Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự việt nam​...

Tài liệu Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự việt nam​

.PDF
87
111
132

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN KIM THỌ SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƢ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2019 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN KIM THỌ SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƢ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 8380101.04 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà HÀ NỘI – 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Trần Kim Thọ MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU ................................................................................................................1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƢ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ..................................................6 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƢ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .................................................................................................... 6 1.2. Ý NGHĨA SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƢ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ............................................................................................................................. 19 1.3. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUY ĐỊNH SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ............................................................................. 22 1.4. LƢỢC SỬ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƢ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ............................. 26 1.5. ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƢ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .................................................................................................. 32 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .....................................................................................34 CHƢƠNG 2:QUY ĐỊNHCỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƢ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ........................................35 2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƢ VỚI TƢ CÁCH NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO UỶ QUYỀN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ........................................................................................................................ 35 2.2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƢ VỚI TƢ CÁCH NGƢỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ...................................................................... 51 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .....................................................................................61 CHƢƠNG 3:THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƢ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .......................................................................................62 3.1. THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƢ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ............................. 62 3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƢ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ........................................................... 70 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .....................................................................................77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................79 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật dân sự BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự HĐXX: Hội đồng xét xử LTCTAND: Luật tố chức tòa án nhân dân NLHVTTDS: Năng lực hành vi dân sự VADS: Vụ án dân sự TTDS: Tố tụng dân sự TAND: Tòa án nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Nghề luật sƣ là một trong các nghề cao quý nhất trong xã hội hiện nay và đặc biệt trong điều kiện của nền kinh tế thị trƣờng và tiến tới hội nhập quốc tế thì các mối quan hệ dân sự càng trở nên đa dạng và phức tạp hơn, thậm chí điều này làm phát sinh những mâu thuẫn, tranh chấp không thể giải quyết thông qua thƣơng lƣợng hay hòa giải. Từ đó, các sự kiện trên nảy sinh những vấn đề mang tính cấp thiết là bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của ngƣời liên quan trong các VADS và cũng là một trong các lý do mà nghề luật sƣ ra đời và không ngừng phát triển, chính là đáp ứng các nhu cầu chính đáng đó. Có thể thấy, sự tham gia của luật sƣ trong hoạt động tố tụng nói chung cũng nhƣ trong hoạt động TTDS là không thể thiếu đƣợc trong xã hội và ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Tuy không phải là hoạt động tƣ pháp nhƣng hoạt động của luật sƣ lại có mối liên hệ chặt chẽ với các hoạt động tƣ pháp hay hỗ trợ cho các hoạt động tƣ pháp. Hoạt động của luật sƣ có thể xem nhƣ một công cụ hữu hiệu để giúp cho các cá nhân, tổ chức bảo vệ đƣợc các quyền và lợi ích chính đáng của mình khi tiến hành giải quyết các vấn đề trong các vụ án tranh chấp cụ thể. Đó cũng chính là nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đƣơng sự đã đƣợc pháp luật ghi nhận là Cá nhân, cơ quan, tổ chức khi tham gia TTDS với tƣ cách là đƣơng sự có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc nhờ luật sƣ bảo vệ, còn Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đƣơng sự thực hiện quyền bảo vệ của họ. Vì vậy mà hiện nay, số lƣợng luật sƣ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự ngày một nhiều hơn. Tuy nhiên, sự tham gia của luật sƣ trong TTDS vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, bất cập khi nhiều ngƣời vẫn chƣa có cách nhìn đúng đắn về sự tham gia của luật sƣ trong TTDS, đôi khi điều đó đến cả từ những ngƣời tiến hành tố tụng với quan niệm cho rằng sự tham gia của luật sƣ trong hoạt động TTDS chỉ đem tới những khó khăn, phiền hà cho cơ quan tiến hành tố tụng cũng nhƣ là khó khăn cho các bên có thể tiệm cận công lý. Bên cạnh đó, yêu cầu về năng lực trình độ đối với luật sƣ ngày càng đòi hỏi ở mức độ cao hơn để đáp ứng đƣợc yêu cầu cải cách tƣ pháp và hội nhập kinh tế, quốc tế…. Từ thực tiễn trên, việc nghiên cứu về sự tham gia của luật sƣ trong TTDS là một yêu cầu cấp thiết với một nền công lý và dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta. Cũng chính vì vậy, tác giả lựa chọn:“Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự” làm đề 1 tài nghiên cứu luận văn với hy vọng sẽ đem lại cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về vai trò và sự tham gia của luật sƣ trong TTDS. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đƣa ra một số đề xuất nhằm phát huy những thuận lợi, đồng thời khắc phục những hạn chế, tiêu cực, từng bƣớc nâng cao và khẳng định vai trò của luật sƣ trong TTDS. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu về sự tham gia của luật sƣ trong TTDS không chỉ góp phần vào công cuộc cải cách tƣ pháp nói chung mà còn đem lại ý nghĩa với chính đội ngũ luật sƣ hiện tại, cũng nhƣ trong tƣơng lai tới. Trong thời gian vừa qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến các khía cạnh khác nhau về vai trò và sự tham gia của luật sƣ trong TTDS. Một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài này một cách trực tiếp hay gián tiếp, các khía cạnh nhất định về luật sƣ trong TTDS nhƣ: Luận án tiến sĩ Luật học “Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong TTDS” của tác giả Nguyễn Công Bình năm 2006; Bài viết “Luật sư với hoạt động thi hành bản án, quyết định dân sự” của tác giả Nguyễn Hồng Bách đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật số 07/2015; Bài viết “Vấn đề hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam” của tác giả TS. Phan Trung Hoài; Bài viết “Nhận định và phân loại luật sư tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn An đăng trên Tạp chí luật sƣ Việt Nam số 8/2015; Cuốn sách “Đạo đức và kỹ năng của luật sư trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của PGS.TS Lê Hồng Hạnh, NXB Đại học sƣ phạm năm 2002; Bài viết “Mối quan hệ giữa luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng” của tác giả Nguyễn Tiến Đạm năm 2002; Bài viết “Vai trò của luật sư trong TTDS” trong Báo cáo tham luận tại Hội thảo về tranh tụng trong TTDS ngày 13/3/2004 của Ts. Đinh Văn Thanh; Luận án tiến sỹ luật học “Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Phan Trung Hoài năm 2003; Bài viết “Vướng mắc trong việc cấp Giấy chứng nhận cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự” của tác giả Đinh Văn Vụ đăng lên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24/2011. Ngoài ra, luận văn thạc sĩ “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS” và “Người đại diện hợp pháp của đương sự trong TTDS” tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội phần nào có liên quan đến chủ đề nghiên cứu nhƣng chƣa đầy đủ, cụ thể và chi tiết trong vai trò của luật sƣ trong TTDS. 2 Các công trình nghiên cứu chủ yếu đề cập đến khái niệm luật sƣ, quá trình phát triển của nghề luật sƣ cũng nhƣ sự tham gia của luật sƣ trong TTDS một cách khái quát mà chƣa đi sâu vào nghiên cứu phân tích về pháp luật hiện hành về vai trò củaluật sƣ, thực trạng về sự tham gia của luật sƣ trong TTDS. Ngoài ra, một số công trình đƣợc thực hiện trƣớc khi ban hành Luật luật sƣ và Luật luật sƣ sửa đổi nên không còn tính thời sự. Do vậy, đề tài “Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự” rất cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu và luận giải sâu sắc hơn trong bối cảnh hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu a. Mục đích nghiên cứu luận văn: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về sự tham gia của Luật sƣ trong TTDS. - Làm rõ những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về sự tham gia của luật sƣ trong TTDS và những vƣớng mắc trong quá trình áp dụng các quy định đó trong thực tiễn xét xử tại Tòa án; - Tìm ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả về sự tham gia của Luật sƣ trong quá trình tham gia TTDS tại các cấp Tòa án. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về sự tham gia của luật sƣ trong TTDS nhƣ: khái niệm luật sƣ, đặc điểm, ý nghĩa về sự tham gia của Luật sƣ trong TTDS, vị trí, vai trò của luật sƣ trong TTDS, cơ sở khoa học của việc quy định sự tham gia của luật sƣ và các điều kiện đảm bảo sự tham gia của luật sƣ trong TTDS. Ngoài ra, luận văn còn nghiên cứu lƣợc sử các quy định của pháp luật về sự tham gia của Luật sƣ trong TTDS cũng nhƣ nghiên cứu quy định pháp luật về sự tham gia của Luật sƣ ở một số nƣớc đại diện cho các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới. - Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về sự tham gia của Luật sƣ trong TTDS. - Làm rõ thực trạng hoạt động của Luật sƣ, phân tích nguyên nhân để từ đó đƣa ra các đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả sự tham gia và phát huy vai trò của Luật sƣ trong TTDS. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu là những vấn đề lý luận về sự tham gia của luật sƣ trong TTDS, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về sự tham gia của luật sƣ 3 trong TTDS và thực tiễn thực hiện các quy định này tại các Tòa án ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, phạm vi nghiên cứu của đề tài đƣợc xác định là: - Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động của luật sƣ trong phạm vi quá trình giải quyết VADS tại Tòa án mà không bao gồm hoạt động của luật sƣ trong giai đoạn thi hành án dân sự; - Luận văn tập trung phân tích các hoạt động của luật sƣ với tƣ cách ngƣời đại diện theo uỷ quyền và ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự trong quá trình Toà án giải quyết VADS và sự so sánh giữa vị trí của luật sƣ trong hệ thống pháp luật châu Âu lục địa và pháp luật Anh Mỹ. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Phƣơng pháp luận: Luận văn đƣợc hoàn thành dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin về Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về cải cách tƣ pháp và xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam XHCN. Do đó, các đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật đều dựa trên các quan điểm chỉ đạo nêu trên. - Phƣơng pháp nghiên cứu: Để hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình, học viên sử dụng kết hợp các phƣơng pháp: + Phƣơng pháp phân tích đƣợc sử dụng nhằm làm rõ một số vấn đề về lý luận cơ bản về luật sƣ và thực tiễn về sự tham gia của luật sƣ trong TTDS. + Nghiên cứu lịch sử đƣợc sử dụng nhằm nghiên cứu rõ hơn các quy định của pháp luật Việt Nam về sự tham gia của luật sƣ trong TTDS đã đƣợc ghi nhận trong các văn bản pháp luật trƣớc đây. + Phƣơng pháp so sánh đƣợc sử dụng đối chiếu, so sánh với pháp luật của một số quốc gia đại diện các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới nhằm tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm. + Phƣơng pháp thống kê đƣợc sử dụng trong việc thống kê các số liệu trong thực tiễn hoạt động hành nghề của luật sƣ làm cơ sở cho việc đƣa ra những nhận xét, kết luận và đề xuất các biện pháp tăng cƣờng sự tham gia, phát huy vai trò của luật sƣ. + Phƣơng pháp tổng hợp đƣợc sử dụng trong việc tổng hợp các vấn đề đã nghiên cứu, đƣợc đƣa ra tranh luận nhằm đƣa ra những nhận định và những kết luận. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống về những vấn đề liên quan 4 đến sự tham gia của luật sƣ trong TTDS. Đƣa ra các khái niệm, các đặc trƣng, vai trò, vị trí của luật sƣ trong TTDS, điều kiện đảm bảo sự tham gia của luật sự trong TTDS. Các nội dung trên đƣợc phân tích một cách đầy đủ, sâu sắc, từ đó làm cơ sở cho việc luận giải những vấn đề có liên quan đến sự tham gia của luật sƣ trong TTDS. Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, Luận văn đã phân tích làm rõ thực trạng pháp luật hiện hành về sự tham gia của luật sƣ, về điều kiện tham gia tố tụng, các hoạt động cụ thể của luật sƣ cũng nhƣ quyền và nghĩa vụ của luật sƣ trong TTDS. Luận văn phân tích, đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc những thuận lợi, những kết quả đã đạt đƣợc cũng nhƣ những hạn chế, vƣớng mắc mà luật sƣ gặp phải trong quá trình tham gia TTDS. Trên cơ sở đó, luận văn đã đề xuất các giải pháp có giá trị nhằm nâng cao hiệu quả sự tham gia của luật sƣ trong TTDS. 7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về sự tham gia của luật sƣ trong TTDS. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc áp dụng các quy định pháp luật về sự tham gia của luật sƣ đƣợc thống nhất và chính xác. Đồng thời, những phát hiện, đóng góp của luận văn cũng là tài liệu có giá trị cho các cơ quan lập pháp trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật, là tài liệu tham khảo cho Tòa án, các Thẩm phán có hiểu biết sâu sắc thêm về sự tham gia của luật sƣ trong TTDS. Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về pháp luật tại Việt Nam. 8. Về bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc cơ cấu thành 3 chƣơng nhƣ sau: Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về sự tham gia của luật sƣ trong TTDS. Chƣơng 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về sự tham gia của luật sƣ trong TTDS. Chƣơng 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về sự tham gia của luật sƣ trong TTDS và một số kiến nghị 5 CHƢƠNG 1:NHỮNGVẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƢ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƢ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự Để đƣa ra khái niệm sự tham gia của luật sƣ trong TTDS thì cần thiết phải làm rõ khái niệm, nội hàm của các khái niệm liên quan “Luật sư” và “TTDS”. Thứ nhất, về khái niệm luật sư Luật sƣ là những ngƣời đƣợc trọng vọng trong xã hội bởi họ đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền cơ bản của công dân và phát triển xã hội. Hiện nay, trên thế giới vẫn chƣa có sự thống nhất về khái niệm của luật sƣ do mỗi nhà nghiên cứu, ngƣời thực hành đều có các cách tiếp cận từ các khía cạnh và giác độ khác nhau phụ thuộc vào quan điểm của từng hệ thống pháp luật. Trên thế giới, nghề luật sƣ đƣợc nhiều nƣớc quan niệm là nghề tự do, một số nƣớc khác lại quan niệm là nghề đặc biệt trong xã hội. Không ai và không một tài liệu nào cho biết về việc nghề luật sƣ chính xác xuất hiện từ bao giờ, chỉ biết rằng nghề này xuất hiện từ thời xa xƣa và theo một số nhà nghiên cứu thì quyền bào chữa xuất hiện sớm nhất ở châu Âu cùng với sự xuất hiện của Tòa án và ngƣời biện hộ xuất hiện cùng thẩm phán. Vào thế kỷ V trƣớc Công nguyên, trong Nhà nƣớc Hy Lạp cổ đại, một Hội đồng xét xử (có tính chất nhƣ Toà án ngày nay) đã đƣợc hình thành và việc xét xử có sự tham gia của mọi ngƣời dân. Nguyên cáo hoặc bị cáo có thể trình bày ý kiến, lý lẽ của mình Hội đồng hoặc nhờ ngƣời khác có tài hùng biện viết hoặc trình bày hộ ý kiến, lý lẽ của mình trƣớc Hội đồng xét xử. Mặc dù, họ đã hành động nhƣ một luật sƣ theo luật của Athen, tuy nhiên các diễn giả không đƣợc trả tiền cho các dịch vụ của họ và cũng không thể tự tổ chức cho mình nhƣ một nghề luật sƣ. Sau đó, các luật sƣ xuất hiện đầu tiên đƣợc biết đến ở ở Roma cổ đại, khoảng 204 TCN, đã nhận đƣợc khoản thanh toán cho các dịch vụ của họ khi Hoàng đế Claudius hợp pháp hoá nghề nghiệp và bãi bỏ lệnh cấm đối với các khoản phí.[21] Theo một tác giả khác thì từ thế kỷ I hoặc II trƣớc và sau công nguyên tại Hy Lạp (Greece) và La Mã (Romeo) đã xuất hiện một loại hiệp sỹ đặc biệt, hiệp sỹ đặc biệt này không dùng khí giới hay bắp thịt (sức mạnh về thể lực) để chiến thắng kẻ địch mà 6 chỉ dùng thiên tài ngôn ngữ và sự hiểu biết rộng rãi về cổ luật để đứng ra bênh vực cho những kẻ nghèo nàn, yếu thế, thấp cổ bé miệng hoặc phụ nữ bị ngƣợc đãi trƣớc các thế lực đƣơng thời, họ đƣợc gọi tên là “Advocats” (ngƣời biện hộ). Các hiệp sỹ này ngày càng đông và đến thế kỷ thứ IV sau công nguyên, họ tập hợp tại Rome thành một đoàn thể đƣợc độc quyền biện hộ trƣớc Hoàng đế. Đến cuối thế kỷ thứ VIII mới có danh xƣng “Advocats” cho 17 vị và đƣợc vua chúa công nhận có quyền biện hộ trƣớc các Tòa án.[9] Còn ở Việt Nam, luật sƣ đƣợc nhắc đến từ thời điểm các Tòa án Pháp đƣợc thiết lập vào năm 1898,ban đầu thuật ngữ luật sƣ đƣợc biết đến bởi tên gọi “trạng sư biện hộ” và đến năm 1930 thì đổi thành “Luật sư tòa thượng thẩm”. Luật sƣ là một thuật ngữ đƣợc tiếp cận, nghiên cứu dƣới nhiều góc độ khác nhau vì vậy nó sẽ là một khái niệm phong phú, đa nghĩa. Nói đến luật sƣ có thể hiểu dƣới các bình diện nhƣ là một danh từ chỉ ngƣời, hoặc là một nghề thuộc các ngành dịch vụ trong hệ thống ngành nghề quốc gia, một chức danh tƣ pháp độc lập. Trong giới hạn luận văn cao học “sự tham gia của luật sư trong TTDS” thì khái niệm luật sƣ cần nghiên cứu dƣới bình diện là danh từ chỉ ngƣời. Dƣới góc độ pháp lý, khái niệm luật sƣ đƣợc giải thích trong các từ điển luật học. Theo Từ điển Luật học Việt Nam, luật sƣ là thành viên của một đoàn luật sƣ, làm nghề giúp đỡ về mặt pháp lý cho cá nhân hoặc các tổ chức theo hợp đồng hoặc theo chỉ định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền trong một số trƣờng hợp do pháp luật quy định.[1] Trong Từ điển Pháp - Việt, luật sƣ (avocat) là nghề bổ trợ tƣ pháp có chức năng tƣ vấn, đại diện và bào chữa cho quyền lợi của các đƣơng sự trƣớc Tòa án [30]. Theo từ điển luật học của Mỹ thì luật sƣ (Lawyer) là ngƣời đƣợc cấp phép hành nghề luật. Nhƣ vậy, qua tìm hiểu khái niệm luật sƣ trong các từ điển luật học cho thấy, mặc dù cách giải thích về luật sƣ là không hoàn toàn giống nhau nhƣng nhìn chung luật sƣ đều là ngƣời đƣợc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền công nhận đƣợc tiến hành các hoạt động nghề nghiệp giúp đỡ về mặt pháp lý cho cá nhân hoặc các tổ chức [50].Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý cũng đƣa ra những quan điểm khác nhau về luật sƣ. Theo quan điểm của GS.TS Lê Hồng Hạnh thì luật sƣ là “chuyên gia pháp luật, là cố vấn pháp luật mà họ có kỹ năng nghề nghiệp thực thụ” [14]. Khái niệm này đã chỉ ra đƣợc hai đặc trƣng cần có của luật sƣ, đó là am hiểu pháp luật và kỹ năng nghề nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm này chƣa đề cập đến một đặc điểm riêng biệt, quan trọng 7 đó là phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của luật sƣ. Theo quan điểm của tác giả Phan Trung Hoài thì luật sƣ là “Một chức danh tư pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, đại diện ủy quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước trước Tòa án và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác”[18]. Khái niệm này không chỉ khẳng định tƣ cách độc lập và bình đẳng của luật sƣ mà còn chỉ ra phạm vi hành nghề và mục đích hành nghề của luật sƣ. Ngoài ra, tại Điều 2 Luật luật sƣ năm 2006 đƣa ra định nghĩa về luật sƣ nhƣ sau: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng)”. So với cách định nghĩa về luật sƣ trong Pháp lệnh luật sƣ năm 2001 thì khái niệm luật sƣ trong Luật luật sƣ năm 2006 không mang tính liệt kê và có tính khái quát hóa hơn; tuy nhiên khái niệm này cũng có hạn chế nhƣ chƣa đề cập đƣợc mục đích hành nghề của luật sƣ... Qua phân tích các khái niệm về luật sƣ, có thể thấy luật sƣ có các đặc trƣng cơ bản sau: Thứ nhất, tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề của luật sưthì để trở thành luật sƣ, một ngƣời cần hội tụ các điều kiện sau đây: Có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp,tiêu chuẩn này đƣợc xác định dựa trên các quy tắc đạo đức nghề luật sƣ. Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sƣ quy định những chuẩn mực về đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, là thƣớc đo phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sƣ. Mỗi luật sƣ phải lấy quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp này làm khuôn mẫu cho sự tu dƣỡng, rền luyện để giữ gìn uy tín nghề nghiệp, thanh danh của luật sƣ, xứng đáng với sự tôn vinh của xã hội. Có sự am hiểu pháp luật: tiêu chuẩn này thông thƣờng đƣợc đánh giá qua bằng cử nhân luật. Hay nói cách khác, những ngƣời muốn trở thành luật sƣ phải theo học tại các trƣờng đào tạo luật. Mỗi nƣớc khác nhau có quy định về thời gian, nội dung và phƣơng pháp đào tạo khác nhau, song nhìn chung lại có mục đích giống nhau ở chỗ là nhằm trang bị cho những ngƣời sẽ trở thành luật sƣ những kiến thức cơ bản về pháp luật [21, tr. 16]. Có kỹ năng nghề nghiệp: Đây đều là các điều kiện bắt buộc đối với một ngƣời muốn trở thành luật sƣ. Điều này xuất phát từ tính chất đặc thù của nghề luật sƣ là một 8 nghề đòi hỏi sự đúc kết kinh nghiệm và thông qua thực tế rất lớn nên đòi hỏi ngƣời luật sƣ phải có sự học hỏi từ nhiều nguồn khác nhau, có thời gian thực hành khá nhuần nhuyễn mới hình thành nên những kỹ năng hành nghề chuyên nghiệp. Bên cạnh đó luật sƣ còn phải là ngƣời có đạo đức nghề nghiệp tốt. Trong cộng đồng xã hội nghề nào cũng đòi hỏi ngƣời làm nghề phải có lƣơng tâm, trách nhiệm đối với nghề của mình trƣớc xã hội nhƣng do quy luật sinh tồn và phát triển không đồng đều nên mỗi ngành nghề khác nhau đều có tính chất khác nhau, đòi hỏi lƣơng tâm, trách nhiệm, đạo đức của ngƣời làm nghề có sự khác nhau, không ai có thể đánh đồng đƣợc. Việc đại diện theo uỷ quyền hay bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự của luật sƣ đều sẽ ảnh hƣởng trực tiếp tới các quyền, nghĩa vụ của đƣơng sự đó và cả các đƣơng sự khác, đồng thời góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vậy nên, xuất phát từ tính chất, đặc thù của nghề luật sƣ, nó đòi hỏi luật sƣ ngoài các phẩm chất chung là Chân, Thiện, Mỹ, luật sƣ còn phải là ngƣời có khối óc thông minh, tấm lòng trong sáng,dũng cảm, biết lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm cơ sở hoạt động mới xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã hội. Đó chính là yêu cầu rất cao trong đạo đức nghề nghiệp luật sƣ. [17] Thứ hai là phạm vi hành nghề của luật sư. Ngoài việc tham gia tố tụng, thực hiện tƣ vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác, luật sƣ đƣợc đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật. Theo đó, khi luật sƣ đã giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng (hoặc hợp đồng lao động với cơ quan, tổ chức) luật sƣ đƣơng nhiên đƣợc đại diện cho khách hàng để giải quyết các công việc trong phạm vi hợp đồng (hoặc theo sự phân công của cơ quan, tổ chức), trừ trƣờng hợp pháp luật có quy định khác. Quy định này đã làm tăng thêm đáng kể quyền của luật sƣ trong hành nghềgiúp gắn kết hơn quan hệ luật sƣ với khách hàng, thông qua đó luật sƣ sẽ giúp khách hàng một cách hiệu quả hơn rất nhiều. Điều này cũng phù hợp với xu hƣớng mở rộng dân chủ, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để ngƣời dân thực hiện quyền dân chủ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong Luật luật sƣ cũng có thêm một mục gồm 10 điều quy định về hoạt động hành nghề của luật sƣ, trong đó quy định cụ thể về nội dung, quyền, nghĩa vụ của luật sƣ trong từng lĩnh vực hoạt động bao gồm hoạt động tham gia tố tụng, hoạt động đại diện ngoài tố tụng, hoạt động tƣ vấn pháp luật, các hoạt động dịch vụ pháp lý khác. 9 Quy định về hoạt động tham gia tố tụng của luật sƣ đƣợc đặc biệt quan tâm, bởi quy định này đã góp phần tháo gỡ vƣớng mắc, khó khăn cho các luật sƣ và các cơ quan tố tụng trong việc cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng cho luật sƣ, từ đó tạo rất nhiều thuận lợi cho các luật sƣ ngay từ đầu cũng nhƣ trong suốt quá trình thực hiện bào chữa hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho khách hàng. Phạm vi hành nghề của luật sƣ theo Luật luật sƣ, về cơ bản, phù hợp với nội dung dịch vụ pháp lý theo Bảng phân loại về các lĩnh vực dịch vụ (CPC) của Tổ chức thƣơng mại thế giới. [24] Thứ ba là mục đích hành nghề của luật sư Mọi hoạt động hành nghề của luật sƣ hƣớng tới bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Đƣơng sự tham gia tố tụng tuy là ngƣời hiểu rõ nhất về các tình tiết, nguyên nhân vụ án hay các chứng cứ, tài liệu có liên quan, nhƣng không phải ai trong số họ cũng có những kiến thức pháp luật cần thiết để các quyền lợi của mình không bị xâm phạm hay không đủ điều kiện để trực tiếp tham gia tố tụng đƣợc. Vậy nên, thông qua dịch vụ pháp lý, luật sƣ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, giúp đƣơng sự thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật trong suốt quá trình tố tụng. Từ đó, bằng các hoạt động tố tụng của mình, luật sƣ còn góp phần bảo vệ công lý, đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm về luật sƣ nhƣ sau: luật sƣ là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận được tiến hành các hoạt động nghề nghiệp, thực hiện các dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức, độc lập nhằm mục đích phụng sự công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cho cá nhân, cơ quan, tổ chức, bảo vệ lợi ích Nhà nước trên cơ sở tuân thủ pháp luật và đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp. Thứ hai, khái niệm Tố tụng dân sự Trong khoa học pháp lý, theo Từ điển Luật học Việt Nam, TTDS là trình tự hoạt động do pháp luật quy định cho việc xem xét, giải quyết vụ án dân sự và thi hành án. Trong từ điển Luật học của Anh thì tố tụng (procedure) là những bƣớc tiến hành mang tính hình thức mà thông qua đó vụ án đƣợc giải quyết. Trong từ điển Luật học của Pháp thì tố tụng là toàn bộ những thể thức phải theo để đệ trình một yêu cầu trƣớc 10 thẩm phán. Nhƣ vậy đa số các nƣớc đều thừa nhận TTDS là trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để Tòa án giải quyết một vụ kiện dân sự [6]. Ở Việt Nam vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về việc xác định thi hành án dân sự có phải là một giai đoạn của TTDS hay không. Tuy nhiên, ở giai đoạn thi hành án dân sự, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án và chấp hành viên là tổ chức, thi hành bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của cơ quan, tổ chức khác chứ không giải quyết về nội dung VADS, nên TTDS chỉ là quá trình Toà án giải quyết VADS, quyết định quyền và nghĩa vụ dân sự của các đƣơng sự. Nhƣ vậy, TTDS là trình tự, thủ tục đƣợc pháp luật quy định mà các chủ thể tham gia phải tuân thủ một cách chặt chẽ nhằm mục đích tối cao là giải quyết vụ việc một cách chính xác, đúng đắn, nhanh chóng và hiệu quả. Thứ ba, khái niệm sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự Với tƣ cách là ngƣời đại diện bảo vệ quyền và nghĩa vụ hợp pháp của đƣơng sự trong vụ án dân sự, luật sƣ ở các quốc gia trên thế giới có sự tham gia vào các phạm vi công việc phụ thuộc vào quy định cho phép của hệ thống pháp luật đó, tuy nhiên, sự tham gia của luật sƣ trong TTDS của các nƣớc và Việt Nam không có nhiều sự khác biệt mà chỉ dƣới hai tƣ cách: ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự hoặc ngƣời đại diện theo ủy quyền của đƣơng sự. Có thể thấy, việc tham gia của luật sƣ trong TTDS mang tính chất là ngƣời có hiểu biết pháp luật hỗ trợ hoặc đại diện cho đƣơng sự việc giải quyết VADS tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Điều này hỗ trợ cho tiến trình tiệm cận công lý và đảm bảo cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đúng các quy định của pháp luật trong việc giải quyết yêu cầu và tuân thủ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự trong thời hạn cho phép hoặc có thể nhanh hơn. Theo quy định chung của một số nƣớc trên thế giới nhƣ Nhật Bản hay Pháp thì các quốc gia này quy định luật sƣ có thể là ngƣời đại diện theo uỷ quyền hay ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Do đó, việc lựa chọn luật sƣ tham gia vụ việc với tƣ cách nào thì hoàn toàn là do sự lựa chọn của đƣơng sự. Điều 19 BLTTDS Pháp quy định: Các đương sự tự do lựa chọn người bào chữa để họ đại diện cho mình hoặc giúp đỡ mình trừ trường hợp bắt buộc phải có luật sư. Đó là, tại Toà sơ thẩm thẩm quyền rộng thì các đương sự phải cử luật sư tham gia trừ trường hợp có quy định khác (Điều 751 BLTTDS Pháp). Khác với pháp luật Nhật Bản hay Pháp, tại Anh và Mỹ là những quốc gia mà đề 11 cao vai trò của luật sƣ cũng nhƣ vị trí hay chức danh nghề nghiệp này rất danh dự thì thƣờng luật sƣ đƣợc tham gia vào vị trí ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự vì quá trình hay chi phí để thuê một luật sƣ với chi phí rất đắt đỏ nhƣng pháp luật của các quốc gia này cũng quy định rất mở, tuy nhiên, luật sƣ chỉ đƣợc tham gia chỉ với một tƣ cách trong một phiên tòa cụ thể [52]. Có thể thấy điểm khác nhau căn bản đƣợc các học giả đƣa ra là sự khác nhau trong thủ tục tố tụng của các nƣớc theo truyền thống dân luật, tiêu biểu là Đức và các quốc gia theo truyền thống thông luật dẫn đến sự khác nhau trong việc luật sƣ của các bên có các nhiệm vụ chính ra sao trong việc thu thập chứng cứ và chứng minh mặc dù luật sƣ đƣợc quyền theo dõi toàn bộ công việc của tòa án [50]. Việc này đi từ vị trí của tòa án theo quan điểm của từng hệ thống vì trong hệ thống Châu Âu lục địa, vai trò của ngƣời thẩm phán rất lớn dẫn đến vụ việc đƣợc điều khiển trực tiếp bởi tòa án và vai trò tham gia của luật sƣ chỉ mang tính chất hỗ trợ giúp tòa án giải quyết vụ việc nhanh hơn. Trong hệ thống này, luật sƣ đƣa ra các quan ngại (concerning) về chứng cứ nhƣ đƣa ra các đề xuất với các vấn đề cần kiểm tra hay đặt câu hỏi tại phiên tòa cũng nhƣ đƣa ra các nhận định liên quan đến các vấn đề pháp lý cơ bản của vụ án. Về cơ bản thì thẩm phán trong TTDS của truyền thống dân luật giữ vai trò chính trong việc giải quyết vụ án và vị trí của luật sƣ ở đây chỉ mang tính chất bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự [49]. Điều này trái ngƣợc hoàn toàn đối với vai trò của luật sƣ trong hệ thống thông luật, luật sƣ ở đây giữ vị trí nhƣ những ngƣời trực tiếp đƣa ra các chứng cứ và chứng minh nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự mà mình bảo vệ, thẩm phán ở trong vụ án thì giữ vai trò là ngƣời ở giữa lắng nghe luật sƣ hai bên trình bày quan điểm cũng nhƣ đƣa ra các chứng cứ do luật sƣ thu thập để chứng minh cho yêu cầu của mình. Luật sƣ ở đây sẽ đƣợc ví von nhƣ là “ngƣời chiến đấu” (combatants) tham gia một trận bóng tennis hay trận đấu vật và thẩm phán nhƣ một ngƣời trọng tài (umpire) trong một cuộc tranh luận truyền thống”. [48] Theo nhƣ luật sƣ trong các nƣớc theo truyền thống pháp luật thông luật thì quá trình thực hiện tố tụng dân sự đƣợc chia thành nhiều bƣớc cụ thể bao gồm nhƣ điều tra, bào chữa, thu thập thông tin, thủ tục tiền tố tụng, giải quyết theo phƣơng thức khác (hòa giải, trọng tài,…) hay tiến tới phiên tòa xét xử và có thể là kháng cáo giải quyết phúc thẩm vụ án dân sự. Không phải tất cả các vụ án đều diễn ra tất cả các bƣớc cụ thể trên, tuy nhiên, luật sƣ trong trƣờng hợp này đƣợc cho phép tham gia đại diện cho ngƣời có quyền, 12 ngƣời có nghĩa vụ nhằm thực hiện các hoạt động tham gia tố tụng tốt nhất nhằm đảm bảo quyền và lợi ích không thể xâm phạm. Vị trí của luật sƣ trong hệ thống thông luật đã có sự chủ động hơn trong quá trình giải quyết vụ việc nhƣng tính chất cũng không có sự khác biệt nhiều trong mục tiêu cuối cùng là bảo vệ quyền và lợi ích của đƣơng sự và hỗ trợ tìm ra sự thật khách quan để giải quyết tranh chấp. Từ đó, có thể thấy luật sƣ không khác nhau trong các vị trí mà chỉ khác nhau trong quan điểm về vai trò của họ trong lý thuyết và thực tiễn của hoạt động TTDS theo các hệ thống pháp luật khác nhau. Theo quy định của luật TTDS Việt Nam năm 2015, luật sƣ có thể tham gia vào TTDS với tƣ cách là ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự hoặc với tƣ cách ngƣời đại diện theo ủy quyền của đƣơng sự. Đối với mỗi tƣ cách, quyền của luật sƣ trong TTDS có sự khác biệt và tƣơng ứng theo đó, luật sƣ tiến hành các công việc nhằm bảo đảm lợi ích cho khách hàng của mình. Nhƣ vậy, sự tham gia của luật sƣ trong TTDS là “hoạt động tố tụng của luật sư khi có yêu cầu của đương sự, người đại diện theo pháp luật của đương sự trong quá trình Toà án giải quyết vụ án dân sự với một trong hai tư cách là người đại diện theo ủy quyền hoặc người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự đểthay mặt hoặc hỗ trợ đương sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi trên cơ sở tuân thủ pháp luật”. 1.1.2. Đặc điểm sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự Trong TTDS, mỗi đƣơng sự đề có quyền đƣợc bảo vệ, đó là quyền của chủ thể trong việc chống lại các hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Vì thế, việc bảo đảm cho các đƣơng sự thực hiện đƣợc các quyền TTDS hay nói cách khác là phải đảm bảo quyền bảo vệ của đƣơng sự trong TTDS là rất cần thiết để các quyền, lợi ích hợp pháp của họ đƣợc bảo vệ trƣớc Tòa án. Do vậy, pháp luật TTDS đã quy định về vấn đề bảo đảm quyền bảo vệ của đƣơng sự. Luật sƣ trong TTDS thuộc nhóm những ngƣời tham gia tố tụng, cho nên họ có đầy đủ những đặc điểm, vai trò, chức năng của ngƣời tham gia tố tụng. Tuy nhiên, mục đích tham gia quá trình tố tụng của họ là khác so với những ngƣời tham gia tố tụng khác, sự tham gia của họ là nhằm để hỗ trợ pháp lý cho đƣơng sự nên có những đặc điểm riêng biệt sau đây: 13 Thứ nhất, sự tham gia của luật sư trong TTDS dựa trên yêu cầu của đương sự, người đại diện theo pháp luật của đương sự để hỗ trợ họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trước Tòa án. Đƣơng sự có thể lựa chọn nhiều cách thức khác nhau để thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, họ có thể tự mình thực hiện nhƣng cũng có thể thông qua ngƣời bảo vệ. Tôn trọng quyền định đoạt của đƣơng sự là một nguyên tắc đặc thù của pháp luật TTDS, vì vậy việc đƣơng sự có lựa chọn luật sƣ hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của bản thân hoặc ngƣời đại diện theo pháp luật của họ. Ngoài ra, TTDS là quá trình phức tạp gồm nhiều giai đoạn, vì vậy có thể trong những giai đoạn đầu đƣơng sự chƣa nhận thấy sự cần thiết của ngƣời bảo vệ nhƣng càng về sau, nhất là ở giai đoạn xét xử tại tòa, hay tại cấp xét xử cao hơn thì nhu cầu này xuất hiện. Bởi những lẽ đó, việc tham gia tố tụng của luật sƣ của đƣơng sự hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của đƣơng sự hoặc ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự. [13] Điều này có phần khác với các quy định trong tố tụng hình sự. Theo pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, sự tham gia tố tụng hình sự của luật sƣ cũng phụ thuộc vào ý chí của bị can, bị cáo và ngƣời đại diện theo pháp luật của họ, nhƣng cũng có một số trƣờng hợp cụ thể mà sự tham gia của luật sƣ là bắt buộc theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Theo đó, các trƣờng hợp bị can, bị cáo phạm các tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình, ngƣời bị buộc tội có nhƣợc điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa, ngƣời có nhƣợc điểm về tâm thần hoặc là ngƣời dƣới 18 tuổi thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức nhƣ Đoàn luật sƣ, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nƣớc, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên sẽ cử ngƣời bào chữa cho các bị can, bị cáo này. Quy định này nhằm giúp bị can, bị cáo đƣợc bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của mình, góp phần trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp việc điều tra, truy tố và xét xử đƣợc nhanh chóng, chính xác, tránh làm oan ngƣời vô tội, để lọt tội phạm. Thứ hai, luật sư tham gia TTDS với tư cách người đại diện theo uỷ quyền hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự Nhƣ đã phân tích ở trên, trong vụ án dân sự luật sƣ có thể tham gia tố tụng với tƣ cách ngƣời đại diện theo uỷ quyền hoặc ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. 14 Luật sƣ tham gia tố tụng với tƣ cách ngƣời đại diện do đƣơng sự uỷ quyền khi đƣợc đƣơng sự hoặc ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự uỷ quyền. Khi đó, luật sƣ sẽ là ngƣời thay mặt cho đƣơng sự trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS của đƣơng sự trong phạm vi uỷ quyền trƣớc Tòa án. Về bản chất, quyền và nghĩa vụ tố tụng của luật sƣ với tƣ cách ngƣời đại diện theo uỷ quyền chính là quyền và nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự mà họ đại diện. Họ có thể có toàn bộ quyền và nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự hoặc có một phần quyền và nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự tuỳ thuộc vào sự uỷ quyền của đƣơng sự hoặc ngƣời đại diện theo pháp luật. Để trở thành ngƣời đại diện theo uỷ quyền của đƣơng sự thì luật sƣ không thuộc những trƣờng hợp pháp luật cấm không đƣợc làm ngƣời đại diện theo uỷ quyền. Đó là, trong cùng một vụ án, luật sƣ với tƣ cách ngƣời đại diện theo uỷ quyền của đƣơng sự không thể đồng thời tham gia tố tụng với một tƣ cách khác nhƣ không thể đồng thời là đƣơng sự khác, ngƣời đại diện theo pháp luật, ngƣời đại diện theo uỷ quyền hay ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự khác mà quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự đó đối lập với quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc đại diện trong cùng một vụ ánhoặc họ không thể đồng thời tham gia tố tụng với tƣ cách ngƣời phiên dịch, ngƣời giám định, ngƣời làm chứng. Bởi vì, việc luật sƣ tham gia tố tụng với nhiều tƣ cách trong cùng một vụ ánsẽ không đảm bảo yếu tố khách quan. Tuy nhiên, trong trƣờng hợp quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự không đối lập nhau thì luật sƣ có đồng thời là ngƣời đại diện do đƣơng sự này uỷ quyền đồng thời là ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự khác, ví dụ: A, B đều là nguyên đơn trong vụ ántranh chấp về hợp đồng chuyển nhƣợng quyền sử dụng đất. A uỷ quyền cho luật sƣ D làm ngƣời đại diện trong vụ án. B nhờ luật sƣ D làm ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Vậy luật sƣ D có đƣợc tham gia với hai tƣ cách vừa là ngƣời đại diện do A uỷ quyền vừa là ngƣời bảo vệ quyền lợi cho B có phù hợp với các quy định pháp luật. Về vấn đề này, có ý kiến cho rằng, do quyền và lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự không đối lập nhau nên luật sƣ D có thể tham gia với hai tƣ cách. Ý kiến khác cho rằng, vì ngƣời đại diện do đƣơng sự uỷ quyền và ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự có quyền và nghĩa vụ khác nhau nên luật sƣ D không thể vừa là 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan