện, qua đó đòi hỏi
người bị kiện phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ,
công vụ, đặc biệt trong việc ban hành ra các quyết định hành chính của cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Như vậy, quy định về thời hiệu
khởi kiện quyết định hành chính được xem như là “sự cảnh báo, nhắc nhở” để chủ
thể quản lý hành chính nhà nước cân nhắc và thận trọng hơn trong việc ban hành
quyết định hành chính, góp phần nâng cao hoạt động quản lý nhà nước.
1.2.3. Đối với Tòa án
Việc xác định đúng thời hiệu khởi kiện có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt
động giải quyết tranh chấp hành chính của Tòa án. Nếu không có quy định về thời
hiệu khởi kiện thì người dân có thể thực hiện việc khởi kiện đối với quyết định hành
chính của cơ quan nhà nước ở bất kỳ thời điểm nào, nếu điều đó xảy ra thì Tòa án
sẽ phải chịu sức ép rất lớn về khối lượng công việc cũng như mất đi tính chủ động
trong việc giải quyết các tranh chấp hành chính. Mặt khác, khi giải quyết những
tranh chấp này, thì việc thu thập chứng cứ thường gặp nhiều khó khăn, trở ngại nên
để thụ lý, giải quyết các tranh chấp hành chính xảy ra đã lâu chắc chắn khó khăn
hơn rất nhiều so với những tranh chấp mới xảy ra. Điều này làm cho hiệu quả của
việc xét xử của Tòa án phần nào bị hạn chế, vì vậy để đảm bảo tính ổn định trong
hoạt động giải quyết vụ án hành chính thì thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là
một trong những căn cứ để Tòa án tiếp tục xem xét thụ lý và giải quyết vụ án. Việc
Tòa án xác định thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính còn hay hết sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền công dân – quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
theo quy định tại Điều 5 Luật TTHC năm 2015. Đồng thời, xác định đúng thời hiệu
khởi kiện cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm giải quyết của
Tòa án đối với các tranh chấp phát sinh trong hoạt động quản lý hành chính nhà
nước, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết vụ án hành chính nói chung.
1.3. Những quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện quyết định
hành chính
Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính nói chung và thời hiệu khởi kiện quyết
định hành chính nói riêng là một chế định pháp luật vô cùng quan trọng, bởi việc
xác định thời hiệu khởi kiện là căn cứ tiên quyết để xác định chủ thể bị tác động bởi
quyết định hành chính có còn hay không quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết
vụ án hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời việc xác
12
định đúng thời hiệu khởi kiện kiện cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động
giải quyết tranh chấp hành chính của Tòa án. Chính vì vậy, Luật TTHC năm 2015
đã dành riêng Điều 116 để quy định về thời hiệu khởi kiện nói chung và thời hiệu
khởi kiện quyết định hành chính nói riêng. Ngoài ra, còn có một số điều luật có liên
quan đến thời hiệu khởi kiện được quy định tại một số Chương khác nhau của Luật
TTHC năm 2015. Căn cứ vào các quy định này, thời hiệu khởi kiện quyết định hành
chính được quy định bao gồm: thời hạn được quyền khởi kiện, cách thức xác định
thời hiệu khởi kiện và các trường hợp không được tính vào thời hiệu khởi kiện
quyết định hành chính.
1.3.1. Về thời hạn được quyền khởi kiện
Hiện nay, thời hạn được quyền khởi kiện quyết định hành chính được quy
định tại điểm a khoản 2 và khoản 3 Điều 116 Luật TTHC năm 2015. Xét thấy thời
hạn pháp luật tố tụng hành chính hiện hành đặt ra thời hạn khởi kiện đối với quyết
định hành chính trong từng trường hợp cụ thể vẫn có mức chung là 01 năm, các đối
tượng khởi kiện vụ án hành chính khác có các mốc thời hạn khởi kiện khác nhau
như 05 ngày đối với khởi kiện về danh sách cử tri; 30 ngày đối với quyết định giải
quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu
nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước; 01 năm đối với hành vi hành chính, quyết
định kỷ luật buộc thôi việc18. Trong khi đó, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, lấy ví
dụ về thời hiệu thừa kế thì với mỗi trường hợp khác nhau lại đặt ra các mốc thời hạn
khác nhau nhưng tương đối dài như: 3 năm, 10 năm, thậm chí là 30 năm19. Như vậy,
01 năm là khoảng thời gian tương đối, không quá ngắn cũng không quá dài, vừa
phù hợp đảm bảo điều kiện cho cá nhân, cơ quan, tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình khi tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước, vừa ổn định cho
hoạt động chung của cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
So với Pháp lệnh TTGQVAHC và Luật TTHC năm 2010 thì thời hiệu khởi
kiện quyết định hành chính theo Luật TTHC năm 2015 đã có nhiều điểm tiến bộ.
Theo Pháp lệnh TTGQVAHC thì thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính được
quy định nhiều trường hợp khác nhau với các mốc thời gian khác nhau, ví dụ: 30
ngày đối với đa số các khiếu kiện quyết định hành chính; ở các trường hợp như:
khởi kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai hoặc đối với vùng sâu, vùng xa
đi lại khó khăn thì thời hạn khởi kiện quyết định hành chính quy định tại các điểm
a, b và đ khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh TTGQVAHC là 45 ngày. Quy định của Pháp
lệnh về thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính rất phức tạp và khó tiếp cận, thời
18
19
Khoản 2 Điều 116 Luật TTHC năm 2015.
Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015.
13
hạn được quyền khởi kiện lại ngắn nên gây khó khăn cho người khởi kiện trong
việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Vì lẽ đó, Luật TTHC năm 2010 tại
điểm a khoản 2 Điều 104 đã có sự thay đổi nhằm khắc phục nhược điểm trên bằng
việc quy định thời hiệu khởi kiện tương ứng với từng đối tượng khiếu kiện đảm bảo
tính đặc thù riêng, cụ thể đối với quyết định hành chính thì thời hạn khởi kiện là 01
năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính.
Nếu chỉ quy định duy nhất một trường hợp về thời hạn khởi kiện như trên thì
quyền khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức sẽ gặp nhiều hạn chế, trong đó có
nguyên nhân xuất phát từ chính cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại. Thực tiễn hoạt động quản lý hành chính cho thấy, các tranh chấp phát sinh
trong hoạt động quản lý hành chính diễn ra thường xuyên, khi không đồng ý với
quyết định hành chính, người dân thường thực hiện quyền khiếu nại trước khi nghĩ
đến việc thực hiện thủ tục tố tụng hành chính. Trong khi đó, không phải tất cả đơn
khiếu nại đều được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết đúng thời hạn và
đúng căn cứ pháp luật, cộng thêm nhận thức pháp lý của người dân chưa cao nên họ
không thực hiện được quyền khởi kiện vụ án trong thời hạn luật định20. Khắc phục
những bất cập trên, Luật TTHC năm 2015 đã quy định về Thời hiệu khởi kiện quyết
định hành chính tại điểm a khoản 2 và khoản 3 Điều 116 như sau:
2. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:
a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính,…
…
3. Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ
quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện
được quy định như sau:
a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại
lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
b) 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp
luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn
bản trả lời cho người khiếu nại21.
Theo quy định, hiện nay có hai phương thức để cá nhân, cơ quan, tổ chức có
thể bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi bị tác động bởi quyết định hành
chính đó là khiếu nại hoặc khởi kiện ra Tòa án. Trong trường hợp, cá nhân, cơ quan,
tổ chức lựa chọn khiếu nại quyết định hành chính trước khi khởi kiện ra Tòa án thì
20
Nguyễn Thị Thế (2018), “Bàn về việc áp dụng quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện trong tố tụng
hành chính”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (20), tr. 38.
21
Điểm a khoản 2 và khoản 3 Điều 116 Luật TTHC năm 2015.
14
- Xem thêm -