Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình việt nam hiện n...

Tài liệu Tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình việt nam hiện nay

.PDF
175
296
87

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ------------ ĐẶNG VĂN LUẬN TÁC ĐỘNG CỦA TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI ĐẾN GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Hà Nội - 2017 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ---------ĐẶNG VĂN LUẬN TÁC ĐỘNG CỦA TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI ĐẾN GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử Mã số : 62.22.03.02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS, TS. Nguyễn Trọng Chuẩn Hà Nội - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của GS,TS. Nguyễn Trọng Chuẩn. Các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào. Các thông tin trích dẫn trong luận án này đều được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày 28 tháng 08 năm 2017 Tác giả luận án Đặng Văn Luận MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU:.................................................................................................. 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Những nghiên cứu lý luận về tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại, về gia đình.................................................................................................... 6 1.2. Những nghiên cứu về thực trạng tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam......................................................... 13 1.3. Những nghiên cứu về giải pháp nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam.............................................................. 20 1.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án................ 26 Chƣơng 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI ĐẾN GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Lý luận về “tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại”, về “gia đình”...................................................................................................... .... 28 2.2. Tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay: Một số vấn đề lý luận cơ bản............................................. 49 Tiểu kết chương 2...................................................................................... 65 Chƣơng 3: TÁC ĐỘNG CỦA TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI ĐẾN GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. Thực trạng tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay......................................................................... 67 3.2. Một số vấn đề đặt ra từ tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay........................................................... 102 Tiểu kết chương 3...................................................................................... 119 1 Chƣơng 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI ĐẾN GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1. Giải pháp nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến cấu trúc gia đình Việt Nam hiện nay......................................................................... 121 4.2. Giải pháp nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến chức năng của gia đình Việt Nam hiện nay................................................................ 128 4.3. Giải pháp nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến lối sống gia đình Việt Nam hiện nay....................................................................... 137 Tiểu kết chương 4...................................................................................... 146 KẾT LUẬN.............................................................................................. 148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN.................................................................................... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... 153 PHỤ LỤC.................................................................................................. 167 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bước sang thế kỷ XXI, loài người đã và đang chứng kiến sự ra đời và phát triển vượt bậc của những tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại. Đến lượt mình, những tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại không những làm thay đổi phương thức sản xuất, tạo ra bước tiến lớn của nhân loại mà còn để lại những dấu ấn rất đậm nét trong đời sống gia đình với tư cách là một thiết chế, một tổ chức cơ sở và một đơn vị văn hoá của xã hội. Tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại như những “đợt sóng” ào ạt dội vào gia đình, phá vỡ cấu trúc cũ, trật tự cũ, tạo ra phong cách gia đình mới. Những tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông đã làm cho khái niệm không gian và thời gian dường như thay đổi, không gian như hẹp hơn, thời gian như ngắn lại. Điều đó, cũng có nghĩa là các thành viên trong gia đình có thể thường xuyên gặp nhau hơn, gần nhau hơn bằng kỹ thuật - công nghệ hiện đại. Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản khẳng định, lấy sự “phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước” [38, tr.218]. Thực tế cũng chứng minh những tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại không chỉ có ý nghĩa lớn lao trong lĩnh vực sản xuất vật chất mà còn có tác động nhất định đến tiến bộ xã hội, đặc biệt là đến gia đình Việt Nam hiện nay. Vậy, tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đang tác động đến gia đình Việt Nam như thế nào và trên những phương diện nào? Đó là những tác động tích cực hay tiêu cực? Tác động nào là tích cực, tác động nào là tiêu cực? v.v.. Những câu hỏi này đã từng được đặt ra và thảo luận trong xã hội của chúng ta từ mấy thập kỷ gần đây, nhất là từ khi Việt Nam bước vào thời kỳ Đổi mới, nhưng cho đến nay vẫn chưa thật sự có được câu trả lời thuyết phục. Đứng trước những vấn đề trên, nếu chúng ta không quan tâm nghiên cứu tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình thì sẽ thiếu đi một cơ 1 sở khoa học để “xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” [38, tr.77]. Do đó, việc nhận diện những biểu hiện và xem xét cơ chế tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay là cần thiết và cấp thiết. Để từ đó, đề xuất một số giải pháp hữu hiệu nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực từ tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay. Bởi, thực tiễn cho thấy “sức mạnh trường tồn của quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào sự tồn tại và phát triển của gia đình” [146, tr.7] và “nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt” [104, tr.523]. Với lý do đó, tác giả chọn vấn đề: “Tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ Triết học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Trên cơ sở phân tích thực trạng tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay cùng những vấn đề đặt ra, luận án đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay cũng như trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ nghiên cứu như sau: - Trình bày và làm sáng tỏ thêm các khái niệm “khoa học”, “công nghệ”, “tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại”, “gia đình”; phân tích một số vấn đề lý luận cơ bản về sự tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam; - Phân tích, đánh giá thực trạng tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay cùng những vấn đề đặt ra; 2 - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay cũng như trong thời gian tới. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Nội dung của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại rất rộng. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu, luận án chỉ khái quát một số tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại có tác động mạnh mẽ đến sự biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay, như công nghệ thông tin và truyền thông; công nghệ sinh học; công nghệ vật liệu tiên tiến; công nghệ năng lượng mới. Sự tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay rất dữ dội, phức tạp, đa diện và đa chiều. Vì vậy, luận án chỉ tập trung phân tích, làm rõ thực trạng tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam (gia đình người dân tộc Kinh) hiện nay, dưới ba khía cạnh: cấu trúc, chức năng và lối sống. Luận án lựa chọn thời gian nghiên cứu bắt đầu từ thời kỳ Đổi mới (từ năm 1986 đến nay). 4. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn Luận án dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về khoa học và công nghệ, về gia đình để phân tích sự biến đổi của gia đình Việt Nam dưới tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại. Đồng thời, luận án kế thừa có chọn lọc kết quả của một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đã được công bố. 3 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là các phương pháp lịch sử - logic; phân tích - tổng hợp; quy nạp - diễn dịch; đối chứng và so sánh; phương pháp phân tích tài liệu có sẵn; đồng thời có sử dụng phương pháp liên ngành khoa học xã hội để làm rõ nội dung nghiên cứu. 5. Đóng góp mới của luận án - Luận án góp phần sáng tỏ thêm các khái niệm “khoa học”, “công nghệ”, “tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại”, “gia đình”, lý luận về sự tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay; - Phân tích, đánh giá thực trạng tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay cùng những vấn đề đặt ra (dưới khía cạnh cấu trúc, chức năng và lối sống); - Đề xuất được một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay cũng như trong thời gian tới. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Những vấn đề mà luận án đề cập và giải quyết sẽ góp phần làm sáng tỏ lý luận về sự tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo hữu ích đối với cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ, về gia đình trong việc hoạch định chính sách, tìm kiếm các giải pháp nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam. 4 - Kết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập và giảng dạy môn Triết học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Xã hội học gia đình, Gia đình học, v.v.. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan đến luận án, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu thành 4 chương, 11 tiết. 5 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Những nghiên cứu lý luận về tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại, về gia đình 1.1.1. Những nghiên cứu lý luận về tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại Năm 1988, Nguyễn Trọng Chuẩn trong bài viết “Cách mạng khoa học - kỹ thuật và sự tác động của nó đến các nước đang phát triển” đã cho rằng, sự phát triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật “về thực chất là một hiện tượng lịch sử - xã hội phức tạp” [15, tr.5]. Tác giả cũng đưa ra lý luận về cách mạng khoa học - kỹ thuật. Đây thực sự là những gợi ý quan trọng giúp cho tác giả luận án trong việc phân tích lý luận về mối quan hệ giữa tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại với đời sống xã hội trong đó có gia đình. Đặng Hữu, trong cuốn Khoa học và công nghệ với sự phát triển kinh tế - xã hội (1989) cho rằng: “Công nghệ là một tập hợp những hiểu biết hướng vào cải tạo tự nhiên, phục vụ nhu cầu của con người” [66, tr.7]. Khi nói về công nghệ, cần xem xét ở cả hai khía cạnh là phần cứng và phần mềm. Công nghệ không thể phát triển từ kinh nghiệm thực tế mà phải từ kết quả nghiên cứu khoa học, ngược lại các nghiên cứu khoa học cũng phụ thuộc vào công nghệ. Công trình là tài liệu giúp tác giả của luận án hiểu rõ hơn lý luận về mối quan hệ giữa tiến bộ khoa học với công nghệ hiện đại. Bài viết “Khoa học và công nghệ - chìa khóa phát triển kinh tế và những vấn đề của xã hội hiện đại” của Đặng Ngọc Dinh trong cuốn Trao đổi ý kiến những vấn đề lý luận của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (1990), đã khái lược những thành tựu công nghệ mới vào những năm 80 của thế kỷ XX, đồng thời khẳng định vai trò của nó như là “chìa khóa” cho sự thay đổi xã hội, kinh tế, chính trị, nghệ thuật và nhân cách. Tuy nhiên, tác giả cũng lưu ý cần “phải sử dụng công nghệ một cách thông minh và thận trọng” [26, tr.11]. Mặc dù với dung lượng không dài, nhưng công trình 6 nghiên cứu giúp tác giả luận án có cái nhìn về lịch sử phát triển của công nghệ trong những năm 80 của thế kỷ XX. Trong cuốn Khoa học công nghệ với nhận thức và biến đổi thế giới và con người - Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn (2003), trên cơ sở phân tích và khái quát các quan niệm về khoa học công nghệ phổ biến hiện nay, Phạm Thị Ngọc Trầm cho rằng, “ngày nay, khi nói đến công nghệ, người ta hiểu ngay trong nó có khoa học. Trong công nghệ, trí tuệ, tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” [157, tr.70]. Công trình này là tài liệu hữu ích giúp tác giả luận án đưa ra và làm rõ hơn lý luận về tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại. Năm 2004, trong cuốn Kinh tế tri thức - Thời cơ và thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam, Đặng Hữu đã dành 57 trang viết về cách mạng khoa học và công nghệ, đồng thời chỉ ra những công nghệ tiên tiến đã làm thay đổi xã hội loài người, như công nghệ sinh học giúp “con người có thể kiểm soát được quá trình sinh trưởng của mình chống lại các bệnh tật, phát triển thể lực và trí lực, có sự sống tốt đẹp” [67, tr.32]. Công trình nghiên cứu được chuẩn bị công phu, có giá trị lý luận giúp tác giả luận án hiểu biết hơn về công nghệ tiên tiến và tác động của nó đến chức năng gia đình Việt Nam hiện nay. Đặng Mộng Lân, trong công trình “Góp ý về việc sử dụng các khái niệm “Khoa học và công nghệ” và “Khoa học công nghệ”” (2006) đã đi từ khái niệm “khoa học” đến khái niệm “công nghệ”, từ khái niệm “khoa học kỹ thuật” đến khái niệm “khoa học công nghệ”, và từ khái niệm “khoa học và kỹ thuật - công nghệ”, rồi bàn đến khái niệm “khoa học và công nghệ” đang được sử dụng hiện nay. Tác giả cũng đặt câu hỏi nên “dùng thế nào cho chính xác” [86, tr.31]. Công trình giúp cho tác giả luận án có thêm cơ sở trong việc lựa chọn dùng thuật ngữ tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại. Năm 2008, trong cuốn Cấu trúc các cuộc Cách mạng Khoa học, Thomas Kuhn đã đưa ra cái nhìn mới về lịch sử của sự phát triển, sự tiến hoá của khoa học. Theo Thomas Kuhn, khoa học không phát triển theo đường thẳng mà thông qua tích luỹ đều đặn các tri thức mới, trải qua các cuộc cách mạng luôn diễn ra, tức là trải qua các 7 “mẫu hình”, “mẫu hình mới phải hứa hẹn duy trì một phần tương đối lớn khả năng giải quyết vấn đề khoa học đã tích tụ được nhờ vào mẫu hình cũ” [81, tr.328]. Trong “mẫu hình” có sự thay đổi đột ngột về chất của công việc tìm tòi và phát triển của các cuộc cách mạng khoa học. Công trình nghiên cứu giúp tác giả luận án hiểu sâu hơn về cấu trúc cuộc cách mạng khoa học. Trong cuốn Nhận thức về thời đại ngày nay (2010), khi bàn đến nội dung và đặc điểm của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, Vũ Văn Hiền cho rằng, “cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, bản thân nó là lực lượng sản xuất mới hiện đại, đồng thời là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhảy vọt, làm cho tính chất và trình độ lực lượng sản xuất ở thế kỷ XXI thay đổi căn bản” [49, tr.148]. Công trình giúp tác giả luận án hiểu sâu thêm về đặc điểm của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Vũ Cao Đàm, trong bài “Khoa học hay tri thức là lực lượng sản xuất trực tiếp” (2011), đã trình bày khái lược quan điểm của nhiều tác giả khác nhau về luận điểm “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”. Sở dĩ có cuộc tranh luận trên là do “luận điểm của C.Mác đã bị giải thích không chính xác” [32, tr.27], họ đã đồng nhất “khoa học” với “tri thức”. Đúng là “khoa học” được định nghĩa là “hệ thống tri thức”, nhưng ngược lại, không thể hiểu “tri thức” chỉ là “tri thức khoa học”. Mặc dù dung lượng bài báo không lớn, nhưng đã cung cấp những cơ sở lý luận quan trọng về “tri thức khoa học trở lực lượng sản xuất trực tiếp”, giúp cho tác giả luận án lựa chọn cách dùng khái niệm phù hợp với sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện nay. Năm 2012, trong cuốn Công nghệ tiên tiến và công nghệ cao với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Phan Xuân Dũng (Chủ biên) cho rằng, “đặc điểm cơ bản nhất của công nghệ cao là dựa trên kiến thức khoa học hiện đại, những thành tựu khoa học mới nhất với hàm lượng tri thức và hàm lượng khoa học, sáng tạo nhất” [29, tr.17]. Công trình đã giúp tác giả luận án có thêm cơ sở hiểu biết về công nghệ tiên tiến, công nghệ cao trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam cùng sự tác động của nó đến gia đình. 8 Trong cuốn Khoa học thách thức của thế kỷ 21 (2013), Claude Allegre đã phân tích về sự phát triển của khoa học, trong đó tác giả đặt ra nhiều câu hỏi về tính hai mặt của khoa học và công nghệ, như “nếu người ta đưa ra bằng chứng rằng, điện thoại di động nguy hại cho não của bạn, liệu bạn có bỏ nó không?” [1, tr.8]. Các câu hỏi sẽ còn tăng lên nhiều hơn nữa trong tương lai, trong một thế giới mà với sự giúp đỡ của thông tin toàn cầu hoá, mọi người đều liên quan và được tham vấn dễ dàng. Đây là công trình nghiên cứu được chuẩn bị công phu, có giá trị lý luận giúp tác giả luận án có cái nhìn mới về sức lôi cuốn của tiến bộ khoa học và công nghệ, để từ đó tìm ra giải pháp khắc phục mặt trái của việc sử dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hơn là phê phán nó. Như vậy, trên cơ sở tổng quan một số công trình khoa học nghiên cứu lý luận về tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại cho thấy, kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước là tài liệu tham khảo rất hữu ích đối với tác giả trong quá trình triển khai thực hiện luận án. Tuy nhiên, cho đến nay việc nghiên cứu lý luận về tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại (đặc biệt dưới góc độ triết học) vẫn còn là một vấn đề mới mẻ. 1.1.2. Những nghiên cứu lý luận về gia đình Năm 1996, trong bài “Tam giác gia đình”, Hồ Ngọc Đại cho rằng, gia đình được hình thành từ ba thành phần là “Bố (A), Mẹ (B) và con cái (C). Tôi gọi là tam giác gia đình” [31, tr.34]. Không chỉ dừng lại ở khái niệm tam giác gia đình, tác giả còn gắn nó với tam giác đời sống xã hội mà “ba đỉnh là Cá nhân - Gia đình - Xã hội” [31, tr.39]. Công trình gợi mở cho tác giả luận án nghiên cứu lý luận về khái niệm gia đình. Lê Thi, trong Vai trò của gia đình trong xây dựng nhân cách trong con người Việt Nam (1997), đã phân tích vai trò của gia đình đối với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ đạt được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực. Tác giả cho rằng, “sự phát triển của gia đình chịu ảnh hưởng mạnh mẽ, có tính quyết định của sự biến đổi môi trường bao quanh, tự nhiên và xã hội, đồng thời gia đình có quy luật vận động độc lập tương 9 đối của nó” [138, tr.23]. Công trình gợi mở cho tác giả luận án nghiên cứu lý luận về khái niệm gia đình và lý luận về sự tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay. Với bài viết “Chức năng của gia đình” (2002), in trong cuốn Gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Lê Ngọc Văn cho rằng, “chức năng gia đình chỉ phương thức biểu hiện hoạt động sống của gia đình gắn liền với những nhu cầu của xã hội đối với gia đình (với tư cách là thiết chế xã hội) và nhu cầu cá nhân đối với gia đình (với tư cách là một nhóm tâm lý xã hội)” [163, tr.114]. Công trình rất có giá trị đối với tác giả luận án khi phân tích lý luận về chức năng của gia đình trước tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại. Năm 2002, Lê Thi trong cuốn Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới cho rằng, gia đình được sinh ra, tồn tại và phát triển chính vì nó có sứ mệnh đảm đương những chức năng đặc biệt mà xã hội và tự nhiên đã giao cho, không một thiết chế xã hội nào khác có thể thay thế được. Các chức năng đó tồn tại trong mối liên hệ thống nhất, tác động qua lại lẫn nhau để tạo nên con người và xã hội hoá con người. Trước hết là chức năng “tái sản xuất ra con người, ra các thế hệ tương lai, một mặt để đáp ứng yêu cầu của xã hội, mặt khác đáp ứng yêu cầu của chính các thành viên gia đình; chức năng kinh tế, lao động sản xuất, đảm bảo nguồn sinh sống cho các thành viên trong gia đình; chức năng nuôi dạy, giáo dục con cái là một chức năng hết sức quan trọng; chức năng đảm bảo sự cân bằng tâm lý thỏa mãn các nhu cầu tình cảm của các thành viên; chức năng bảo vệ chăm sóc sức khỏe, người ốm; người già, trẻ em trong gia đình” [140, tr.45-46]. Công trình là nguồn tư liệu tham khảo quý giá cho tác giả luận án khi phân tích lý luận về chức năng gia đình trước tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại. Gia đình học (2009) của Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý là một công trình khoa học công phu và có hệ thống, được biên soạn dưới hình thức một giáo trình. Từ quan niệm gia đình học với tính cách là một khoa học, các tác giả đã phân tích khái niệm gia đình. Theo các tác giả “gia đình là tế bào của xã hội, là thiết chế xã 10 hội trong cơ cấu của xã hội. Sự ổn định và phát triển của gia đình có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự ổn định và phát triển xã hội” [72, tr.11]. Ngoài ra, công trình còn phân tích, làm rõ những đặc trưng của quá trình hình thành và phát triển của gia đình Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Đây là gợi ý quan trọng đối với tác giả luận án khi phân tích lý luận về gia đình trước tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại. Trong cuốn Xã hội học gia đình (2011), khi phân tích về định nghĩa gia đình, Mai Huy Bích cho rằng, “có rất nhiều định nghĩa về gia đình (của các nhà luật học, kinh tế hay xã hội học, của Tổng cục Thống kê khi điều tra dân số, của nước này so với một nước khác...), và định nghĩa đó rất khác nhau” [9, tr.13], do đó không có định nghĩa phổ biến về gia đình, bởi gia đình hết sức đa dạng theo thời gian và không gian. Đây là công trình rất có giá trị đối với tác giả luận án khi định nghĩa về gia đình. Năm 2012, trong cuốn Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Lê Ngọc Văn đề cập đến những vấn đề lý luận về gia đình và biến đổi gia đình, như khái niệm gia đình, cấu trúc gia đình, chức năng gia đình, thiết chế gia đình, văn hóa gia đình và biến đổi gia đình. Theo tác giả, với tư cách là tế bào, thiết chế cơ bản của xã hội, gia đình đảm nhận những chức năng xã hội đặc thù; chức năng tái sản xuất ra con người - duy trì nòi giống, cung cấp nguồn nhân lực cho xã hội; chức năng giáo dục; chức năng kinh tế - đảm bảo nhu cầu sống cho các thành viên trong gia đình, v.v.. “Chính vì thế, sự tồn tại và biến đổi của gia đình không chỉ liên quan đến cuộc sống của từng cá nhân mà có liên quan đến sự tồn tại và biến đổi của xã hội” [165, tr.13]. Những quan điểm lý thuyết cơ bản dùng để nghiên cứu gia đình cũng được giới thiệu và phân tích như quan điểm tiếp cận xung đột, quan điểm tiếp cận nữ quyền, quan điểm tiếp cận cấu trúc chức năng coi gia đình là một thành phần trong cấu trúc của xã hội, thực hiện những chức năng cơ bản của xã hội, đáp ứng nhu cầu của các thành viên gia đình và góp phần ổn định xã hội. Cuốn sách là tài liệu tham khảo quan trọng cho tác giả luận án khi phân tích lý luận về gia đình trước tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại. 11 Năm 2012, trong công trình “Các mối quan hệ trong gia đình ở Việt Nam: Một số vấn đề cần quan tâm”, Nguyễn Hữu Minh cho rằng, “gia đình có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự phát triển của cá nhân, trong việc thực hiện các chức năng xã hội, giữ gìn và chuyển giao các giá trị văn hoá dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác” [108, tr.91]. Cũng bởi vậy tác giả khẳng định, “đầu tư cho gia đình là đầu tư cho sự phát triển bền vững” [108, tr.91]. Công trình giúp cho tác giả luận án hiểu rõ hơn lý luận về vai trò của gia đình đối với quá trình hình thành và phát triển lối sống mỗi cá nhân trong quan hệ gia đình. Trong luận án tiến sĩ triết học Giáo dục đạo đức trong gia đình Việt Nam hiện nay (2015), Hà Thị Bắc trên cơ sở khái niệm về gia đình đã đề cập đến các đặc điểm chung của gia đình như: “Thứ nhất, gia đình là một thiết chế xã hội được hình thành trước hết trên cơ sở quan hệ hôn nhân; Thứ hai, gia đình nổi bật ở mối quan hệ đặc trưng có tính chất là quan hệ huyết thống; Thứ ba, trong gia đình còn có quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục,...” [8, tr.39]. Tác giả cũng cho rằng, mặc dù không có một định nghĩa duy nhất, bất biến về gia đình cho mọi thời đại lịch sử, song những đặc trưng cơ bản của gia đình được định hình trong đời sống xã hội sẽ là cơ sở để nghiên cứu về gia đình và giáo dục gia đình Việt Nam hiện nay. Từ tổng quan tình hình nghiên cứu lý luận về gia đình cho thấy, các tác giả đã nghiên cứu về gia đình dưới các góc độ tiếp cận khác nhau, nhưng thực sự là sự hiểu biết của chúng ta về gia đình quả thật vẫn còn rất mỏng so với vai trò của nó. Tuy nhiên, những công trình trên đã cung cấp tài liệu và gợi mở cho tác giả luận án nhiều suy nghĩ khác nhau về gia đình trước xu hướng vận động, phát triển phức tạp của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại. Mặc dù vậy, chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp lý luận về gia đình Việt Nam trước sự tác động của tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại. Đây là vấn đề ít được quan tâm nghiên cứu, vì vậy tác giả luận án thấy cần thiết phải được nghiên cứu, làm rõ. 12 1.2. Những nghiên cứu về thực trạng tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam Năm 1992, trong cuốn Công nghệ năm 2000 đưa con người về đâu, Đặng Ngọc Dinh đã đi sâu phân tích tác động của công nghệ hiện đại đến đời sống vật chất và tinh thần của xã hội nói chung và gia đình nói riêng. Theo tác giả, các công nghệ hiện đại, như “công nghệ vi điện tử - tin học - viễn thông - rôbốt; vật liệu mới thuỷ tinh - tia laser; sinh học di truyền, đang là chìa khoá để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tạo bộ mặt hoàn toàn mới, một xã hội phát triển nhanh dựa trên nền tảng công nghệ vi mô nhưng hùng hậu, ở đó con người hướng tới một cuộc sống giàu sang và đạo đức” [27, tr.4]. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích giúp tác giả luận án phân tích tác động tích cực của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến gia đình Việt Nam hiện nay. Lê Thi, trong bài viết “Gia đình Việt Nam, các trách nhiệm, các nguồn lực trong sự đổi mới của đất nước” (1995), cho rằng “hiện nay người ta đang nói đến nền văn minh hậu công nghiệp hay văn minh tin học với sự phát triển cao của trí tuệ, lao động trí óc thay thế lao động chân tay đem lại năng suất cao, v.v.. Điều này làm giảm nhẹ gánh nặng công việc cho các gia đình, giải phóng con người, khiến họ có nhiều thời gian nhàn rỗi để giải trí, học tập, vui chơi với gia đình” [137, tr.59-60]. Trong xã hội hiện đại, với sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng, trẻ em, người lớn tiếp thu được nhiều kiến thức đa dạng, cùng với quy luật ngày càng xã hội hoá đi đôi với cá thể hoá các thành viên gia đình. Công trình đã gợi mở cho tác giả luận án khi phân tích, đánh giá tác động tích cực của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến chức năng giáo dục gia đình Việt Nam hiện nay. Năm 1998, công trình Khoa học và công nghệ với các giá trị văn hoá do Hoàng Đình Phu (Chủ biên), đã phân tích những tác động của khoa học và công nghệ đến các giá trị văn hoá, trong đó có lối sống gia đình. Tác giả cho rằng, “ngày nay các dụng cụ gia đình được cơ khí hoá và điện tử hoá: tủ lạnh, lò nướng vi ba, máy giặt, các thức ăn chuẩn bị sẵn, sự bùng nổ các hệ thống đa dịch vụ cung cấp đến tận nhà những nhu cầu cần thiết cho sinh hoạt gia đình” [120, tr.147]. 13 Công trình giúp cho tác giả luận án có cái nhìn khách quan khi phân tích thực trạng lối sống gia đình trước tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại. Trong cuốn Hiện đại hoá xã hội - một số vấn đề lý luận và thực tiễn (2001), Lương Việt Hải đã khái quát những đặc điểm của cách mạng khoa học kỹ thuật và phân tích những tác động của nó đến quá trình hiện đại hoá đời sống tinh thần. Từ đó, tác giả khẳng định tác động của “cách mạng công nghiệp cùng với tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong quá trình biến đổi xã hội rất cách mạng của mình đã đập vỡ nát mô hình gia đình cũ và cải biến nó cho thích ứng với đời sống kinh tế công nghiệp dựa trên nền tảng khoa học - kỹ thuật mới” [47, tr.83]. Đây là công trình nghiên cứu công phu và hiếm hoi có bàn đến tác động của khoa học và công nghệ đến gia đình dưới góc độ triết học. Luận án tiến sĩ triết học Vai trò của gia đình trong giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay (2001) của Nghiêm Sĩ Liêm đã bàn đến tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đến nội dung và phương thức giáo dục gia đình Việt Nam. Tác giả khẳng định, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, “các thành viên gia đình đang dần tham gia hoạt động sản xuất chủ yếu bên ngoài khuôn khổ gia đình, sự “bất cập” về trình độ, năng lực của bộ phận cha mẹ, uy tín của cha mẹ, gia đình đã và đang làm giảm đi phần nào vai trò của giáo dục gia đình đối với con trẻ” [87, tr.63]. Trong cuốn Làn sóng thứ ba (2002), Alvin Toffler cho rằng, dưới tác động của cách mạng công nghiệp làm thay đổi dữ dội từ “gia đình hạt nhân bị phá vỡ” dẫn đến “những giá trị về gia đình bị đảo lộn” [148, tr.8]. Đồng thời, “làn sóng thứ ba mang theo một kiểu sống mới dựa trên những nguồn năng lượng tái sinh đa dạng, trên những phương thức sản xuất sẽ làm cho những dây truyền sản xuất trở nên lỗi thời, trên những gia đình mới không có hạt nhân, trên những thể chế mới có thể gọi là “nhà tranh điện tử” [148, tr.17]. Công trình là tài liệu tham khảo quan trọng cho tác giả luận án khi phân tích thực trạng về cấu trúc, chức năng và lối sống gia đình trước tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại. 14 Tiếp cận dưới góc độ triết học, Nguyễn Trọng Chuẩn trong bài viết “Các giá trị truyền thống trước sự thẩm định và thách thức của thời đại trong bối cảnh toàn cầu hoá” in trong cuốn Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hoá (2002) cho rằng, “các công nghệ mới, nhất là công nghệ thông tin, do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại mang lại, đã đưa nhân loại đến những thành công ngày càng to lớn, đôi khi khó ngờ, trong lĩnh vực truyền thông và giao thông vận chuyển. Các kỹ thuật này có khả năng giúp chuyển tải nhanh chóng và bí mật đến mức không thể kiểm soát nổi, các sản phẩm văn hoá cực kỳ đa dạng và cả các sản phẩm phản văn hoá đến mọi ngõ ngách của hành tinh. Khả năng này tạo cơ hội đổ bộ ào ạt văn hoá phương Tây vào các nước phương Đông, do vậy thật sự đe dọa và thách thức ghê gớm đối với các giá trị văn hoá truyền thống phương Đông” [17, tr.13]. Những đóng góp của công trình rất có giá trị đối với tác giả luận án trong phân tích, đánh giá thực trạng tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại đến lối sống gia đình Việt Nam hiện nay. Năm 2002, Đỗ Huy trong bài “Giá trị truyền thống Việt Nam trước thách thức của toàn cầu hoá” cho rằng, trong công nghệ thông tin mỗi dân tộc đều chỉ là một cái làng của hành tinh. Vì vậy, nền văn hoá Việt Nam được mở rộng và giao lưu rộng rãi với rất nhiều nền văn hoá trên thế giới. Tuy nhiên, cùng với các thành tựu đó, văn hoá truyền thống Việt Nam nói chung, văn hoá gia đình Việt Nam nói riêng đang đứng trước rất nhiều thử thách, “một bộ phận lớp trẻ ưa chuộng phong cách phương Tây, thích hát những bài hát nhịp mạnh và ưa mặc áo Pun, quần Jean, không thích nghe, thích hát, thích xem các bản nhạc, các vở kịch truyền thống. Hàng ngày, trên môi trường văn hoá, các mạng thông tin toàn cầu liên tục truyền các hình ảnh, tin tức, ấn phẩm không phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc. Lối sống bạo lực, thực dụng, sự tiêu xài trác táng, sự hưởng thụ tình dục theo kiểu phương Tây tạo ra nhiều phản văn hoá trên hệ thống giá trị” [55, tr.107-108]. Nguyễn Đình Hoà, trong bài “Khoa học, công nghệ và đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường” (2003), cho rằng khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, bên cạnh những mặt tích cực, thì cũng đang gây nên những ảnh hưởng 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan