Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thời hạn tố tụng dân sự...

Tài liệu Thời hạn tố tụng dân sự

.PDF
85
110
80

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TRÍ TUYỂN THỜI HẠN TỐ TỤNG DÂN SỰ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TRÍ TUYỂN THỜI HẠN TỐ TỤNG DÂN SỰ Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình HÀ NỘI - 2014 2 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn TrÝ TuyÓn 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt 1 MỞ ĐẦU Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HẠN TỐ TỤNG 7 DÂN SỰ 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của thời hạn tố tụng dân sự 7 1.1.1. Khái niệm thời hạn tố tụng dân sự 7 1.1.2. Ý nghĩa của thời hạn tố tụng dân sự 10 1.2. 13 Cơ sở của việc pháp luật quy định về thời hạn tố tụng dân sự 1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định về thời hạn tố tụng 13 dân sự 1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định về thời hạn tố 16 tụng dân sự 1.3. Sơ lược sự hình thành và phát triển các quy định của pháp 18 luật Việt Nam về thời hạn tố tụng dân sự 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 18 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004 20 1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay 22 Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT 25 NAM HIỆN HÀNH VỀ THỜI HẠN TỐ TỤNG DÂN SỰ 2.1. Thời hạn tố tụng dân sự trong thủ tục sơ thẩm 25 2.1.1. Thời hạn thụ lý đơn khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự 25 2.1.2. Thời hạn chuẩn bị mở phiên tòa, phiên họp 29 2.1.3. Thời hạn tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng 34 4 2.2. Thời hạn tố tụng dân sự trong thủ tục phúc thẩm 39 2.2.1. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định 39 2.2.2. Thời hạn chuẩn bị mở phiên tòa, phiên họp 46 2.2.3. Thời hạn tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng 49 Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP 53 LUẬT VỀ THỜI HẠN TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về thời hạn tố 53 tụng dân sự 3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định 53 của pháp luật về thời hạn tố tụng dân sự 3.1.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của hạn chế, bất cập 55 trong việc thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về thời hạn tố tụng dân sự 3.2. Một số kiến nghị về hoàn thiện và thực hiện pháp luật Việt 68 Nam về thời hạn tố tụng dân sự 3.2.1. Kiến nghị về việc hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt 68 Nam về thời hạn tố tụng dân sự 3.2.2. Kiến nghị thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về 72 thời hạn tố tụng dân sự KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77 5 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật dân sự BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sinh thời Bác Hồ có dạy mỗi cán bộ, công chức của ngành Tòa án phải thực sự là người "phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư", phải "hiểu dân, gần dân, giúp dân và học dân". Hưởng ứng lời dạy đó ngày nay cả nước, đặc biệt là các cán bộ công chức ngành Tòa án đang tích cực tham gia vào cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Mặc dù còn nhiều khó khăn thách thức nhưng với những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, nền kinh tế của đất nước ta trong những năm qua không ngừng phát triển, đạt được những thành tựu quan trọng: an ninh chính trị, trật tự xã hội cũng không ngừng được giữ vững; văn hóa nghệ thuật được duy trì, bảo tồn và phát huy…tất cả đã tạo nên một nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", một nước Việt Nam có uy tín và vị thế cao trong khu vực và trên trường quốc tế. Có thể khẳng định với những thành tựu quan trọng này đáng để nhân dân ta tự hào và tin tưởng vào đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và sự phát triển của đất nước ta. Trong những năm qua, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, nhất là đội ngũ cán bộ còn thiếu, cơ sở vật chất và phương tiện còn nghèo nàn, trong khi số lượng các vụ án phải giải quyết ngày một gia tăng, ngành Tòa án đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu công tác đề ra, đồng thời tích cực triển khai thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp như nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, khẩn trương hoàn thành việc giao thẩm quyền xét xử mới cho Tòa án cấp huyện, tăng cường công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân… Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đang gia tăng không ngừng với tính chất ngày càng đa dạng và phức tạp, trong khi đó, vì nhiều 7 nguyên nhân khác nhau mà việc xây dựng, củng cố và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án chưa đáp ứng được yêu cầu xét xử trong tình hình mới của cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Mặt khác, nhiều quy định của pháp luật tố tụng dân sự còn mang tính chung chung, thậm chí xa rời với đời sống thực tiễn…chính điều đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng xét xử vụ án, gây ra tình trạng các bản án, quyết định của Tòa án không khách quan, án tồn đọng còn nhiều, ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của các chủ thể, gây mất lòng tin của nhân dân. Đứng trước tình hình đó, vấn đề cấp bách đặt ra là phải hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng dân sự nói riêng sao cho thống nhất, đồng bộ và khả thi trong thực tế mà một trong số đó là các quy định về thời hạn tố tụng trong tố tụng dân sự. Việc xác định thời hạn tố tụng có ý nghĩa hết sức quan trọng không chỉ trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể, là căn cứ để Tòa án giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, kịp thời, chính xác mà việc xác định thời hạn tố tụng còn có ý nghĩa trong việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người liên quan trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Tuy nhiên, một số quy định về thời hạn tố tụng trong Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS đã bộc lộ những hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu, xem xét sửa đổi một cách tổng thể cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Chính vì những lý do nêu trên, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài "Thời hạn tố tụng dân sự" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ trước đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về tố tụng dân sự ít nhiều đề cập đến thời hạn tố tụng dân sự ở các mức độ khác nhau. Về đề tài nghiên cứu khoa học có công trình nghiên cứu cấp Bộ "Một số vấn đề về 8 cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự" do Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) thực hiện năm 1996; công trình nghiên cứu cấp Bộ "Những quan điểm cơ bản về Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam" do Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia thực hiện năm 2001. Về giáo trình, có Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2011; Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, 2011; Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Học viện Tư pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2007. Về luận văn cao học có Hoàn thiện chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội của Nguyễn Thu Hiền, 2012. Trong quá trình xây dựng và sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS được ban hành, đã có nhiều cuộc hội thảo được tổ chức có các bài tham luận liên quan như "Hội thảo về Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự" do TANDTC tổ chức tại Sa Pa ngày 29 và 30/01/2010; bài "Những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự" của Phạm Quý Tỵ, đăng trên tạp chí Kiểm sát số 12/2011... Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả nêu trên chỉ nghiên cứu, đề cập đến một hoặc một số vấn đề của thời hạn tố tụng dân sự. Cho đến nay, nhất là từ sau khi có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện các vấn đề về lý luận và thực tiễn về thời hạn tố tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về thời hạn tố tụng dân sự, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thời hạn tố tụng dân sự và thực hiện các quy định này tại các Tòa án Việt Nam. 9 Phạm vi nghiên cứu đề tài: "Thời hạn tố tụng dân sự" là một đề tài có nội dung rất rộng. Tuy nhiên do giới hạn của luận văn thạc sĩ và điều kiện thời gian nghiên cứu nên việc nghiên cứu chỉ tập trung vào một số vấn đề lý luận cơ bản về thời hạn tố tụng dân sự như khái niệm và ý nghĩa của thời hạn tố tụng dân sự, các quy định của BLTTDS, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành về thời hạn tố tụng dân sự ở Tòa án nhân dân (TAND) cấp sơ thẩm, phúc thẩm và thực tiễn áp dụng các quy định này trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại các Tòa án đó trong những năm gần đây. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về thời hạn tố tụng dân sự; nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thời hạn tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện các quy định này tại Tòa án. Qua việc nghiên cứu nhận diện, phát hiện những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thời hạn tố tụng từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục để góp phần nâng cao hiệu quả công tác xét xử của Tòa án, bảo vệ tối đa quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể khi bị xâm phạm. Xuất phát từ mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu những vấn đề lý luận về thời hạn tố tụng dân sự, nhất là thời hạn tố tụng dân sự ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm, các quy định của pháp luật hiện hành về thời hạn tố tụng và khảo sát việc thực hiện các quy định này tại các Tòa án. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 10 Phương pháp nghiên cứu của luận văn là đi từ lý luận đến thực tiễn, dùng thực tiễn để kiểm chứng lý luận. Quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả cũng đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống như phương pháp thống kê, phân tích, khảo sát, tổng hợp, so sánh... để thực hiện đề tài. Để chứng minh cho các luận điểm của mình, tác giả cũng đã sử dụng các số liệu thống kê của ngành TAND và lựa chọn một số vụ án đã được các Tòa án cấp huyện xét xử làm ví dụ minh họa. 6. Những điểm mới về khoa học của luận văn Đây là công trình nghiên cứu khoa học pháp lý có tính hệ thống về những vấn đề liên quan đến thời hạn tố tụng dân sự (ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm) giúp các độc giả, đặc biệt là những người đang làm công tác thực tiễn hiểu biết sâu sắc hơn về thời hạn tố tụng. Những điểm mới về khoa học của luận văn thể hiện ở những điểm cơ bản sau: - Hoàn thiện khái niệm thời hạn tố tụng dân sự và phân tích khoa học ý nghĩa của thời hạn tố tụng dân sự. - Phân tích làm rõ nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thời hạn tố tụng dân sự. - Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thời hạn tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại các Tòa án. - Đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thời hạn tố tụng dân sự. Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, trong một chừng mực nhất định có thể làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu chuyên sâu về tố tụng dân sự và cho các cán bộ làm công tác thực tiễn (Thẩm phán, Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý...) trong việc hiểu biết một cách sâu sắc, đầy đủ và vận dụng đúng đắn các quy định của pháp luật khi áp dụng chế định thời hạn tố tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam. 11 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thời hạn tố tụng dân sự. Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thời hạn tố tụng dân sự. Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về thời hạn tố tụng dân sự và kiến nghị. 12 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HẠN TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA THỜI HẠN TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm thời hạn tố tụng dân sự Pháp luật là một hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp, khi tham gia vào các quan hệ xã hội đó, các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ của mình mà luật đã định có thể sẽ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác và điều này sẽ dẫn đến tranh chấp quyền và lợi ích giữa các chủ thể trong một hoặc nhiều quan hệ pháp luật dân sự. Để duy trì, bảo đảm trật tự pháp luật, Nhà nước thiết lập một cơ chế bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong trường hợp quyền của họ bị các chủ thể pháp luật dân sự khác xâm phạm. Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức hay các chủ thể khác của pháp luật có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm thì có quyền sử dụng các biện pháp luật định để bảo vệ quyền, lợi ích dân sự của mình. Do vậy, khi chủ thể yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích dân sự hợp pháp của mình thì Tòa án phải xem xét thụ lý giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu. Tuy nhiên, việc giải quyết các vụ việc dân sự này phải tuân theo trình tự, thủ tục pháp luật nhất định. Trong khoa học pháp lý chúng ta gọi trình tự, thủ tục luật định đó là tố tụng dân sự và những hoạt động của các chủ thể nêu trên trong quá trình tiến hành giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật được gọi là hoạt động tố tụng dân sự. Theo quy định tại Điều 1 BLTTDS thì tố tụng dân sự bao gồm việc khởi kiện, thụ lý, hòa giải, chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và thi hành bản án, quyết định của Tòa án. 13 Trước đây, khi BLTTDS chưa được ban hành, trong tất cả các văn bản pháp luật về tố tụng dân sự hầu như chưa có khái niệm về vụ việc dân sự mà chỉ có khái niệm về vụ án dân sự. Khái niệm vụ án dân sự được hiểu là tất cả những loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, không phân biệt đó là vụ án thuộc loại gì và thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật nội dung nào. Điều này được thể hiện ngay tại Điều 1 Luật Tổ chức TAND năm 2002, theo đó: "Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật". Ngay Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 cũng đều xác định gọi tên chung của những loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là các vụ án, không có sự phân biệt vụ việc có tranh chấp hay không có tranh chấp. Khi BLTTDS được ban hành, tại Điều 1 Bộ luật này đã có sự phân biệt giữa các vụ việc có tranh chấp và vụ việc không có tranh chấp. Theo đó, vụ việc dân sự bao gồm vụ án dân sự và việc dân sự. Vụ án dân sự là việc có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại hoặc lao động giữa các bên. Việc dân sự là việc không có tranh chấp giữa các bên nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ để làm phát sinh hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự hoặc yêu cầu Tòa án công nhận cho mình một quyền dân sự. Việc giải quyết các vụ việc dân sự tiến hành nhanh chóng sẽ giải quyết được tranh chấp, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Để thực hiện được điều này thì mỗi hành vi của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đều phải tiến hành trong một khoảng thời gian nhất định. Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý thì: "Thời hạn là khoảng thời gian quy định để làm xong hoặc chấm dứt việc nào đó" [33, tr. 1530]; theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ, Viện Khoa học - Xã hội - Nhân 14 văn thì: "Thời hạn là khoảng ngày giờ có giới hạn, có định trước, không được quá" [32, tr. 962]; trong khi đó cuốn Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam của GS. Nguyễn Lân lại giải thích thời hạn là "khoảng thời gian có giới hạn nhất định để làm việc gì" [10, tr. 1764]. Như vậy có thể thấy về mặt nội hàm thì các từ điển đều giải thích thời hạn là một khoảng thời gian để làm hoặc chấm dứt một công việc nhất định. Dưới góc độ pháp lý, Điều 149 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 quy định, thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác. Thời hạn có thể được xác định bằng phút, giờ, tuần, ngày, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có thể xảy ra. Xác định thời hạn nhằm mục đích xác định một công việc, một hành vi nhất định được thực hiện như thế nào về mặt thời gian. Là một loại thời hạn, trước hết thời hạn tố tụng dân sự cũng có những nội dung của thời hạn nói chung [8, tr. 232]. Khoản 1 Điều 157 BLTTDS quy định thời hạn tố tụng là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác để người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan thực hiện hành vi tố tụng do BLTTDS quy định. Trong tố tụng dân sự, thời hạn tố tụng là khoảng thời gian được xác định gắn liền với toàn bộ trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, bắt đầu từ khi Tòa án nhận đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự và kết thúc khi vụ việc được giải quyết xong. Toàn bộ trình tự giải quyết vụ việc dân sự lại bao gồm nhiều thủ tục tố tụng, nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau. Mỗi thủ tục, mỗi giai đoạn tố tụng lại có quy định thời hạn tố tụng cụ thể (ví dụ giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án có quy định riêng về thời hạn thực hiện. Trong giai đoạn khởi kiện và thụ lý lại quy định thời hạn để thực hiện từng thủ tục, như từ lúc nhận đơn đến khi thông báo cho đương sự bổ sung các chứng cứ, tài liệu theo quy định của pháp luật tố tụng phải thực hiện trong bao 15 lâu. Hoặc từ khi đương sự hoàn tất thủ tục khởi kiện đến khi Tòa án thụ lý vụ việc thì thời gian được quy định như thế nào). Thời hạn trong tố tụng dân sự có điểm khác biệt với thời hạn trong luật dân sự [27, tr. 211]. Thời hạn dân sự có thể do pháp luật quy định hoặc được xác lập trên cơ sở sự thỏa thuận của các đương sự trong khi đó thời hạn tố tụng dân sự chỉ do pháp luật quy định hoặc do người có thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng ấn định theo quy định của pháp luật, các đương sự và những người khác nói chung không có quyền thỏa thuận xác lập thời hạn tố tụng. Điểm khác biệt nữa là nếu thời hạn dân sự theo thời gian liên tục thì thời hạn tố tụng dân sự có thể bị gián đoạn bởi các ngày nghỉ của các cán bộ, công chức viên chức như ngày thứ bảy, chủ nhật hoặc các ngày lễ, tết. Lý do là bởi các hoạt động tố tụng được thực hiện phải thông qua các cơ quan tiến hành tố tụng. Hơn nữa hoạt động tố tụng dân sự thường diễn ra ban ngày để đảm bảo tính công khai, minh bạch của việc giải quyết vụ việc dân sự nên thời hạn tố tụng được tính bằng ngày, tháng, năm là chủ yếu, ít khi thời hạn tố tụng được tính bằng giờ như thời hạn dân sự. Từ những vấn đề nêu trên, có thể kết luận: Thời hạn tố tụng dân sự là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác để người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan thực hiện hành vi theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. 1.1.2. Ý nghĩa của thời hạn tố tụng dân sự Pháp luật quy định thời hạn tố tụng dân sự không chỉ xác định thời gian giải quyết xong một vụ việc dân sự mà còn xác định từng công việc phải làm trong từng khoảng thời gian nhất định. Bởi thế thời hạn tố tụng dân sự không chỉ có ý nghĩa đơn thuần về mặt thời gian mà còn là những mốc để người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến quá trình tố tụng xác định những công việc mà các chủ thể này phải làm đã được thực hiện và thực hiện xong hay chưa. Thời hạn tố 16 tụng dân sự được xác định bằng giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có thể xảy ra. Ví dụ 1: Khoản 1 Điều 172 BLTTDS quy định trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán giải quyết vụ án [18]. Ví dụ 2: Khoản 1 Điều 208 BLTTDS quy định thời hạn hoãn phiên tòa dân sự sơ thẩm không quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa [18]. Từ đó cho thấy thời hạn tố tụng dân sự có những ý nghĩa cơ bản sau: Thứ nhất, xác định từng công việc phải làm trong từng khoảng thời gian nhất định. Ví dụ: Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Tòa án phải xem xét và ra một trong số các quyết định sau: tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền của mình hoặc chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án khác hoặc trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Điều 167 BLTTDS); Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công phụ trách giải quyết vụ án bắt buộc phải tiến hành hòa giải, trừ các vụ án không được hòa giải (Điều 181 BLTTDS) hoặc không tiến hành hòa giải được (Điều 182 BLTTDS). Thứ hai, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người liên quan trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ làm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Thụ lý vụ án và giải quyết vụ án là trách nhiệm của Tòa án khi đương sự khởi kiện; cấp, tống đạt, thông báo các văn bản, quyết định tố tụng là trách 17 nhiệm của Tòa án, của Thẩm phán phụ trách. BLTTDS đã có những quy định cụ thể về thời hạn để Tòa án, Thẩm phán tiến hành các hoạt động này tại các giai đoạn tố tụng khác nhau. Việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời, chính xác không chỉ có ý nghĩa đối với riêng đương sự (tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc, bảo vệ được quyền lợi chính đáng), mà còn rất có ý nghĩa với chính Tòa án, đặc biệt niềm tin của người dân đối với ngành Tòa án được củng cố. Trong những năm gần đây, tình trạng án bị hủy, bị sửa, án quá hạn có xu hướng giảm nhẹ hoặc không tăng thể hiện sự cố gắng, nỗ lực rất lớn của ngành Tòa án. Để duy trì được tỷ lệ này và xa hơn nữa là giảm tỷ lệ án bị hủy, sửa, quá hạn thì nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là một trong những yếu tố then chốt. Ví dụ: Điều 174 BLTTDS quy định trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án [18]. BLTTDS quy định là trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án có nghĩa là Tòa án có thể gửi thông báo ngay khi ra quyết định thụ lý vụ án; Tòa án cũng có thể gửi vào ngày hôm sau hoặc ngày cuối cùng của thời hạn ba ngày đều không sai luật. Tuy nhiên, khi đã nhận thức được trách nhiệm của mình, nhận thức được ý nghĩa của việc giải quyết vụ án nhanh chóng… như đã phân tích ở trên thì Tòa án sẽ phải thông báo trong khoảng thời gian ngắn nhất trong thời hạn ba ngày. Thứ ba, xác định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người liên quan trong trường hợp họ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ và quyền hạn của họ trong thời hạn tố tụng cụ thể. Ví dụ: Nhận đơn khởi kiện là hành vi tố tụng có ý nghĩa bắt đầu xác định trách nhiệm giải quyết yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện. Về 18 nguyên tắc, người khởi kiện gửi đơn khởi kiện thì Tòa án phải có trách nhiệm nhận đơn. Còn việc đơn có hợp pháp hay không, có đủ tài liệu chứng cứ kèm theo hay không thì luật đã quy định thời hạn để xem xét vấn đề này là năm ngày kể từ ngày nhận đơn. Mặt khác, chỉ khi nhận đơn (vào sổ) mới phát sinh trách nhiệm xem xét tính hợp pháp của đơn của người khởi kiện. Vì vậy, cán bộ Tòa án có nhiệm vụ nhận đơn không thể từ chối nhận đơn của người khởi kiện khi chưa nhận và vào sổ nhận đơn. Người khởi kiện có quyền khởi kiện tuy nhiên người khởi kiện cũng có trách nhiệm là phải đưa ra tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp. Khoản 4 Điều 79 BLTTDS quy định: "Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó" [18]. 1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH VỀ THỜI HẠN TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định về thời hạn tố tụng dân sự Quyền và lợi ích của các chủ thể là một vấn đề rất quan trọng, đảm bảo tốt được quyền và lợi ích của các chủ thể sẽ là động lực to lớn để các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội, các giao dịch dân sự. Khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại, các chủ thể có thể sử dụng nhiều biện pháp trong đó khởi kiện vụ án dân sự hoặc làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự là công cụ pháp lý hữu hiệu nhất. Việc giải quyết các vụ việc dân sự tiến hành nhanh chóng sẽ sớm giải quyết được tranh chấp, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Để thực hiện được điều này thì mỗi hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đều phải tiến hành trong một khoảng thời gian nhất định, khoảng thời gian này 19 được gọi là thời hạn tố tụng. Thời hạn tố tụng là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác để người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan thực hiện hành vi theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Các loại thời hạn tố tụng gồm có: thời hạn giao nộp chứng cứ; thời hạn xem xét đơn khởi kiện; thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; thời hạn kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án; thời hạn cấp, tống đạt và thông báo các văn bản tố tụng; thời hạn khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong tố tụng dân sự v.v… Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định về thời hạn tố tụng dân sự nằm ở những điểm sau: - Khi quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể bị xâm phạm, các chủ thể có quyền sử dụng các biện pháp để bảo vệ như: tự bảo vệ; yêu cầu công nhận quyền dân sự của mình; yêu cầu chủ thể vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên khi các biện pháp nêu trên không phát huy hiệu quả thì các chủ thể quyền chỉ còn sự lựa chọn tối ưu nhất là khởi kiện hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự. Lúc này các quy định của pháp luật tố tụng nói chung và các quy định về thời hạn tố tụng dân sự nói riêng sẽ chính là công cụ pháp lý hữu hiệu để các chủ thể có thể bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Các chủ thể sẽ biết được thời hạn chuẩn bị xét xử tranh chấp, giải quyết yêu cầu của mình là bao lâu; nếu không đồng ý với bản án quyết định của Tòa án thì thời hạn kháng cáo bản án là như thế nào; thời hạn được cấp, nhận tống đạt và được thông báo văn bản tố tụng là bao nhiêu ngày…Khi quyền lợi chính đáng của các chủ thể được giải quyết thỏa đáng, niềm tin của nhân dân vào pháp luật, vào bộ máy nhà nước sẽ được nâng cao, xã hội sẽ ổn định, trật tự và các giao dịch dân sự sẽ ngày một phát triển. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan