A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong quá trình tiến hành tố tụng, giai đoạn xét xử chiếm vị trí rất quan trọng.
Bởi các giai đoạn khác có đạt được hiệu quả hay không có vai trò rất lớn ở công
tác xét xử tại tòa án. Nước ta ghi nhận và đảm bảo thực hiện nghiêm ngặt nguyên
tắc hai cấp xét xử là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Trong đó, xét xử sơ
thẩm được quy định chặt chẽ từ thẩm quyền xét xử, chuẩn bị xét xử, những quy
định chung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa cho đến khi xét hỏi, tranh luận tại
phiên tòa, nghị án và tuyên án. Nói riêng vấn đề thẩm quyền xét xử sơ thẩm
được quy định rất cụ thể trong chương XVI Bộ luật tố tụng Hình sự 2003
(BLTTHS). Hiện nay thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được quy định
khá phù hợp với thực tiễn cũng như năng lực xét xử của Tòa án nước ta. Tuy
nhiên, do những điều kiện khách quan và chủ quan, các quy định của luật tố tụng
Hình sự vẫn còn nhiều hạn chế và rất cần có những đề xuất đổi mới và hoàn
thiện nó. Với nội dung bài tập lớn học kì em xin lựa chọn đề tài: “Thẩm quyền
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và việc hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề
này”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1. Khái niệm thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và căn cứ quy định
thẩm quyền xét xử.
Theo giáo trình luật TTHS trường Đại học Luật Hà Nội: “Thẩm quyền xét xử
sơ thẩm là quyền mà pháp luật quy định cho phép Tòa án được xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội;
đối tượng phạm tội; nơi thực hiện tội phạm hoặc nơi khác theo quy định của
pháp luật”. Đây là một khái niệm hẹp giới hạn trong phạm vi nghiên cứu về
thẩm quyền xét xử của Tòa án theo quy định tại Chương XVI của Bộ luật TTHS
(thẩm quyền hình thức) còn xét một cách rộng hơn thẩm quyền xét xử của tòa án
1
còn bao gồm cả thẩm quyền nội dung bao gồm cả quyền hạn giải quyết, quyết
định của tòa án đối với những vấn đề cần được xem xét mà trong phạm vi bài
làm này sẽ không đề cập đến.
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được phân định theo những căn cứ
sau: căn cứ vào đường lối chính sách của Đảng; các nguyên tắc cơ bản của luật
TTHS; tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; tính chất
nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm; trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người
tiến hành tố tụng; số lượng cán bộ và cơ sở vật chất của cơ quan tiến hành tố
tụng và căn cứ vào tình hình tội phạm và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm. Dựa trên những căn cứ này, pháp luật hiện hành phân định thẩm quyền
của Tòa án như sau:
- Thẩm quyền xét xử theo sự việc: là sự phân định thẩm quyền xét xử gữa
Tòa án các cấp với nhau căn cứ vào tính chất của tội phạm.
- Thẩm quyền xét xử theo đối tượng: là sự phân định thẩm quyền xét xử gữa
TAND và TAQS căn cứ vào đối tượng của tội phạm.
- Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ: là sự phân định thẩm quyền xét xử căn cứ
vào nơi tội phạm được thực hiện và nơi kết thúc điều tra.
2. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Toà án theo quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự
2.1 Thẩm quyền xét xử theo sự việc
* Thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án quân sự khu vực
Khoản 1 Điều 170 BLTTHS 2003 quy định Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa
án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít
nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây:
- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
- Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
2
- Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223,
224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự năm
1999.
Như vậy theo khoản 1 Điều 170 BLTTHS, thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự (VAHS) của TAND huyện và TAQS khu vực bao gồm các loại tội phạm
có mức hình phạt cao nhất được quy định trong Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi
2009 (BLHS) là 15 năm tù, trừ trường hợp quy định tại điểm a, b, c khoản 1
Điều 170. So với quy định của BLTTHS 1988, thầm quyền xét xử sơ thẩm quy
định theo hướng tăng cường thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện. Đây cũng
là một biện pháp giảm lượng án tồn đọng ở TAND cấp tỉnh và Tòa phúc thẩm
TAND tối cao. Đây là một bước cải cách phù hợp với chuyên môn, cơ sở vật
chất của ngành Tòa án. Vấn đề này đã được hướng dẫn tại Mục 3 Nghị quyết 24/
2003/QH11 về việc thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự 2003.
Việc mở rộng thẩm quyền cho TAND huyện xuất phát từ lí do sau:
Một là, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán ở hầu hết Toà án cấp
huyện ngày càng được nâng cao và có khả năng xét xử được những vụ án mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là 15 năm tù trở xuống. Hai là,
việc tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án cấp huyện sẽ tránh được việc tồn đọng
án cấp tỉnh, dành thời gian cho Tòa cấp tỉnh tập trung xét xử phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm. Ba là, cơ sở vật chất của Tòa án cấp huyện phần nào đã được
cải thiện nâng cấp. Số lượng biên chế thẩm phán ổn định cũng chính là lí do giúp
cho ngành Tòa án làm việc tốt hơn. Bốn là, giảm bớt được chi phí và thời gian
tiến hành tố tụng, tránh được việc trì hoãn phiên tòa vì lí do vắng mặt của người
tham gia tố tụng. Năm là, một trong những mục đích của việc xét xử là giáo dục
quần chúng nhân dân chấp hành đúng pháp luật, và việc xét xử ở Tòa cấp huyện
có thể thực hiện tốt mục đích này.
* Thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân sự cấp quân khu
3
Khoản 2 Điều 170 Bộ luật TTHS 2003 quy định: “Tòa án nhân dân cấp tỉnh và
Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội
phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân
sự khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình
lấy lên để xét xử ”. So với những quy định trước đây, thẩm quyền xét xử sơ thẩm
của Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân sự cấp quân khu được quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự không có gì khác nhau. Toà án nhân dân cấp tỉnh
và Toà án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hai loại việc sau:
- Những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án
nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực.
Đó là những VAHS về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, hoặc những vụ án không
thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều
170 BLTTHS.
- Những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử.
Bộ luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể những vụ án nào thuộc thẩm
quyền của Toà án cấp huyện nhưng Toà án cấp tỉnh lấy lên để xét xử. Do đó,
Chánh án Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát và Thủ trưởng cơ quan điều tra cấp
tỉnh cần căn cứ vào khả năng thực tế của các Thẩm phán, Kiểm sát viên và Điều
tra viên ở cấp huyện mà xác định những loại vụ án nào cần lấy lên để điều tra,
truy tố và xét xử ở cấp tỉnh. Cơ quan điều tra cần lấy lên để điều tra, truy tố và
xét xử các vụ án sau:
+) Những vụ án có tính chất phức tạp (có nhiều tình tiết khó đánh giá thống nhất
về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành);
+) Những vụ án mà bị cáo là thẩm phán, kiểm sát viên, sỹ quan công an, cán bộ
lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người nước ngoài, người có chức sắc trong tôn
giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.
4
2.2 Thẩm quyền xét xử theo đối tượng
Trong BLTTHS 2003 không có điều luật cụ thể phân định đối tượng nào
thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự, đối tượng nào thuộc thẩm quyền
của Toà án nhân dân. Tuy nhiên trong Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự 2002 có
quy định về thẩm quyền xét xử của TAQS. Cụ thể Điều 3 Pháp lệnh tổ chức Toà
án quân sự năm 2002 quy định: “Các Toà án quân sự có thẩm quyền xét xử
những vụ án hình sự mà bị cáo là:
1. Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong
thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân
quân, tự vệ phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và
những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực
tiếp quản lý;
2. Những người không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này mà
phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội”.
Dấu hiệu đối tượng tội phạm phân biệt rõ thẩm quyền giữa tòa án quân sự và tòa
án nhân dân. Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử hầu hết các đối tượng phạm
tội trừ các đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự (theo Điều 3
pháp lệnh trên). Còn trong các tòa án quân sự thì việc phân định thẩm quyền xét
xử giữa các cấp lại cũng theo cấp bậc, chức vụ quân nhân (Điều 26, Điều 29
Pháp lệnh).
Ngoài những tội phạm có đối tượng không thuộc thẩm xét xử của tòa án quân
sự, Tòa án nhân dân có quyền xét xử những người không còn phục vụ trong
quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ
quân đội, những người đang phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của
họ được thực hiện trước khi vào quan đội nếu tội phạm đó không liên quan đến
bí mật quân sự hoặc không gây thiệt hại cho quân đội.
2.3 Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ
5
Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ được quy định tại Điều 171 BLTTHS. Theo
khoản 1 Điều 171, VAHS được xét xử căn cứ vào nơi tội phạm được thực hiện
và nơi kết thúc điều tra. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi
khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có thẩm
quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc điều tra. Đối với Tòa án Quân sự, thẩm
quyền xét xử được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 24/2005: “Vụ án thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cấp nào xảy ra trên địa bàn có Tòa án
quân sự cấp đó thì do Tòa án quân sự cấp đó xét xử. Việc phân định địa bàn
trong quân đội để xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự do Bộ Quốc
phòng quy định cụ thể”. Nếu không xác định được nơi thực hiện tội phạm hoặc
có nhiều Tòa án quân sự khác nhau có thẩm quyền xét xử vụ án thì Tòa án quân
sự đó xét xử vụ án là Tòa mà VKS truy tố bị cáo trước tòa đó.
Việc quy định thẩm quyền xét xử thuộc về tòa án nơi tội phạm được thực hiện
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng sẽ dễ dàng tiết kiệm được thời gian hơn
trong việc tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ, triệu tập người
làm chứng hoặc những người liên quan trong vụ án. Mặt khác, việc xử lý vụ án
nơi tội phạm được thực hiện cũng đảm bảo tốt hơn sự có mặt của những người
tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Theo khoản 2 Điều 171 BLTTHS đối với trường hợp bị cáo phạm tội ở nước
ngoài thì:
- Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì do Tòa án nhân dân
cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử. Nếu không xác
định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy trường hợp,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử.
6
- Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân
sự thì do Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Chánh
án Tòa án quân sự trung ương.
Như vậy vụ án về các tội phạm xảy ra ở nước ngoài thuộc thẩm quyền xét xử của
TAND cấp tỉnh và TAQS quân khu mà không phụ thuộc vào loại tội phạm được
thực hiện. Bởi vì chỉ các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp tỉnh và quân khu mới
có đủ điều kiện đảm bảo cho các hoạt động tố tụng ở nước ngoài, các quan hệ
với các cơ quan tố tụng nước ngoài trong ủy thác hoạt động tư pháp, trong tương
trợ hoạt động tư pháp, trong dẫn độ tội phạm...
Đối với những vụ án thuộc thẩm quyền của TAQS thì ngoài quy tắc chung trên
còn phải căn cứ vào Thông tư liên tịch số 01/TTLT-TANDTC- VKSNDTCBQP-BCA ngày 18 tháng 4 năm 2005 Hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của Tòa
án quân sự. Theo hướng dẫn này, các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS
khu vực thuộc quân khu xét xử theo Điều 171 BLTTHS về thẩm quyền theo lãnh
thổ. Còn các thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Quân chủng hải quân và các
Tòa án quân sự khu vực Quân chủng hải quân thì không áp dụng nguyên tắc lãnh
thổ. Các Tòa án này có thẩm quyền xét xử các vụ án xảy ra trong đơn vị quân
chủng, các vụ án mà bị cáo là người do quân chủng quản lý hoặc người khác
phạm tội liên quan đến bí mật quân sự, gây thiệt hại cho quân chủng hải quân.
Thẩm quyền xét xử những tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển quy định
tại Điều 172: “Những tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải
Việt Nam thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam, nơi có sân bay hoặc
bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký ”. Tùy vào
tội phạm đó là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc
biệt nghiêm trọng để xác định cấp Tòa án xét xử là cấp huyện hay cấp tỉnh.
7
II. Thực tiễn thi hành và đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
1. Những kết quả đạt được
Bộ luật TTHS Việt Nam đã đóng góp quan trọng cho thực tiễn giải quyết các
vụ án hình sự, đặc biệt là các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Có thể
điểm qua một số kết quả quan trọng sau đây:
Thứ nhất, việc mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án cấp huyện bước
đầu có những kết quả đáng khích lệ. Án tồn đọng cũng như khối lượng công
việc cho các cơ quan tòa án cấp trên có chiều hướng giảm.
Nhờ sự mở rộng thẩm quyền mà đã làm giảm đi áp lực về thẩm quyền xét xử
phúc thẩm không chỉ cho các tòa án nhân dân cấp tỉnh mà còn cho tòa án nhân
dân tối cao để tòa án nhân dân tối cao có thể tập trung vào chức năng giám đốc
thẩm, tái thẩm cũng như tổng kết kinh nghiệm xét xử, v.v..
Thứ hai, Bên cạnh đặt ra chỉ tiêu cho các tòa án cấp huyện, chúng ta cũng có
nhiều biện pháp nâng cao năng lực cán bộ cũng như cơ sở vật chất, đáp ứng yêu
cầu cơ bản trang thiết bị thiết yếu phục vụ cho công tác xét xử.
Ngoài ra, việc thực hiện chủ trương tăng cường thẩm quyền xét xử cho các tòa
án cấp huyện đã tạo ra sự chuyển biến về nhận thức cho các cấp ủy Đảng và
chính quyền địa phương. Từ đó, có sự quan tâm hơn đối với hoạt động trọng
ngành tòa án nhân dân nói chung và các tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng.
2. Những bất cập, vướng mắc trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử
Thứ nhất: Bộ luật TTHS hạn chế quá nhiều trường hợp vụ án hình sự về tội
phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng mà
Toà án cấp huyện không được xét xử tại điểm c khoản 1 Điều 170 (21 tội phạm
cụ thể). Do đó, án tồn đọng của các vụ việc này vẫn còn tương đối nhiều.
8
Thứ hai, vẫn tồn tại tranh chấp về thẩm quyền và chuyển vụ án giữa các tòa
án. Về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân
sự cấp quân khu, Bộ luật TTHS quy định việc Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa
án quân sự cấp quân khu xét xử những vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự cấp khu vực là hợp lý. Tuy
nhiên, về vấn đề Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu có
thể lấy vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp dưới lên để xét xử như hiện nay
là chưa rõ ràng. Thực tế, các cơ quan này vẫn áp dụng theo tinh thần của Thông
tư 02 nhưng hiện nay văn bản này đã hết hiệu lực.
Bên cạnh đó, thực tiễn xét xử vẫn có một số trường hợp giữa Viện kiểm sát
và tòa án không thống nhất với nhau về thẩm quyền xét xử , nên vụ án đã không
được giải quyết theo đúng thẩm quyền. Ví dụ: vụ án thuộc thẩm quyền của tòa
án tỉnh nhưng viện kiểm sát tỉnh không truy tố nên phải để cho tòa án huyện xét
xử và như vậy là việc xét xử không đúng thẩm quyền. Còn có trường hợp vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án khác cùng cấp (huyện) nhưng khi tòa án
không thuộc thẩm quyền chuyển vụ án thì viện kiểm sát cùng cấp đó không thay
đổi cáo trạng nên không xét xử được.
Sở dĩ như vậy là vì việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền pháp luật mới
chỉ đề cập đến giải quyết tranh chấp giữa các tòa án theo quy định tại Điều 175
Bộ luật TTHS mà chưa có quy định đối với việc thống nhất thẩm quyền giữa tòa
án và viện kiểm sát.
Thứ ba, Bộ luật TTHS 2003 không quy định trực tiếp phân biệt thẩm
quyền xét xử giữa tòa án nhân dân và tòa án quân sự mà việc này chỉ được quy
định tại Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự 2002 là một văn bản có hiệu lực pháp
lý thấp hơn. Từ đó, dẫn tới việc không phân định được rõ ràng mà đặc biệt là đối
với các vụ án liên quan đến cả hai hệ thống tòa án này.
9
Theo Điều 5 của Pháp lệnh trên thì nếu vụ án vừa có tội phạm thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân, vừa có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa án quân sự thì Tòa án nhân dân xét xử tội phạm thuộc thẩm quyền của
Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự xét xử tội phạm thuộc thẩm quyền của Tòa án
quân sự. Trường hợp không tách được vụ án thì Tòa án quân sự sẽ xét xử toàn
bộ vụ án. Như vậy, dẫn tới việc mâu thuẫn với chính Điều 117 Bộ luật Tố tụng
hình sự: “chỉ được tách vụ án trong những trường hợp thật cần thiết khi không
thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với toàn bộ các tội phạm và nếu việc tách
đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ
án”.
Thứ tư, hiện tại các cơ quan tiến hành tố tụng cũng đang rất lúng túng đối
với việc xác định thẩm quyền xét xử của các vụ án có yếu tố nước ngoài. Bộ luật
TTHS chỉ quy định thẩm quyền xét xử trong các trường hợp bị cáo phạm tội ở
nước ngoài còn các vụ án liên quan đến yếu tố nước ngoài khác: người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự… là người nước ngoài; tội phạm thực hiện cả
nước ngoài và trong nước... thì không có quy định. Điều này dẫn tới việc các cơ
quan tiến hành tố tụng hết sức lúng túng trong việc điều tra, truy tố, xét xử.
Có thể nói một trong những nguyên nhân tác động tới việc xét xử còn nhiều
vướng mắc chính là do các quy định pháp luật trong Bộ luật TTHS cũng như các
văn bản hướng dẫn thi hành chưa đầy đủ, còn tồn tại nhiều vấn đề chưa được đề
cập, giải quyết tạo thành những “lỗ hổng”, giảm hiệu lực cũng như gây nhiều
vướng mắc cho thực tiễn thi hành. Điều này đã đặt ra yêu cầu phải có những
phương hướng khắc phục nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS.
3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm quyền xét
xử sơ thẩm.
Trước hết, xuất phát từ thực tiễn là năng lực thực tế của các cơ quan tiến
hành tố tụng nói chung và cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp huyện nói riêng đã
10
được nâng cao rất nhiều so với thời điểm BLTTHS có hiệu lực thi hành. Do đó
em đồng ý với quan điểm của Th.S Vũ Gia Lâm thể hiện trong đề tài nghiên cứu
khoa học cấp trường, tháng 1 năm 2009: đối với các tội phạm quy định tại điểm
c khoản 1 Điều 170 Bộ luật TTHS, trong thời điểm hiện tại, các Toà án cấp
huyện đã có khả năng xét xử hầu hết các tội phạm này, vì vậy chỉ nên quy định
Toà án cấp huyện không được xét xử một số tội phạm quy định tại 9 điều luật
sau thay vì 21 Điều như hiện nay đó là Điều 172; 216; 217; 218; 219; 221; 222;
223; 263.
Thứ hai, Bộ luật TTHS nên quy định cụ thể trường hợp nào Tòa án nhân
dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu được lấy những vụ án thuộc thẩm
quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự cấp khu vực lên để xét
xử. Vì như đã nói Thông tư 02 trước đây có quy định về vấn đề này nhưng hiện
nay văn bản này đã hết hiệu lực. Do vậy, để đảm bảo cho hoạt động xét xử được
thống nhất cần thiết phải có các quy định rõ hơn đối với các trường hợp này
trong một văn bản hướng dẫn mới, có hiệu lực thi hành.
Thứ ba, cần giải quyết mối quan hệ giữa Tòa án với Viện kiểm sát trong
trường hợp không thống nhất được về thẩm quyền theo việc. Chúng ta nên quy
định ngay từ đầu giai đoạn điều tra, truy tố: Viện kiểm sát truy tố không đúng
thẩm quyền phải chuyển hồ sơ, phải thay đổi bản cáo trạng chứ không phải đến
khi xét xử mới đề ra vấn đề không thuộc thẩm quyền theo việc. Trường hợp
không nhất trí với quyết định của Tòa án thì Viện kiểm sát có quyền báo cáo lên
Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên.
Thứ tư, bổ sung quy định đối với quy định phân biệt thẩm quyền xét xử
giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự, đặc biệt
là quy định rõ về đối tượng xét xử của hai loại tòa án này. Tránh tình trạng việc
phân định thẩm quyền chỉ được đề cập tại một văn bản có hiệu lực pháp lý thấp
hơn (Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự), trong khi việc phân định thẩm quyền
11
xét xử giữa tòa án nhân dân và tòa án quân sự luôn có những vấn đề đáng quan
tâm.
Thứ năm, cần quy định về thẩm quyền của tòa án nào được xét xử những
trường hợp vụ án có liên quan đến yếu tố nước ngoài như: bị can, bị cáo là
người nước ngoài, tội phạm xảy ra ở trong nước và nước ngoài, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự là người nước ngoài…nhằm thống nhất trong
giải quyết giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ sáu, về quy định tại Điều 172 đối với tội phạm xảy ra trên tàu bay, tài
biển, khi tàu bay tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng Việt Nam, Bộ luật TTHS
hiện hành quy định thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nơi có sân bay, bến
cảng mà tàu bay, tàu biển trở về đầu tiên ở trong nước hoặc Tòa án nơi tàu bay,
tàu biển đó đăng ký. Quy định như vậy dễ dẫn đến việc tranh chấp hoặc đùn đẩy
lẫn nhau giữa các Toà án nói trên. Hơn nữa, khi sự việc xảy ra thường mang tính
khẩn cấp, việc quy định cả Toà án nơi đăng ký tàu bay, tàu biển có thẩm quyền
xét xử chắc chắn sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, thu thập chứng cứ và không
đảm bảo giải quyết nhanh chóng, kịp thời đối với vụ án. Do đó, chỉ cần quy các
tội phạm xảy ra trên tàu bay, tàu biển của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải Việt Nam thuộc thẩm
quyền xét xử của Toà án Việt Nam, nơi có sân bay hoặc bến cảng trở vể đầu tiên
ở trong nước.
C. KẾT LUẬN
Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 (TTHS) được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm
2003. Bộ luật này thay thế Bộ luật TTHS ngày 28/6/1988 và có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/7/2004 đã đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật tố tụng
hình sự. Những quy định của Bộ luật có nhiều sự đổi mới sâu sắc, thể chế hóa
12
được đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới, đặc biệt là
các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án. Bài viết trên đây là sự
phân tích, đánh giá các quy định của Bộ luật tố tụng cũng như thực tiễn thi hành
chúng và một số đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định về thẩm quyền xét xử sơ
thẩm với mong muốn Bộ luật có thêm những quy định phù hợp với thực tiễn
phức tạp và luôn thay đổi để hoàn thiện hơn trong thời gian tới.
13
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb.CAND, Hà Nội, 2008;
2. Viện khoa học pháp lí, Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005;
3. Trần Thị Lê Na, Hoàn thiện quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự
của Tòa án nhân dân các cấp, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2009;
4. Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003;
5. Pháp lệnh tổ chức toà án quân sự năm 2002;
6. Trường Đại học luật Hà Nội, khóa luận tốt nghiệp Nhâm Thị Thúy, “thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo quy định của luật Tố tụng Hình sự Việt
Nam”, Hà Nội 2010.
14
- Xem thêm -