Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự...

Tài liệu Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự

.PDF
71
1
94

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH QUÁCH HUỲNH GIAO TẠM ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ KHÓA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ TP HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 - NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Phụ LUẬT lục 2: TP HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC Mẫu trang phụ bìa (Khổ 210 x 297 mm) NGƯỜI THỰC HIỆN: QUÁCH HUỲNH GIAO TẠM ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ NGƯỜI HƯỚNG DẪN: ThS. PHẠM THỊ THÚY TP HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 - NĂM 2022 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ .............................................................................. 8 1.1. Khái quát về vụ án dân sự .............................................................................8 1.1.1. Khái niệm vụ án dân sự ........................................................................ 8 1.1.2. Đặc điểm vụ án dân sự .......................................................................... 8 1.2. Khái quát về thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự ................................................11 1.2.1. Khái niệm thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự ............................................. 11 1.2.2. Đặc điểm thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự .............................................. 12 1.2.3. Ý nghĩa thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự ................................................. 15 1.3. Khái quát về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự ............................17 1.3.1. Khái niệm tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự ......................... 17 1.3.2. Đặc điểm tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự .......................... 20 1.3.3. Ý nghĩa tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự ............................. 22 Kết luận chương 1 ................................................................................................... 23 CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ ......................................................................................... 24 2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự ....................................................................................................................24 2.1.1. Căn cứ tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự .............................. 24 2.1.2. Thẩm quyền tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự ..................... 36 2.1.3. Hậu quả pháp lý tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự ............... 36 2.1.4. Thời hạn tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự ........................... 38 2.2. Quy định về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự ở một số quốc gia .....................................................................................................39 2.2.1. Quy định về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự của Cộng hòa Pháp ....................................................................................... 39 2.2.2. Quy định về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự của Liên bang Nga ........................................................................................ 41 Kết luận chương 2 ................................................................................................... 44 CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ............. 45 3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay .............................................................................................45 3.1.1. Tình hình chung về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự .......... 45 3.1.2. Những bất cập trong hoạt động tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự……………………………………………………………………………...47 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự...........................................................................................................53 3.2.1. Giải pháp về mặt pháp lý nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự............................................................ 53 3.2.2. Giải pháp về mặt thực tiễn nhằm hoàn thiện hoạt động tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự................................................................................ 58 Kết luận chương 3 ................................................................................................... 61 KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................. 62 LỜI CAM ĐOAN -----Tác giả xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự là công trình nghiên cứu của bản thân tác giả dưới sự hướng dẫn, giảng dạy của ThS. Phạm Thị Thúy. Toàn bộ nội dung của khóa luận được tác giả đúc kết và rút ra thông qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn xét xử liên quan đến chế định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Khóa luận đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tác giả xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời cam đoan này. Sinh viên thực hiện Quách Huỳnh Giao LỜI CẢM ƠN -----Đầu tiên, để hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả các Thầy, Cô trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình giảng dạy, truyền đạt tri thức, quan tâm và giúp đỡ tác giả trong suốt những năm tác giả học tập tại trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, nhờ sự hỗ trợ, quan tâm tận tình của các Thầy, các Cô trong Khoa Luật Dân sự, Thầy Đỗ Văn Đại - Trưởng Khoa Luật Dân sự, Thầy Võ Trung Tín, Cô cố vấn học tập Lê Ngọc Anh, Cô Xa Kiều Oanh, Cô Trương Tố Oanh đã tạo thêm động lực to lớn cho tác giả có thể cố gắng hoàn thành khóa luận. Đặc biệt, tác giả muốn gửi sự biết ơn sâu sắc đến với Cô Phạm Thị Thúy giảng viên hướng dẫn khóa luận cho tác giả, người đã tận tình quan tâm, hỗ trợ và tạo mọi điều kiện tốt nhất để tác giả có thể hoàn thành tốt khóa luận. Ngoài ra, tác giả cũng gửi lời cảm ơn đến gia đình, tập thể lớp Dân sự 42A1, các bạn sinh viên trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã luôn bên cạnh động viên, giúp đỡ tác giả, nhờ thế mà việc thực hiện khóa luận của tác giả đã giảm bớt đi những khó khăn. Cuối cùng, nếu như không có những sự quan tâm, giúp đỡ và ủng hộ của tất cả mọi người thì có lẽ tác giả sẽ rất khó khăn để hoàn thành đề tài này. Do đó, một lần nữa tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc đến các Thầy, các Cô, gia đình và bạn bè. Sinh viên thực hiện Quách Huỳnh Giao DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT TẮT BLDS năm 2015 BLTTDS BLTTDS năm 2004 BLTTDS năm 2015 VADS NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT Bộ luật Dân sự năm 2015 Bộ luật Tố tụng dân sự Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Vụ án dân sự PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tại kì họp thứ 10, ngày 25/11/2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016 gồm 42 chương, 517 điều và thay thế Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011. Có thể nói, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ra đời với nhiều sửa đổi, bổ sung đã có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể tiếp cận và nắm bắt được những quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Thông qua những quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành, quy trình tố tụng dân sự trải qua các giai đoạn bao gồm: khởi kiện và thụ lý vụ án; thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử sơ thẩm; xét xử sơ thẩm; xét xử phúc thẩm; giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án dân sự và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án. Tuy nhiên, không phải vụ án dân sự nào cũng đều trải qua tất cả các giai đoạn kể trên cũng như không phải tiến trình giải quyết vụ án dân sự nào cũng diễn ra liên tục, xuyên suốt từ giai đoạn này đến giai đoạn khác mà việc giải quyết vụ án có thể bị gián đoạn, không thể tiếp tục được nữa khi xuất hiện những căn cứ mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định. Cụ thể, trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nói chung và đặc biệt là trong giai đoạn xét xử phúc thẩm nói riêng, sau khi vụ án được Tòa án thụ lý thì rất có thể sẽ xuất hiện những tình tiết, sự kiện nhất định làm cho việc xét xử phúc thẩm vụ án bị tạm dừng. Nếu Tòa án bỏ qua những tình tiết, sự kiện này mà vẫn tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án thì có thể sẽ làm cho kết quả xét xử phúc thẩm vụ án dân sự không được chính xác, từ đó dẫn đến không bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Chính vì thế, khi xuất hiện những tình tiết, sự kiện làm cho việc xét xử phúc thẩm cần được tạm dừng để xác minh thêm các điều kiện cần thiết thì Tòa án cấp phúc thẩm phải ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án đó cho đến khi có đủ điều kiện để tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Mặc dù so với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 thì Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành đã có những quy định bổ sung về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự tại Điều 288 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 dẫn chiếu đến Điều 214, Điều 1 215, Điều 216 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tuy nhiên, căn cứ vào quy định của pháp luật, thực tiễn giải quyết và chủ thể áp dụng thì hiện nay còn tồn tại một số bất cập liên quan đến chế định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự này. Ngoài ra, tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm là một trong những quyết định quan trọng trong quá trình giải quyết phúc thẩm vụ án dân sự song hiện nay, các công trình nghiên cứu về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự không nhiều trong khi quy định của pháp luật chưa thực sự hoàn chỉnh. Từ các lý do trên, nhằm mục đích tìm hiểu, xem xét những quy định của pháp luật, thực tiễn xét xử cũng như chỉ ra những hạn chế của chế định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm để từ đó có thể kiến nghị một số giải pháp góp phần hoàn thiện hoạt động tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự, cho nên tác giả đã quyết định chọn đề tài: “Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự là một trong những hoạt động tố tụng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Tuy nhiên, thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu của tác giả thì từ sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được ban hành và có hiệu lực cho đến nay vẫn chưa có bất kỳ công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Trong quá trình khảo sát của tác giả dựa trên cơ sở hệ thống những Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, các bài viết, sách chuyên khảo, tạp chí, luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp,... tác giả đã tìm được một số công trình có thể kể đến như sau: Giáo trình Luật Tố tụng dân sự của các trường như trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, trường Đại học Luật Hà Nội, trường Đại học Kinh tế Luật, trường Đại học Kiểm sát Hà Nội,… là những giáo trình được xây dựng để nhằm mục đích cung cấp cho người học luật, nghiên cứu pháp luật những kiến thức cơ bản, nền tảng về mặt lý luận của tố tụng dân sự và từ đó tổng hợp, so sánh, đánh giá về các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến tố tụng dân sự,... Chính vì thế, trong những Giáo trình Luật Tố tụng dân sự này, các tác giả không đi sâu vào phân tích cụ thể, chi tiết các vướng mắc, bất cập về mặt thực tiễn liên quan đến quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự cũng như bàn luận chuyên 2 sâu về chế định này trên thực tế. Những Giáo trình Luật tố tụng dân sự là cơ sở nền tảng về mặt lý luận để tác giả nắm vững quy định pháp luật liên quan đến chế định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự và đi sâu vào phân tích, bình luận, so sánh,... những vấn đề liên quan đến chế định này. Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 do tác giả Đoàn Tấn Minh, tác giả Nguyễn Ngọc Điệp biên soạn, Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội (năm 2016): Trong công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã bình luận những vấn đề về mặt lý luận, nêu ra một số điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Và tác giả có đề cập đến quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự quy định tại Điều 288 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: “Vấn đề đặt ra là tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm là quyết định sơ thẩm hay phúc thẩm. Cho đến nay Tòa án nhân dân tối cao chưa có hướng dẫn về trường hợp này, do đó có thể dẫn đến việc lạm dụng hoặc tạm đình chỉ sai”1. Tuy nhiên, tác giả trên cơ sở phân tích, đánh giá sơ lược quy định của pháp luật và đưa ra kiến nghị ở phạm vi tương đối hẹp, không đi sâu vào nghiên cứu chi tiết về quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015 của tác giả Trần Anh Tuấn, Nhà xuất bản Tư pháp (năm 2017): Trong công trình nghiên cứu này, giống như những tài liệu khoa học khác liên quan đến quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tài liệu này đã bình luận một cách tổng thể những quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành, những điểm mới so với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011. Bên cạnh đó, tác giả cũng cho rằng căn cứ tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự tại Điều 288 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng tương tự như căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại Điều 214 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và tác giả khẳng định: “Trước đây, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi 2011 chưa quy định rõ về tính chất của quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm có được quyền kháng cáo, kháng nghị không, nay Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xác định rõ tính chất quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm khác quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm nên nó có hiệu lực pháp luật ngay 1 Đoàn Tấn Minh, Nguyễn Ngọc Diệp (2016), “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: Dành cho thẩm phán, hội thẩm, thẩm tra viên, kiểm sát viên, luật sư và các học viên tư pháp”, NXB Lao Động, tr.251. 3 không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm”2. Tuy nhiên, việc cung cấp này chỉ dừng lại ở mức độ liệt kê, khái quát, dẫn chiếu đến quy định tại Điều 214 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 mà không đi vào phân tích cụ thể, không đi sâu vào nghiên cứu chi tiết về quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự tại Điều 288 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và những vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng quy định này trong thực tiễn. Khoá luận tốt nghiệp“Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự”, của tác giả Trần Thị Thảo (năm 2017): Trong công trình này, tác giả đã tập trung để phân tích quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự thông qua khái niệm, đặc điểm, căn cứ, thẩm quyền, hình thức, hậu quả pháp lý của việc đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự cũng như chỉ ra những bất cập và đề xuất kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả cho việc áp dụng pháp luật trên thực tế. Do công trình này nhằm mục đích làm rõ hơn quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về chế định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự, tìm hiểu thực trạng áp dụng các quy định về chế định này, cho nên tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự không được tác giả đi sâu vào nghiên cứu mà chỉ được xuất hiện trong sự tương quan, so sánh với quyết định đình chỉ được ban hành trong giai đoạn phúc thẩm. Bài viết “Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự” của tác giả Lê Thị Hồng Hạnh, đăng trên Tạp chí Kiểm sát (năm 2018): tác giả đưa ra một số thực trạng khi Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án: (1) Chưa hết thời hạn chuẩn bị xét xử đã tạm đình chỉ vụ án; (2) chưa hết thời hạn của các cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ đã giải quyết vụ án theo quy định tại các điều 105, 106 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án đã ra quyết định tạm đình chỉ; (3) tạm đình chỉ theo yêu cầu của đương sự nhưng không có căn cứ3. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra đề xuất, kiến nghị để giải quyết những bất cập nêu trên. Song, vì nội dung chính của công trình là tập trung vào quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm và có sự khác biệt với quyết định tạm chỉ xét xử phúc thẩm nên bài viết chỉ dừng lại ở một số khía cạnh nhất định chứ không phân tích cụ thể về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. 2 Trần Anh Tuấn (2017), “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, NXB Tư pháp, tr.648. 3 Lê Thị Hồng Hạnh (2018), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 09, tr.16. 4 Luận văn thạc sĩ “Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Thanh (năm 2014): Tại công trình này, tác giả cũng đã làm rõ một số vấn đề chung về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân các cấp trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, trong pháp luật tố tụng dân sự một số quốc gia trên thế giới. Đồng thời, công trình chỉ ra một số thực trạng áp dụng căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án trong thực tiễn giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân các cấp và phân tích những điểm còn vướng mắc, bất cập của pháp luật về căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Để từ đó nhằm xây dựng cơ sở kiến nghị, hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tạm đình chỉ. Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự được tác giả khái quát sơ bộ trong sự tương quan với quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Do đề tài tập trung nghiên cứu các khía cạnh lý luận và thực tiễn về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự chính vì thế, quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự không được tác giả phân tích một cách cụ thể, chuyên biệt. Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Trần Thị Ngọc Sơn với đề tài “Thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự” (năm 2007): Tác giả đã phân tích, đánh giá trọng tâm vào những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật hiện hành về căn cứ, trình tự, thủ tục phúc thẩm cũng như thực tiễn xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Từ đó, đưa ra các giải pháp khắc phục nhằm hoàn thiện chế định này. Và trong khoá luận của mình, tác giả có đề cập đến quy định về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự nhưng chỉ trong sự tương quan với thủ tục giải quyết vụ án dân sự được ban hành trong giai đoạn phúc thẩm cũng như dưới góc độ nghiên cứu của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, cho nên quy định về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm không được tác giả nghiên cứu, phân tích toàn diện, chi tiết ở trong công trình của mình. Như tác giả đã phân tích, những công trình nêu trên chủ yếu chú trọng đi vào phân tích hoạt động tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cũng như tập trung đi sâu vào khía cạnh nhất định mà công trình nghiên cứu đến chứ không phân tích một cách cụ thể, chuyên biệt về chế định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự mà chỉ mới dừng lại ở việc cung cấp sơ lược về chế định này. Do đó, có thể nói, hiện nay vẫn chưa có công trình nào đi vào nghiên cứu, phân tích những quy định của pháp luật tố tụng dân sự về chế định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự một cách chuyên sâu, toàn diện. Chính vì thế, tác giả sẽ phân tích và làm rõ điều này trong phạm vi của khóa luận. 5 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Tác giả nghiên cứu vấn đề tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự với mục đích là nhằm tập trung vào nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Đồng thời, tác giả phân tích, đánh giá thực trạng về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả nêu lên những vấn đề còn vướng mắc, bất cập về quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Và trên cơ sở đó tác giả đưa ra một số đề xuất, kiến nghị về mặt pháp lý cũng như thực tiễn nhằm góp phần hoàn thiện hoạt động tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm, nâng cao chất lượng của quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự trong tiến trình tố tụng, hướng đến mục đích cuối cùng là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. 4. Phạm vi nghiên cứu đề tài Khóa luận đi sâu vào việc nghiên cứu một số vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn hiện nay liên quan đến hoạt động tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trong phạm vi của khóa luận, tác giả nghiên cứu từ những nội dung khái quát như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa cho đến từng quy định cụ thể của pháp luật tố tụng dân sự về chế định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án. Bên cạnh đó, đề tài xem xét, trình bày, đánh giá sơ lược thực trạng về hoạt động tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm. Từ đó, tác giả chỉ ra những điểm hạn chế còn tồn tại trên thực tế có ảnh hưởng đến hiệu quả của tiến trình xét xử phúc thẩm vụ án dân sự và cuối cùng tác giả kiến nghị một số giải pháp để góp phần hoàn thiện pháp luật. 5. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu Để có thể đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, tác giả chủ yếu phân tích, đánh giá, nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác - Lênin, kết hợp với tư tưởng của Hồ Chí Minh cũng như quan điểm chủ trương của Đảng, Nhà nước về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, tác giả cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp liệt kê, so sánh, phân tích, đánh giá; phương pháp diễn dịch, quy nạp; phương 6 pháp phân tích số liệu, thống kê, tổng hợp và cùng với những phương pháp khác để phục vụ cho việc nghiên cứu khóa luận đạt hiệu quả cao. 6. Bố cục của Khóa luận Khóa luận được chia thành ba chương, cụ thể như sau: Chương 1. Một số vấn đề chung về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự Chương 2. Quy định pháp luật về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự Chương 3. Thực trạng áp dụng pháp luật về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự và một số kiến nghị. 7 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái quát về vụ án dân sự 1.1.1. Khái niệm vụ án dân sự Khái niệm vụ việc dân sự được Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 ghi nhận lần đầu tiên tại Điều 1 Bộ luật này. Đến Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì khái niệm này tiếp tục được kế thừa và hoàn chỉnh. Và dưới góc độ nghiên cứu những quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhận thấy: Vụ việc dân sự phát sinh tại Tòa án nhân dân trong trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân gửi đơn tới Tòa án có thẩm quyền đề nghị Tòa án giải quyết các vấn đề tranh chấp, các yêu cầu không có tranh chấp, phát sinh từ các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và được Tòa án thụ lý theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Trong đó, vụ việc dân sự thì bao gồm vụ án dân sự và việc dân sự 4. Như vậy, với quy định tại Điều 1 BLTTDS năm 2015 thì hai khái niệm này đã được phân biệt khá rõ. Cụ thể, có thể hiểu khái niệm VADS là những vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức gửi đơn khởi kiện tới Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Còn việc dân sự là trường hợp mà cá nhân, cơ quan, tổ chức gửi đơn yêu cầu tới Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý nào đó tuy không có tranh chấp nhưng làm phát sinh quyền, nghĩa vụ về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. 1.1.2. Đặc điểm vụ án dân sự Từ hai khái niệm nêu trên có thể thấy dấu hiệu để phân biệt giữa VADS và việc dân sự đó chính là yếu tố tranh chấp. Bởi lẽ, nếu VADS có dấu hiệu đặc trưng là có tranh chấp thì không có tranh chấp là dấu hiệu đặc trưng của việc dân sự. Thông qua việc phân biệt rõ ràng hai khái niệm VADS và việc dân sự khác nhau ở chỗ là có hay không có yếu tố tranh chấp đã cho thấy trình tự, thủ tục tố tụng giải quyết VADS phức tạp hơn và thời gian giải quyết sẽ dài hơn so với quá trình giải quyết việc dân sự có trình tự, thủ tục tố tụng giải quyết đơn giản hơn và thời gian 4 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2020), “Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam”, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.18. 8 giải quyết sẽ ngắn hơn. Nguyên nhân chính là xuất phát từ VADS thì có tranh chấp, khi đó quyền và lợi ích của các bên nguyên đơn và bị đơn có sự đối lập, mâu thuẫn với nhau, cho nên chắc chắn quá trình giải quyết VADS sẽ phức tạp hơn, trình tự, thủ tục nhiều hơn và Tòa án cần nhiều thời gian hơn để có thể giải quyết toàn diện vụ án, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Còn đối với việc dân sự, vì không có tranh chấp và Tòa án chỉ phải ra quyết định công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý nào đó như yêu cầu tuyên bố một người mất tích, yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự,... theo yêu cầu từ phía đương sự mà quyền và lợi ích không có sự đối lập, mâu thuẫn với nhau. Do đó, trình tự, thủ tục giải quyết việc dân sự đơn giản hơn và thời gian giải quyết của Tòa án sẽ ngắn hơn. Trong VADS có sự đối lập về quyền lợi giữa các đương sự là đặc điểm gắn liền với đặc điểm nêu trên. Bởi vì, xuất phát từ VADS có tranh chấp, cho nên khi phát sinh tranh chấp thì quyền lợi giữa các đương sự có sự đối kháng với nhau. Trong VADS có tối thiểu hai bên, ít nhất là hai bên có quyền lợi đối lập nhau bao gồm bên nguyên đơn và bên bị đơn. Còn việc dân sự không có tranh chấp mà có sự đồng thuận của các bên. Bên cạnh đó, VADS phải tiến hành hòa giải. Đặc điểm này xuất phát từ một trong những nguyên tắc quan trọng được ghi nhận tại Điều 10 BLTTDS năm 2015 đó là việc Tòa án phải có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự. Hòa giải có thể hiểu là phương thức giải quyết tranh chấp bắt buộc phải có sự tham gia của bên thứ ba. Trong tố tụng dân sự bên thứ ba ở đây chính là cơ quan Tòa án. Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện nay, có nhiều phương thức giải quyết tranh chấp trong đó hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp, thỏa thuận cũng là một phương thức giải quyết hòa bình, thương lượng thỏa thuận với nhau. Trong đó, với tố tụng dân sự, hòa giải trong trường hợp này sẽ có sự tham gia của Tòa án còn phương thức giải quyết tranh chấp thỏa thuận là để các bên thỏa thuận với nhau. Nhiệm vụ của Tòa án trong các hoạt động hòa giải là Tòa án sẽ tổ chức phiên hòa giải, sau đó Tòa án giải thích quy định của pháp luật cho các bên và Tòa án không được can thiệp vào quá trình phân giải của các bên còn việc các bên thương lượng như thế nào là quyền tự do, tự nguyện của các bên. Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải ở trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, cụ thể là tại phiên họp kiểm tra 9 việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Đặc điểm này khác với thời điểm Tòa án tiến hành thỏa thuận là thỏa thuận trong suốt quá trình tố tụng. Đối với giải quyết việc dân sự Tòa án vẫn có thể tiến hành hòa giải nhưng chỉ duy nhất đối với việc dân sự thuận tình ly hôn còn những việc dân sự khác không đặt ra thủ tục hòa giải5. Quy định này xuất phát từ bản chất của hoà giải là nhằm giải quyết tranh chấp nhưng mà việc dân sự thì không có tranh chấp. Còn đối với thủ tục giải quyết VADS ở cấp sơ thẩm, cụ thể là trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án có trách nhiệm phải tiến hành hòa giải chỉ trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không hòa giải được theo như quy định tại Điều 206, Điều 207 BLTTDS năm 2015. Từ quy định của pháp luật xác định, hòa giải và thỏa thuận đều là phương thức giải quyết tranh chấp do đó, nếu như việc dân sự không có tranh chấp thì bản chất của việc dân sự sẽ không có hòa giải trừ trường hợp thuận tình ly hôn và đây cũng là các quy định mới của BLTTDS năm 2015 còn BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 không có quy định cụ thể là với việc dân sự thuận tình ly hôn có phải tiến hành hòa giải hay không. Chính vì pháp luật chưa có quy định cụ thể do đó, thực tiễn điều này đã dẫn đến một hệ quả pháp lý đó là một số Tòa án sẽ tiến hành hòa giải và có Tòa án thì không tiến hành hòa giải, không thống nhất với nhau về thủ tục hoà giải trong trường hợp này. Tuy nhiên, đến BLTTDS năm 2015 đã quy định cụ thể việc dân sự thuận tình ly hôn bắt buộc tiến hành hòa giải. Đồng thời, Tòa án sẽ mở phiên tòa để giải quyết VADS. Đây là một đặc điểm mà VADS cũng khác với việc dân sự. Vì đối với giải quyết vụ án thì Tòa án sẽ mở phiên tòa và các phiên tòa như là phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm, phiên tòa giám đốc thẩm, phiên tòa tái thẩm nhưng đối với việc dân sự thì Tòa án mở phiên họp để giải quyết việc dân sự. Cùng với đó, thành phần Hội đồng xét xử giải quyết VADS có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Trên cơ sở căn cứ vào quy định tại Điều 63 BLTTDS năm 2015 nhận thấy thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm VADS tại phiên tòa được tiến hành bởi Hội đồng bao gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, nếu trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử giải quyết VADS có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân còn đối với phiên họp giải quyết việc dân sự được tiến hành bởi một Thẩm phán hoặc Hội đồng bao gồm ba Thẩm phán như vậy, 5 Xem Điều 397 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. 10 không có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân trong thủ tục giải quyết việc dân sự. Nói cách khác, Hội thẩm nhân dân không tham gia bất kì giai đoạn nào trong giải quyết việc dân sự. Hội thẩm nhân dân chỉ tiến hành giải quyết tại phiên tòa mà không tham gia giải quyết tại phiên họp. Nguyên nhân là bởi trình tự, thủ tục giải quyết việc dân sự thì đơn giản, các bên không có tranh chấp với nhau, chỉ có một tuyến đương sự và đương sự đưa ra yêu cầu, để yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý hay công nhận quyền về dân sự nào đó. Trong trường hợp này, Tòa án chỉ trên cơ sở tài liệu, chứng cứ và Tòa án ra phán quyết công nhận hoặc không công nhận yêu cầu công nhận một sự kiện pháp lý hay là công nhận quyền về dân sự. Cùng với đó, không phải tất cả các phiên tòa giải quyết VADS cũng đều có sự tham gia của Hội đồng xét xử mà chỉ có phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục thông thường mới có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân còn trong thủ tục rút gọn không có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Bởi vì, trên cơ sở xem xét quy định tại Điều 317 BLTTDS năm 2015 thấy rằng, một trong các điều kiện để xét xử theo thủ tục rút gọn là vụ án không quá phức tạp, tình tiết đơn giản, tài liệu, chứng cứ rõ ràng nên cũng không cần thiết phải có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân và trong trường hợp này chỉ có sự tham gia của một Thẩm phán. Như vậy, theo quy định của pháp luật, Hội thẩm nhân dân chỉ tham gia duy nhất tại phiên tòa xét xử sơ thẩm VADS theo thủ tục thông thường. Và điều này có nghĩa là Hội thẩm nhân dân sẽ không tham gia vào các phiên tòa, phiên họp khác như phiên họp sơ thẩm, phiên họp phúc thẩm, phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn, phiên tòa phúc thẩm, phiên tòa giám đốc thẩm, phiên tòa tái thẩm. Cuối cùng, kết quả của phiên tòa có thể là bản án, quyết định. Trình tự phiên tòa sơ thẩm thì sẽ bao gồm bốn thủ tục, cụ thể như sau: Đầu tiên là bắt đầu phiên tòa, tiếp theo là tranh tụng, kế đến là nghị án và cuối cùng là tuyên án. Đặc biệt, kết quả của phiên tòa sơ thẩm là bản án hoặc có thể là quyết định nhưng các bản án, quyết định này ở giai đoạn sơ thẩm thì đa phần chưa có hiệu lực thi hành ngay. 1.2. Khái quát về thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự 1.2.1. Khái niệm thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự Đảm bảo chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam được quy định tại khoản 1 Điều 17 BLTTDS năm 2015: “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của 11 Bộ luật này. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật”6. Theo đó, về nguyên tắc, sau khi bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm được tuyên thì bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà còn một thời hạn để các chủ thể thực hiện hành vi kháng cáo hoặc kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Trong trường hợp này, nếu như đương sự kháng cáo hoặc Viện kiểm sát kháng nghị theo luật định thì bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm sẽ được Tòa án cấp trên tiến hành xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Thêm vào đó, tại Điều 270 BLTTDS năm 2015 ghi nhận về tính chất của xét xử phúc thẩm như sau: “Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị”7. Như vậy, dưới góc độ nghiên cứu những quy định của pháp luật về xét xử phúc thẩm VADS nhận thấy: Việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị được gọi là thủ tục xét xử phúc thẩm. 1.2.2. Đặc điểm thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự Thông qua khái niệm về thủ tục phúc thẩm VADS nêu trên, có thể thấy thủ tục phúc thẩm VADS sẽ có những đặc điểm cơ bản như sau: Thứ nhất, thủ tục phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai. Một trong những nguyên tắc có vai trò quan trọng của tố tụng dân sự đó là thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Đây cũng là nội dung nguyên tắc xét xử hai cấp mà hệ thống Tòa án của Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới áp dung, nhằm bảo đảm tính thận trọng cho các phần phán quyết nhân danh nhà nước8. Hai cấp xét xử bao gồm cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử phúc thẩm. Phúc thẩm là một cấp xét xử nhưng thủ tục phúc thẩm không phải là lần xét xử đầu tiên đối với một vụ án mà 6 Khoản 1 Điều 17 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều 270 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. 8 Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), “Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam”, NXB Công an nhân dân, tr.307. 7 12 phúc thẩm là lần xét xử thứ hai sau thủ tục sơ thẩm. Về bản chất, nếu như sơ thẩm là cấp xét xử tiền đề để giải quyết những yêu cầu của đương sự, là cấp xét xử thứ nhất xem xét toàn diện VADS thì phúc thấm chỉ xét xử lại bản án, quyết định sơ thẩm; xem xét lại tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm. Nói cách khác, vụ án phải được xét xử sơ thẩm rồi sau đó mới được xét xử phúc thẩm. Thứ hai, cơ sở phát sinh thủ tục phúc thẩm là có kháng cáo hoặc kháng nghị. Thủ tục phúc thẩm VADS chỉ phát sinh khi có kháng cáo hoặc kháng nghị của những chủ thể được pháp luật quy định. Như vậy, không bắt buộc phải đồng thời có kháng cáo và kháng nghị mới phát sinh thủ tục phúc thẩm mà chỉ có kháng cáo hoặc kháng nghị thì đã phát sinh thủ tục phúc thẩm. Trong đó, có thể hiểu kháng cáo là hoạt động tố tụng của đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm. Và kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật trong việc đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại VADS mà bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Từ đó nhận thấy, sự khác nhau giữa khái niệm kháng cáo và kháng nghị là về mặt chủ thể. Cụ thể nếu như chủ thể kháng cáo là đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện thì trong khi đó kháng nghị là hành vi tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân. Ngoài ra, căn cứ vào Điều 3 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân được chia làm các cấp bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương. Trong đó, chỉ có Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp cao là có thẩm quyền xét xử phúc thẩm VADS. Do đó, nếu bản án, quyết định sơ thẩm do Tòa án cấp huyện tuyên mà bị kháng cáo, kháng nghị sẽ thuộc thẩm quyền xét xử phúc thẩm của Tòa án cấp tỉnh. Còn bản án, quyết định sơ thẩm do Tòa án cấp tỉnh tuyên khi bị kháng cáo, kháng nghị sẽ thuộc thẩm quyền xét xử phúc thẩm của Tòa án cấp cao. Bởi vì, căn cứ vào Điều 270 BLTTDS năm 2015 có quy định thẩm quyền được xét xử phúc thẩm thuộc về Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp đó chính là Tòa án cấp trên trực tiếp. Mà Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án cấp huyện là Tòa án cấp tỉnh, cho nên Tòa 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan