TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***----------NGUYỄN HIỀN THỤC
MSSV: 1853801014168
THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG
TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2018 - 2022
Người hướng dẫn:
ThS. Nguyễn Thanh Quyên
TP.HCM – Năm 2022
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***----------NGUYỄN HIỀN THỤC
MSSV: 1853801014168
THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG
TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2018 - 2022
Người hướng dẫn:
ThS. Nguyễn Thanh Quyên
TP.HCM – Năm 2022
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt
Mô tả
1
GCNQSDĐ
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
2
HVHC
Hành vi hành chính
3
QĐHC
Quyết định hành chính
4
QĐKLBTV
Quyết định kỷ luật buộc thôi việc
5
TAND
Tòa án nhân dân
6
TNHTCNN
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
7
TTHC
Tố tụng hành chính
8
UBND
Ủy ban nhân dân
9
VAHC
Vụ án hành chính
10
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
LỜI CAM ĐOAN
Em tên là Nguyễn Hiền Thục, sinh viên lớp 94-HC43.3, được sự cho phép
của lãnh đạo khoa Luật Hành chính – Nhà nước, em được vinh dự thực hiện đề tài
khóa luận tốt nghiệp “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng
hành chính”. Em xin cam đoan với Nhà trường đây là công trình khoa học do em
trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Mọi vi phạm nếu bị phát hiện
em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Người cam đoan
(ký tên)
Nguyễn Hiền Thục
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài ....................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .................................................. 3
5. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................. 4
6. Bố cục của đề tài ................................................................................................ 4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG XÉT
XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng hành
chính ....................................................................................................................... 5
1.2. Đặc điểm thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng hành
chính ..................................................................................................................... 10
1.3. Ý nghĩa thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính .... 17
1.4. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính theo quy
định của pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam ............................................ 20
1.4.1 Phạm vi xét xử .............................................................................................. 20
1.4.2 Quy định của pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong
tố tụng hành chính ................................................................................................. 24
TIỂU KẾT CHƯƠNG I ...................................................................................... 39
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
2.1. Thực trạng về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng
hành chính............................................................................................................ 40
2.1.1. Thực trạng quy định của pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ
thẩm ....................................................................................................................... 40
2.1.2. Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng
xét xử sơ thẩm ....................................................................................................... 48
2.1.3 Nguyên nhân tồn tại những hạn chế trong việc thực hiện các quy định của
pháp luật................................................................................................................ 55
2.2 Quan điểm nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định của pháp luật về
thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính .......................... 61
2.3. Kiến nghị hoàn thiện về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong
tố tụng hành chính .............................................................................................. 65
2.3.1. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng
xét xử sơ thẩm ....................................................................................................... 65
2.2.2. Kiến nghị hoàn thiện thực hiện quy định của pháp luật về thẩm quyền của
Hội đồng xét xử sơ thẩm ....................................................................................... 71
TIỂU KẾT CHƯƠNG II .................................................................................... 78
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân”. Theo đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền đề cao tính tối thượng
của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống chính trị - xã hội, tạo mối quan hệ qua lại
bình đẳng giữa Nhà nước và công dân, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của cá nhân, cơ quan, tổ chức là mối quan tâm hàng đầu của đất nước. Tuy
nhiên trên thực tế, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có thể bị xâm phạm từ
nhiều phía. Có thể là sự vi phạm bởi hành vi trái pháp luật của các tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, của công dân khác hay có thể từ chính cơ quan nhà nước mà chủ yếu
và thường xuyên là từ các cơ quan hành chính nhà nước bằng các quyết định, hành
vi. Sự vi phạm đó được giải quyết thông qua các vụ án hành chính, hình sự, lao
động, thương mại, hôn nhân gia đình… Trong đó, giải quyết vụ án hành chính là
giải quyết mối quan hệ “bất bình đẳng” giữa một bên là Nhà nước với tư cách là
người bị kiện và một bên là cá nhân, cơ quan, tổ chức với tư cách người khởi kiện.
Quá trình tố tụng vụ án hành chính gồm nhiều giai đoạn, trong đó thủ tục sơ thẩm là
một trình tự quan trọng. Ở giai đoạn này, chế định thẩm quyền của Hội đồng xét xử
sơ thẩm vụ án hành chính là nội dung trọng tâm của thẩm quyền xét xử vụ án hành
chính nói chung của Tòa án, thể hiện năng lực pháp lý của Tòa án trong việc đánh
giá, phán quyết về tính hợp pháp của đối tượng khởi kiện theo trình tự tố tụng hành
chính sơ thẩm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Phán quyết của Hội đồng xét
xử sơ thẩm có giá trị ràng buộc đối với các bên có liên quan.
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) đã có nhiều
điểm mới so với Luật Tố tụng hành chính năm 2015 trong việc quy định về thẩm
quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm. Nhìn chung, việc giải quyết các vụ án hành
chính trên thực tế cũng đã đem lại những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh
những ưu điểm, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019)
vẫn còn chứa đựng những hạn chế chưa được khắc phục. Một vài hạn chế có thể kể
đến là quy định của pháp luật tố tụng hành chính còn nhiều chỗ vướng mắc do có
nhiều quan điểm khác nhau về cách áp dụng nhưng lại không có một văn bản pháp
lý chính thức nào hướng dẫn áp dụng, gây lúng túng cho chủ thể tiến hành tố tụng
mà đặc biệt là các Thẩm phán trong quá trình xét xử. Bên cạnh đó, việc Hội đồng
xét xử sơ thẩm vẫn chưa vận dụng đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền dẫn
đến nhiều trường hợp tuyên án trái thẩm quyền, vượt quá thẩm quyền, vượt quá yêu
2
cầu khởi kiện của người khởi kiện… Hệ quả thực tế là quyền và lợi ích hợp pháp
của người khởi kiện, người có quyền, lợi ích liên quan không được bảo vệ. Những
điều đó không những gây tranh cãi cho người công tác trong ngành mà còn ảnh
hưởng đến sự bất an trong tâm tưởng người dân.
Từ thực trạng trên, việc nghiên cứu, hoàn thiện chế định thẩm quyền của Hội
đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng hành chính một cách khoa học, toàn diện đồng
thời đưa ra các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng xét
xử án hành chính nhằm củng cố niềm tin của Nhân dân vào cơ quan nhà nước là
thực sự cần thiết trong công cuộc cải cách tư pháp và cải cách hành chính phục vụ
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như hiện nay. Chính vì vậy,
tác giả lựa chọn đề tài “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng
hành chính” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về thủ tục
sơ thẩm đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận, nhà khoa học
pháp lý, các luật gia cũng như nhiều sinh viên. Trong đó, đã có một số công trình
nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục xét xử sơ thẩm và có đề cập đến thẩm quyền của
Hội đồng xét xử sơ thẩm tiêu biểu như: khóa luận tốt nghiệp “Phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hành chính” của tác giả Lê Thụy Anh Thư năm 2015; khóa luận tốt
nghiệp “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng hành chính” của
tác giả Nguyễn Thành Nhân năm 2017; khóa luận tốt nghiệp “Xét xử sơ thẩm vụ án
hành chính” của tác giả Trương Thị Thương năm 2013; khóa luận tốt nghiệp
“Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân trong tố tụng hành chính Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thuận năm 2015; khóa luận tốt nghiệp “Phiên tòa sơ
thẩm vụ án hành chính” của tác giả Dũng Thị Mỹ Thẩm năm 2016… Bên cạnh đó,
các bài viết pháp lý như: bài viết “Quyền hạn của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ
thẩm các vụ án hành chính” của tác giả Nguyễn Văn Quang đăng trên tạp chí Luật
học số 6 năm 2000; bài viết “Về phạm vi thẩm quyền của Hội đồng xét xử khi xét xử
sơ thẩm vụ án hành chính” của tác giả Phạm Tiến Niệm đăng trên tạp chí Kiểm sát
số 16 năm 2013; bài viết “Quyền hạn của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành
chính” của tác giả Nguyễn Thị Hà đăng trên Tạp chí Tòa án năm 2018 và nhiều bài
viết tiêu biểu khác.
Qua nội dung của các bài viết, công trình nghiên cứu trên cho thấy, các tác
giả đã nghiên cứu các vấn đề cơ bản về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hành chính nói
chung, trong đó có nội dung về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm, đồng thời
có những kiến nghị, đề xuất có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn. Nhìn chung, nội
3
dung trong các công trình nghiên cứu là quá rộng nên không có những phân tích chi
tiết, cụ thể về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm; trong khi đó, nội dung các
bài viết được đăng trên tạp chí lại có phạm vi hẹp hơn rất nhiều, chỉ tập trung vào
từng vấn đề nhỏ mà chưa phân tích đầy đủ, toàn diện thẩm quyền của Hội đồng xét
xử sơ thẩm. Thêm vào đó, trong thời gian gần đây, với sự đổi mới không ngừng,
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) đã có những điểm
tiến bộ hơn so với Luật Tố tụng hành chính trước đó là Luật Tố tụng hành chính
năm 2015 và Luật Tố tụng hành chính năm 2010. Tuy nhiên lại chưa có công trình
nghiên cứu, bài viết nào khai thác triệt để những nội dung này. Do đó, vẫn chưa có
đề tài nghiên cứu chuyên sâu nào về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong
tố tụng hành chính theo pháp luật tố tụng hiện hành.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Khóa luận tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến thẩm quyền
của Hội đồng xét xử sơ thẩm, phân tích, đánh giá thực trạng và thực tiễn thực hiện
thẩm quyền này trong tố tụng hành chính ở Việt Nam. Trên cơ sở các phân tích,
đánh giá chuyên sâu đó, đề tài chỉ ra những bất cập, hạn chế, những vấn đề còn tồn
đọng và đề xuất các kiến nghị, giải pháp khắc phục hướng đến mục tiêu hoàn thiện
pháp luật thực định, nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hành chính trong thời gian
tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về đối tượng nghiên cứu, khóa luận tập trung và đi sâu nghiên cứu thẩm
quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng hành chính trên cơ sở lý luận, quy
định của pháp luật và thực tiễn áp dụng nhằm nhìn nhận một cách khách quan, đúng
đắn những thành tựu đạt được cũng như những điểm bất cập còn tồn đọng trong
pháp định và thực tiễn. Đồng thời kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện vấn đề này.
Về phạm vi nghiên cứu, để giải quyết tốt mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, đề tài
tập trung phân tích, làm rõ cơ sở lý luận cùng các quy định pháp luật cũng như thực
trạng về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm. Đồng thời, đề tài còn tiến hành
vừa phân tích thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm theo quy định của Luật Tố
tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) vừa có sự so sánh với quy
định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Luật Tố tụng hành chính năm 2010 và
các Luật, Bộ luật khác có liên quan như Bộ luật dân sự năm 2015, Luật Trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017. Để từ đó có được cái nhìn chung nhất
về nguyên nhân của các bất cập, hạn chế còn tồn tại và đưa ra kiến nghị hoàn thiện
ở cả góc độ lý luận lẫn thực tiễn.
4
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng trong triết học Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền, cải cách
tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó, đề tài còn kết hợp vận dụng
các phương pháp như phương pháp logic – hệ thống, phương pháp phân tích, so
sánh để thấy điểm khác nhau, điểm tiến bộ trong các quy định của pháp luật,
phương pháp diễn dịch, quy nạp, phương pháp thống kê, phân loại và nhiều phương
pháp khác nhằm đạt hiệu quả tối ưu cho đề tài.
6. Bố cục của đề tài
Đề tài “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng hành
chính” có bố cục ngoài danh mục các từ viết tắt, phần mở đầu, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo, gồm có hai chương như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp lý về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ
thẩm trong tố tụng hành chính.
Chương 2. Thực trạng về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố
tụng hành chính và kiến nghị hoàn thiện.
5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THẨM QUYỀN
CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng
hành chính
Xét xử sơ thẩm là một trong những giai đoạn rất quan trọng của tố tụng nói
chung và của TTHC nói riêng. Đây là cấp xét xử đầu tiên khi Tòa án tiến hành xem
xét giải quyết vụ án. Có thể thấy, thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm là yếu tố then
chốt trong xét xử sơ thẩm VAHC. Quy định hợp lý thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm
VAHC không chỉ tạo điều kiện cho việc thụ lý giải quyết thuận lợi, chính xác,
nhanh chóng, dứt điểm VAHC mà còn đảm bảo cơ sở cho việc giải quyết ở các cấp
xét xử tiếp theo.
Để hiểu khái niệm thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm, trước tiên, tác giả muốn
làm rõ khái niệm thẩm quyền. “Thẩm quyền” là một khái niệm quan trọng, trung
tâm của khoa học pháp lý. Có thể nói, không có thuật ngữ nào được sử dụng phổ
biến trong pháp luật như thuật ngữ “thẩm quyền”1. Thẩm quyền của mỗi cơ quan, cá
nhân khi được pháp luật trao cho đều được phân định theo lĩnh vực hoạt động,
ngành, khu vực hành chính, cấp hành chính. Tùy vào đó mà thẩm quyền cũng sẽ có
các cách thể hiện nội dung khác nhau. Chính vì có phạm vi thể hiện rộng lớn như
vậy mà thuật ngữ này không có một khái niệm cụ thể, chi tiết.
Theo từ điển Hán Việt, thẩm quyền nghĩa là “được quyền xét đoán, định đoạt
một việc gì đó”2. Còn theo từ điển tiếng Việt thì thẩm quyền có nghĩa là “quyền xem
xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật”3. Đây là các khái niệm khái
quát một cách chung nhất về thẩm quyền. Trên phương diện pháp lý, từ điển Luật
học cho rằng, thẩm quyền có nghĩa là “tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động,
quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp luật
quy định”4.
Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Cửu Việt: “Thẩm quyền là một khái
niệm tập hợp, là tổng hợp những quyền và nghĩa vụ chung để thực hiện những chức
năng nhất định và quyền hạn cụ thể để thực hiện những quyền và nghĩa vụ chung
Nguyễn Cửu Việt (2005), “Cải cách hành chính: về khái niệm thẩm quyền”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
(số 8), tr.40.
2
Nguyễn Mạnh Hùng (2015), Phân định thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử
hành chính ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, tr.40.
3
Hoàng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, tr.922.
4
Nguyễn Hữu Quỳnh (chủ nhiệm công trình) (1999), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội,
tr.459.
1
6
đó”5. Bên cạnh đó, ông cũng từng khẳng định rằng: thuật ngữ “thẩm quyền” bắt
nguồn từ tiếng la tinh "competentia" có hai nghĩa là: (1) Phạm vi các quyền hạn của
cơ quan hoặc người có chức vụ nào đó; (2) Phạm vi những kiến thức và kinh
nghiệm mà ai đó có. Ý nghĩa đầu trong khoa học pháp lý và quản lý thường được
biểu thị bằng thuật ngữ “thẩm quyền pháp lý” – các quyền hạn cụ thể để thực hiện
chức năng cơ quan nhà nước trao để giải quyết những vấn đề, quản lý những đối
tượng hay khách thể nhất định trong lĩnh vực nhất định của đời sống nhằm đạt được
những nhiệm vụ nhất định. Ý nghĩa thứ hai là “thẩm quyền chuyên môn” – nó được
thể hiện thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ theo các
tiêu chuẩn, yêu cầu nhất định và cũng dần được thể chế hóa thành pháp luật ở một
mức độ nào đó. Tuy nhiên trong khoa học pháp lý, thuật ngữ thẩm quyền được hiểu
với nghĩa thẩm quyền pháp lý6. Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Văn Huyên cũng đưa
ra quan điểm: “Thẩm quyền là tổng hợp tất cả các quyền mà pháp luật quy định cho
một tổ chức hoặc một cán bộ, công chức nhà nước được thực hiện công việc trong
các lĩnh vực và phạm vi nhất định”7. Còn theo tác giả Nguyễn Thành Nhân thì:
“Thẩm quyền là tất cả các quyền mà pháp luật đã quy định và trao cho một chủ thể
xác định để chủ thể này trong phạm vi các quyền được trao đó sẽ thực hiện các
công việc của mình trong các lĩnh vực và phạm vi nhất định”8.
Mặt khác, theo quan điểm các tác giả Giáo trình luật TTHC Việt Nam của
trường Đại học luật Hà Nội cho rằng “thẩm quyền là khả năng của chủ thể trong
việc xem xét và giải quyết hay định đoạt công việc nào đó trên cơ sở các chuẩn mực
pháp luật đã định trước. Nói một cách khái quát, thẩm quyền là quyền hạn pháp
luật quy định cho cơ quan công quyền và công chức giữ chức vụ nhà nước nhất
định”9. Còn khái niệm thẩm quyền được tác giả Lê Thị Bích Chi định nghĩa trong
Tập bài giảng TTHC Việt Nam lại có nghĩa là “quyền hạn, nhiệm vụ của một cơ
quan, cá nhân trong phạm vi pháp luật cho phép, nhân danh quyền lực nhà
nước”10.
Nguyễn Cửu Việt, Tập bài giảng những vấn đề cơ bản về khoa học lý luận quản lý nhà nước, tr.24. (Trích
từ Lê Thị Thảo (2015), khóa luận tốt nghiệp “Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hành chính của Tòa án
nhân dân”, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh).
6
Nguyễn Cửu Việt (2005), “Cải cách hành chính: về khái niệm thẩm quyền”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
(số 8), tr.12.
7
Nguyễn Văn Huyên (2003), luận án tiến sĩ “Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam”, Đại học Luật Hà Nội, tr.12.
8
Nguyễn Thành Nhân (2017), khóa luận tốt nghiệp “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng
hành chính”, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr.4.
9
Hoàng Văn Sao, Nguyễn Phúc Thành (đồng chủ biên) (2014), Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Đại học Luật Hà Nội, tr.86-87.
10
Lê Thị Bích Chi (2013), Tập bài giảng Luật tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.59.
5
7
Theo quy định của pháp luật, hiện nay cả Pháp Lệnh Thủ tục giải quyết các
VAHC trước đây cũng như Luật TTHC năm 2010, Luật TTHC năm 2015, Luật
TTHC hiện hành và cả các văn bản hướng dẫn thi hành đều chưa đưa ra khái niệm
chính thức về thẩm quyền.
Như vậy, với xuất phát điểm đã là một khái niệm rất rộng, khó có thể được
định nghĩa một cách đầy đủ, chi tiết, khái niệm thẩm quyền trong nghiên cứu khoa
học luôn tồn tại rất nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau. Sơ lược các quan điểm trên,
có thể phân thành hai luồng quan điểm chính như sau: một là, “thẩm quyền” có nội
dung chính là “quyền” (theo quan điểm của từ điển Hán Việt, từ điển tiếng Việt, tác
giả Nguyễn Văn Huyên, các tác giả Giáo trình luật TTHC Việt Nam của trường Đại
học luật Hà Nội); hai là, “thẩm quyền” có nội dung chính là “quyền, nghĩa vụ” hay
“quyền, nhiệm vụ” (theo quan điểm của từ điển Luật học, tác giả Nguyễn Cửu Việt,
tác giả Nguyễn Thành Nhân, Tập bài giảng TTHC Việt Nam của tác giả Lê Thị
Bích Chi). Về phần mình, tác giả bài viết đồng tình với luồng quan điểm thứ hai.
Bởi lẽ, “quyền” là khái niệm khoa học pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp
luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân
được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế11. Xong,
đối với thẩm quyền, khi được pháp luật trao cho, chủ thể ngoài “được làm” còn
“phải làm”. Hay nói cách khác, thẩm quyền theo quan điểm của tác giả phải bao
gồm cả “quyền” và “nghĩa vụ”. Khái quát hóa thì: “Thẩm quyền là quyền và nghĩa
vụ mà pháp luật trao cho chủ thể nhất định được xem xét, đánh giá, quyết định
trong các lĩnh vực, phạm vi nhất định”.
Tương tự như khái niệm thẩm quyền, hiện nay cũng không có quy định cụ
thể nào về định nghĩa thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm trong hệ thống pháp luật Việt
Nam. Tuy nhiên, thẩm quyền ra quyết định của Tòa án tại phiên tòa thuộc về
HĐXX. Do đó, khái niệm thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm được xác định dựa trên
cơ sở khái niệm thẩm quyền của Tòa án cấp sơ thẩm, bởi việc trực tiếp tiến hành
các thủ tục xét xử sơ thẩm và ra bản án để giải quyết VAHC là vai trò của HĐXX
sơ thẩm theo sự phân công của Chánh án Tòa án cấp sơ thẩm. Hay nói cách khác,
quyền hạn của HĐXX sơ thẩm VAHC có thể được hiểu là quyền hạn của Tòa án
trong xét xử sơ thẩm VAHC theo nghĩa hẹp – “quyền mà pháp luật trao cho Tòa án
khi xét xử sơ thẩm các VAHC, thể hiện trong nội dung của các phán quyết mà
11
https://nganhangphapluat.lawnet.vn/tu-van-phap-luat/van-hoa--xa-hoi/quyen-la-gi-124168 (truy cập ngày
26/05/2022).
8
HĐXX đưa ra”12. Theo cách hiểu này, quyền hạn của HĐXX sơ thẩm VAHC là nội
dung trọng tâm của thẩm quyền xét xử VAHC nói chung của Tòa án; thể hiện năng
lực pháp lý của Tòa án trong việc đánh giá, phán quyết về tính hợp pháp của đối
tượng khởi kiện theo trình tự TTHC sơ thẩm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước13. Vấn đề
đặt ra thẩm quyền của Tòa án được hiểu như thế nào?
Thẩm quyền của Tòa án được định nghĩa là “một thể thống nhất bao gồm hai
yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau đó là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền
về nội dung. Thẩm quyền về hình thức được thể hiện ở quyền hạn xem xét và phạm
vi xem xét của Tòa án (Thẩm quyền xét xử và phạm vi xét xử), còn thẩm quyền về
nội dung thể hiện ở quyền hạn giải quyết, quyết định của Tòa án đối với những vấn
đề đã được xem xét”14. Tác giả Lê Thị Bích Chi trong Tập bài giảng Luật TTHC
Việt Nam cũng đưa ra quan điểm tương tự về thẩm quyền của Tòa án, đó là “Quyền
xem xét giải quyết các vụ việc và quyền ra các quyết định giải quyết VAHC”15. Một
tác giả khác lại cho rằng: “Thẩm quyền của Tòa án là tổng hợp các quyền mà pháp
luật quy định cho Tòa án được xét xử những vụ án cụ thể và quyết định đối với các
vấn đề về nội dung vụ án hoặc đảm bảo cho việc xét xử trong giới hạn hoặc phạm vi
nhất định”16.
Từ đó có thể thấy, để thực hiện chức năng là cơ quan xét xử duy nhất, thẩm
quyền của Tòa án được phân thành thẩm quyền về mặt hình thức và thẩm quyền về
mặt nội dung. Trong đó, thẩm quyền về mặt hình thức được thể hiện ở quyền hạn
xem xét và phạm vi xem xét nhằm xác định những nội dung thuộc thẩm quyền xem
xét, đánh giá của Tòa án, Tòa án được xem xét nội dung đó trong phạm vi và giới
hạn nào. Còn thẩm quyền về mặt nội dung lại thể hiện ở quyền hạn giải quyết, việc
ra quyết định đối với các vấn đề đã xem xét. Cụ thể, đối với thẩm quyền về mặt
hình thức, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào loại vụ việc, lãnh thổ để xác định các
VAHC có thuộc thẩm quyền xem xét của mình hay không và giới hạn, phạm vi xem
xét của Tòa án cấp sơ thẩm đối với vụ án đó. Đối với thẩm quyền về mặt nội dung,
Tòa án cấp sơ thẩm sẽ căn cứ vào các quy định của pháp luật để xác định các quyền
Nguyễn Thanh Bình (2003), luận án tiến sĩ “Thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các
khiếu kiện hành chính”, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, tr.14.
13
Nguyễn Thị Hà (2018), “Quyền hạn của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính”, Tạp chí Tòa án.
14
Nguyễn Đức Mai (1993), “Về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm”, Tạp chí TAND, TAND tối cao, (số
8), tr.2.
15
Lê Thị Bích Chi (2013), Tập bài giảng Luật tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr. 59-60.
16
Nguyễn Văn Huyên (2003), luận án tiến sĩ “Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam”, Đại học Luật Hà Nội, tr.22.
12
9
hạn của mình trong việc quyết định các vấn đề cụ thể của vụ án khi xét xử. Hay nói
cách khác, thẩm quyền về mặt nội dung chính là thẩm quyền quyết định của Tòa án,
tức quyền được pháp luật trao cho để Tòa án căn cứ vào đó thực hiện việc ra phán
quyết đối với những vấn đề cụ thể về nội dung vụ án nhằm đảm bảo cho việc giải
quyết có hiệu quả VAHC.
Cách thức phân chia này cho thấy, thẩm quyền về mặt hình thức là cơ sở để
xác định thẩm quyền về mặt nội dung, tức thẩm quyền xét xử, giới hạn phạm vi xét
xử là căn cứ để xác định thẩm quyền quyết định của Tòa án. Ngược lại, những vấn
đề thuộc thẩm quyền xem xét của Tòa án sẽ chỉ có ý nghĩa khi được giải quyết bằng
những quyết định cụ thể của HĐXX. Mặt khác, hai loại thẩm quyền này cũng có
mối quan hệ mật thiết, thống nhất với nhau. Bởi lẽ trong khoa học pháp lý, để xác
định được thẩm quyền xét xử của Tòa án, chủ thể có thẩm quyền sẽ dựa vào các căn
cứ như loại vụ việc, lãnh thổ và cấp Tòa để cho ra kết quả xác định được một
VAHC xảy ra sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án nào. Tuy nhiên, nếu chỉ có việc xác
định thẩm quyền xét xử thuộc Tòa án nào mà thiếu đi những nội dung thuộc về
thẩm quyền quyết định thì việc Tòa án xem xét giải quyết VAHC sẽ không có bất
kỳ ý nghĩa gì đồng thời cũng như không thể bảo vệ được quyền, lợi ích bị xâm
phạm của người khởi kiện, người có quyền, lợi ích liên quan. Chính vì vậy, cùng
với việc trao quyền xét xử, pháp luật cũng đồng thời trao luôn quyền quyết định cho
Tòa án để Tòa án sử dụng nhằm ra các phán quyết giải quyết VAHC.
Chung quy lại, thẩm quyền của Tòa án là tổng hợp các quyền mà pháp luật
quy định cho Tòa án được xét xử những vụ án cụ thể và quyết định những vấn đề
nội dung vụ án theo quy định của pháp luật.
Như vậy, khi một VAHC phát sinh, Tòa án được xác định là chủ thể có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên. Tuy nhiên Tòa án không thể tự mình trực
tiếp thực hiện mà thông qua hoạt động của HĐXX sơ thẩm và HĐXX phúc thẩm
trong TTHC. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HĐXX sơ thẩm bằng việc đưa ra bản
án, quyết định của mình mà VAHC được giải quyết. Chính vì lý do đó, xác định
được thẩm quyền của Tòa án là cơ sở để xác định thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm.
Có tác giả đã đưa ra định nghĩa như sau: “Thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm là tổng
thể tất cả các quyền hạn mà pháp luật TTHC đã trao cho HĐXX sơ thẩm được
quyền quyết định giải quyết VAHC nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức, trên cơ sở đã xem xét tính hợp pháp của các đối tượng
khiếu kiện”17.
Nguyễn Thành Nhân (2017), khóa luận tốt nghiệp “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng
hành chính”, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr.6.
17
10
Từ sự phân tích khái niệm thẩm quyền của Tòa án, tác giả bài viết đồng tình
với định nghĩa thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm mà tác giả trên đã đưa ra. Có thể
nêu một cách khái quát rằng: thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm trong TTHC là tổng
thể những quyền hạn mà pháp luật TTHC quy định cho HĐXX sơ thẩm được quyền
xem xét và quyết định đối với VAHC trên cơ sở đã xem xét tính hợp pháp của đối
tượng khởi kiện nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức.
1.2. Đặc điểm thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng
hành chính
Dựa vào khái niệm thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm trong TTHC nêu tại mục
1.1, chúng ta thấy thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm trong TTHC có những đặc điểm
nổi bật như sau:
Thứ nhất, thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm là tổng thể những quyền hạn
được pháp luật quy định trong Luật TTHC
Để có thể đưa ra phán quyết giải quyết triệt để tranh chấp hành chính, Tòa án
phải thực hiện rất nhiều bước tố tụng khác nhau mà trong đó hoạt động tố tụng
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là một nội dung rất quan trọng. Yếu tố then chốt
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là việc vận dụng thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm để
đưa ra bản án, quyết định sơ thẩm giải quyết VAHC. Thẩm quyền của HĐXX sơ
thẩm là tổng thể những quy phạm pháp luật được quy định rõ ràng tại Điều 193
Luật TTHC năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). Để từ đó, HĐXX sơ thẩm có
cơ sở pháp lý để thực hiện đúng thẩm quyền mà pháp luật đã trao cho.
Dựa vào các quy định tại Điều luật trên, khi giải quyết VAHC trên thực tế,
HĐXX sơ thẩm được quyền quyết định giải quyết vụ án. Theo đó, quyết định giải
quyết VAHC là việc HĐXX sơ thẩm quyết định về các vấn đề như: quyết định tính
hợp pháp và tính có căn cứ trong yêu cầu của người khởi kiện; quyết định về tính
hợp pháp của các đối tượng khởi kiện; buộc các chủ thể có thẩm quyền phải thực
hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật; kiến nghị cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, người đứng đầu của cơ quan xem xét trách nhiệm của cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước; kiến nghị cơ quan, người có
thẩm quyền xem xét, xử lý văn bản hành chính, văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan đến các đối tượng khởi kiện.
Thứ hai, chủ thể áp dụng thẩm quyền xét xử sơ thẩm là những người có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật
Chủ thể trực tiếp áp dụng thẩm quyền xét xử sơ thẩm gọi chung là HĐXX sơ
thẩm. Về thuật ngữ “Hội đồng”, từ điển Tiếng việt xác định “Hội đồng là tập thể
11
những người được chỉ định hoặc được bầu ra để họp bàn, quyết định những công
việc nhất định nào đó”18. Còn “HĐXX sơ thẩm” là Hội đồng gồm các Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân do Tòa án có thẩm quyền lập ra để nhân danh Nhà nước trực
tiếp xét xử tại phiên tòa sơ thẩm VAHC và ra bản án hoặc quyết định đối với các vụ
án.
Đối với vụ án được xét xử theo thủ tục thông thường, HĐXX sơ thẩm gồm
01 Thẩm phán và 02 Hội thẩm nhân dân. Trong các trường hợp đặc biệt bao gồm:
khiếu kiện QĐHC, HVHC của UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh liên quan
đến nhiều đối tượng; vụ án phức tạp thì HĐXX sơ thẩm có thể gồm 02 Thẩm phán
và 03 Hội thẩm nhân dân19. Còn đối với vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn thì
chỉ do 01 Thẩm phán thực hiện20. Sở dĩ có sự khác biệt này là bởi xét về bản chất,
VAHC được giải quyết theo thủ tục rút gọn đơn giản hơn nhiều so với VAHC được
giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường. Cụ thể, nếu như VAHC được giải
quyết theo thủ tục tố tụng thông thường là những mâu thuẫn, tranh chấp hành chính
phức tạp, gay gắt, đòi hỏi phải có việc tranh tụng về chứng cứ, tài liệu, căn cứ pháp
lý thì VAHC được giải quyết theo thủ tục rút gọn lại là những VAHC có tình tiết
đơn giản, tài liệu, chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, bảo đảm đủ căn cứ giải quyết vụ án và
Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ; các đương sự đều có địa chỉ nơi cư
trú, trụ sở rõ ràng; không có đương sự cư trú ở nước ngoài hoặc trường hợp đương
sự ở nước ngoài có thỏa thuận với đương sự ở Việt Nam đề nghị Tòa án giải quyết
theo thủ tục rút gọn21. Do đó, thủ tục để giải quyết các VAHC này sẽ đơn giản hơn
so với thủ tục tố tụng thông thường về thời hạn, thành phần HĐXX và trình tự các
bước Tòa án tiến hành giải quyết. Tuy vậy, việc giải quyết một VAHC theo thủ tục
rút gọn vẫn bảo đảm giải quyết vụ án đúng pháp luật22. Tại khoản 2 Điều 246 Luật
TTHC năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) cũng nêu rõ: trong quá trình giải
quyết vụ án theo thủ tục rút gọn, Tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết
theo thủ tục thông thường nếu thuộc một trong những trường hợp được liệt kê tại
Điều này. Từ đó có thể thấy, mục đích và ý nghĩa của thủ tục rút gọn chỉ thực sự đạt
được nếu vụ án đã áp dụng thủ tục rút gọn không chuyển sang tục thủ tục chung để
giải quyết. Nếu vụ án đã áp dụng thủ tục rút gọn, sau đó cơ quan tiến hành tố tụng
phải áp dụng thủ tục chung để giải quyết thì sẽ không rút ngắn được về thời gian,
Nguyễn Duy Lãm (2001), Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội,
tr.279.
19
Điều 154 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
20
Khoản 1 Điều 249 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
21
Xem khoản 1 Điều 246 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
22
Xem khoản 1 Điều 245 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
18
12
không đơn giản được về thủ tục, thậm chí còn làm cho trình tự tố tụng kéo dài và
phức tạp hơn nếu chỉ áp dụng thủ tục chung để giải quyết. Vì vậy, cần hạn chế việc
xác định không đúng các điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn, rồi sau đó lại chuyển
thành thủ tục giải quyết vụ án thông thường theo thủ tục chung. Thủ tục rút gọn là
quy định mới được bổ sung để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 2013, bảo đảm
giải quyết nhanh gọn, kịp thời những vụ án đơn giản, chứng cứ đã rõ ràng. Đồng
thời, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, tiết kiệm thời gian
và chi phí cho đương sự cũng như Nhà nước23.
Bên cạnh đó, có thể thấy, việc đưa ra phán quyết cuối cùng của HĐXX sơ
thẩm là dựa vào quá trình tiến hành biểu quyết của các Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân tham gia cho nên số lượng thành viên trong HĐXX sơ thẩm luôn là số lẻ. Đó là
nguyên nhân để đảm bảo công bằng cho việc đưa ra phán quyết mà không phải mất
quá nhiều thời gian, biểu quyết nhiều lần hoặc phải chờ tham khảo ý kiến của chủ
thể có thẩm quyền khác khiến phán quyết đưa ra không được khách quan, chính
xác. Việc áp dụng nguyên tắc xét xử tập thể tại phiên tòa cũng có ý nghĩa quan
trọng vì HĐXX bao gồm nhiều người sẽ giúp cho quá trình trao đổi, tranh luận
được khách quan, thận trọng. Bản án, quyết định của HĐXX sơ thẩm phản ánh
chính xác sự thật khách quan của vụ án, đồng thời để hạn chế sự sai sót, chủ quan
của cá nhân Thẩm phán. Ở khía cạnh nhất định, nguyên tắc trên còn có ý nghĩa đối
với việc bảo đảm sự độc lập về trách nhiệm của mỗi thành viên trong HĐXX với
phán quyết chung của Hội đồng.
Ngoài ra, phiên tòa sơ thẩm chỉ được tiến hành khi có đủ thành viên HĐXX
và Thư ký phiên tòa án24. Trường hợp có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân vắng mặt
hoặc không thể tiếp tục tham gia xét xử vụ án nhưng có Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân dự khuyết tham gia phiên tòa từ đầu thì những người này được thay thế thành
viên HĐXX vắng mặt để tham gia xét xử vụ án25. Trường hợp không có Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân dự khuyết để thay thế thành viên HĐXX thì phải hoãn
phiên tòa26. Như vậy, vai trò của HĐXX sơ thẩm là rất lớn, HĐXX sơ thẩm là tập
thể đại diện để thực hiện thẩm quyền của Tòa án trong TTHC nên sự có mặt của
HĐXX trong phiên tòa sơ thẩm là điều không thể thiếu. Trong trường hợp thành
viên của HĐXX vắng mặt hoặc không thể tiếp tục tham gia xét xử thì việc pháp luật
quy định phải có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dự khuyết tham gia phiên tòa từ
23
http://hvta.toaan.gov.vn/portal/page/portal/hvta/27676686/27677461?p_page_id=27677461&pers_id=2834
6379&folder_id=&item_id=153078413&p_details=1 (truy cập ngày 15/06/2022).
24
Khoản 1 Điều 155 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
25
Khoản 2 Điều 155 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
26
Khoản 3 Điều 155 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
13
đầu để thay thế là hoàn toàn đúng đắn. Vì chỉ những chủ thể này mới thực sự hiểu
được toàn bộ nội dung, tính chất, mức độ của vụ án nhằm đưa ra bản án, quyết định
chính xác, khách quan nhất.
Thứ ba, thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm là kết quả của hoạt động xét xử
sơ thẩm VAHC
TTHC trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, bao gồm: khởi kiện, thụ lý vụ án;
chuẩn bị xét xử; xét xử sơ thẩm; xét xử phúc thẩm; xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
(giai đoạn đặc biệt của TTHC); thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Mỗi giai
đoạn có mỗi nhiệm vụ khác nhau. Cụ thể, đối với giai đoạn khởi kiện, thụ lý thì khi
cơ quan, tổ chức, cá nhân thấy rằng QĐHC, HVHC, QĐKLBTV, quyết định giải
quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu
nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước, danh sách cử tri cụ thể nào đó xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì có quyền khởi kiện VAHC để yêu cầu Toà án
giải quyết. Sau khi nhận được đơn khởi kiện, Toà án phải xem xét, nếu xét thấy
không thuộc trường hợp trả lại đơn thì Toà án thụ lý vụ kiện theo thẩm quyền. Tiếp
đến là giai đoạn chuẩn bị xét xử, trong giai đoạn này, Toà án thực hiện các công
việc chuẩn bị như yêu cầu các bên cung cấp thông tin, tài liệu… Khi xét thấy cần
thiết Toà án có thể thu thập chứng cứ, xem xét tại chỗ, trưng cầu giám định... Sau
khi nhận thấy việc thu thập chứng cứ đã đầy đủ, Toà án phải xem xét và đưa ra một
trong các quyết định: đưa vụ án ra xét xử, tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ giải quyết vụ
án27. Nếu quyết định của Tòa án là đưa vụ án ra xét xử thì tiến đến giai đoạn xét xử
sơ thẩm. Ở giai đoạn này, HĐXX sơ thẩm sẽ nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã
được xem xét, đánh giá tại phiên tòa ở các bước tố tụng trước đó để đưa ra phán
quyết giải quyết VAHC. Nếu bản án, quyết định của HĐXX sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật mà bị đương sự kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị thì bản án, quyết
định đó sẽ được xét lại theo thủ tục phúc thẩm. Giai đoạn này có nhiệm vụ sửa chữa
những sai lầm và vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm, bảo đảm việc áp dụng pháp luật
đúng đắn và thống nhất. Nếu bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
mà bị kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm khi có đủ các căn cứ theo quy định
của pháp luật bởi những chủ thể có thẩm quyền thì bản án, quyết định đó sẽ được
xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Giai đoạn đánh dấu sự kết thúc của quá
trình giải quyết VAHC là thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Bản án, quyết
định của Tòa án phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có nghĩa vụ
nghiêm chỉnh chấp hành. Những người không thi hành bản án hành chính hoặc cố
27
Khoản 6 Điều 131 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
14
tình không chấp hành bản án, quyết định của Toà án về VAHC thì tùy theo tính
chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Kết quả cuối cùng của hoạt động xét xử sơ thẩm VAHC là kết luận cuối cùng
của HĐXX sơ thẩm về nội dung của VAHC. Trong hoạt động TTHC, VAHC là một
cuộc tranh chấp giữa hai bên, một bên là chủ thể quản lý nhà nước (cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước) bên còn lại là các đối tượng
quản lý (đây là dạng tranh chấp hành chính theo nghĩa hẹp). Cơ sở phát sinh của
tranh chấp này là khi chủ thể quản lý nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước (thực
thi quyền hành pháp) xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đối tượng
quản lý (cơ quan, tổ chức, cá nhân)28. Khi giải quyết tranh chấp, Tòa án sơ thẩm mà
cụ thể là HĐXX sơ thẩm sẽ xác định tính có căn cứ, tính hợp pháp của đối tượng
khởi kiện, trên cơ sở đó đưa ra các phán quyết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Như đã đề cập, để thực hiện tốt công việc này,
HĐXX sơ thẩm sẽ nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, đánh giá tại
phiên Tòa ở các bước tố tụng trước đó trong hoạt động xét xử sơ thẩm. Qua nghiên
cứu, HĐXX sơ thẩm sẽ xem xét, cân nhắc ra quyết định chính thức về yêu cầu của
người khởi kiện. Nếu yêu cầu không có căn cứ, nghĩa là các đối tượng khởi kiện đã
hợp pháp, HĐXX sơ thẩm sẽ bác yêu cầu khởi kiện. Ngược lại, nếu các đối tượng
khởi kiện được ban hành, thực hiện trái với quy định của pháp luật thì HĐXX sơ
thẩm sẽ chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện của đương sự để xử lý
đối tượng khởi kiện không hợp pháp. Phán quyết cuối cùng của HĐXX sơ thẩm đều
được thể hiện trong bản án hoặc quyết định kèm theo đó là các căn cứ, tài liệu, hồ
sơ chứng cứ, là kết quả của hoạt động tố tụng trước đó.
Chính vì vậy, có thể nói thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm trong TTHC là kết
quả của hoạt động xét xử sơ thẩm.
Thứ tư, thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm có sự giới hạn
Trong hoạt động xét xử nói chung, mỗi cấp xét xử đều có những chức năng,
nhiệm vụ nhất định đối với từng vụ án và hoạt động TTHC cũng như vậy. Ngay cả
đối với vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án cấp sơ thẩm cũng chỉ có thể xem
xét, quyết định đối với những vấn đề của vụ án trong một phạm vi nhất định nào đó
theo quy định của pháp luật TTHC. Nghĩa là, khi xét xử sơ thẩm VAHC, HĐXX sơ
thẩm chỉ được thực hiện quyền hạn của mình trong một giới hạn nhất định, nếu vượt
ra ngoài giới hạn đó, mọi quyết định của HĐXX sơ thẩm đều không có giá trị pháp
lý.
Hoàng Văn Sao, Nguyễn Phúc Thành (đồng chủ biên) (2014), Giáo trình luật tố tụng hành chính Việt
Nam, Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, tr.212.
28
- Xem thêm -