Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sự độc lập trong hoạt động xét xử của tòa án tại việt nam...

Tài liệu Sự độc lập trong hoạt động xét xử của tòa án tại việt nam

.PDF
58
35
129

Mô tả:

Sự độc lập trong hoạt động xét xử của tòa án tại Việt Nam Vũ Thị An Khoa Luật Luận văn ThS. Chuyên ngành: Luật kinh tế; Mã số: 60 38 01 Người hướng dẫn: GS.TS. Nguyễn Đăng Dung Năm bảo vệ: 2010 Abstract: Chương 1: Độc lập của toà án là một nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền. Chương 2: Thực trạng nguyên tắc độc lập xét xử của tòa án ở Việt Nam. Chương 3: Những đề xuất cụ thể để đảm bảo thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử tại Việt Nam Keywords: Tòa án; Pháp luật Việt Nam; Hoạt động xét xử Content: MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư pháp nói chung và cải cách tư pháp nói riêng. Ngày 02-01-2002, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 08NQ/TW về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” nhằm giải quyết một bước những hạn chế, vướng mắc bức xúc nhất của công tác tư pháp đã tồn tại trong nhiều năm; tiếp đó, đã ban hành Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhằm đổi mới đồng bộ, toàn diện nền tư pháp nước nhà. Trong công cuộc cải cách tư pháp Đảng ta đã xác định trong hệ thống các cơ quan tư pháp: Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm. Do vậy, cải cách tổ chức và hoạt động của toà án nói chung và nâng cao chất lượng của hoạt động xét xử nói riêng là một trong những vấn đề quan trọng nhất, có ảnh hưởng mang tính quyết định tới thành công của tiến trình cải cách tư pháp. Với nhận thức như vậy, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách và chỉ đạo các cơ quan hữu quan có các biện pháp nhằm định vị rõ hơn vị thế, vai trò của toà án trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; hoàn thiện một bước cơ cấu tổ chức, thẩm quyền của hệ thống toà án, tăng cường năng lực cho thẩm phán trong việc ra các phán quyết tư pháp. Điều này thể hiện rõ nét nhất qua việc triển khai chủ trương tăng thẩm quyền xét xử về hình sự, dân sự cho toà án nhân dân cấp huyện và nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, vị trí, tầm quan trọng của toà án trong tổng thể thực hiện quyền lực nhà nước chưa được nhận thức đầy đủ; hoạt động xét xử chưa được xem xét dưới góc độ phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền; tổ chức bộ máy và thẩm quyền của hệ thống toà án chưa được đổi mới cơ bản; năng lực, trình độ của thẩm phán chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế; tỷ lệ bản án, quyết định của toà án bị huỷ, sửa chưa giảm mạnh... Những hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là nguyên tắc “độc lập xét xử” chưa được chính thức coi là tiêu chí, mục đích của các nhiệm vụ cải cách tư pháp; các yếu tố bảo đảm thực thi nguyên tắc hiến định “ Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” [23, Điều 130, tr.21] chưa được xem xét, đổi mới và áp dụng triệt để; quá trình ra quyết định, bản án của thẩm phán còn bị tác động bởi nhiều mối quan hệ xã hội. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực hiện các cam kết quốc tế trong bối cảnh nước ta trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới đã làm cho việc chú trọng bảo đảm trên thực tế nguyên tắc độc lập xét xử vừa là yêu cầu, vừa là nhu cầu khách quan và bức thiết. Công tác nghiên cứu những vấn đề lý luận về mối quan hệ của nguyên tắc độc lập xét xử với điều kiện đặc thù nhất nguyên chính trị và thực thi thống nhất quyền lực nhà nước ở nước ta nhằm tạo cơ sở khoa học cho việc nhận thức đúng, chính xác về vai trò của toà án cũng như sự độc lập xét xử, từ đó thể chế hoá đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, phù hợp với pháp luật quốc tế vẫn chưa được làm sáng tỏ. Với những lý do trên, việc nghiên cứu Sự độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án tại Việt Nam, nhằm kiến nghị các giải pháp bảo đảm thực thi có hiệu quả nguyên tắc hiến định về độc lập xét xử trên cơ sở phân tích, so sánh, đánh giá có hệ thống và khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn về độc lập xét xử ở Việt Nam là hết sức cấp thiết. 2. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài Với mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [3, tr.1], Chiến lược cải cách tư pháp đã xác định tổ chức các cơ quan tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại, trong đó, xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm. Theo định hướng của Chiến lược cải cách Tư pháp, sẽ tiến tới tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, sẽ có toà sơ thẩm, toà phúc thẩm, toà thượng thẩm và Toà án nhân dân tối cao. Do vậy, việc thực hiện đề tài nghiên cứu Sự độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án tại Việt Nam có cơ sở khoa học và thực tiễn chủ yếu sau đây: 1. Mặc dù nguyên tắc về sự độc lập của hoạt động xét đã được quy định ngay từ Hiến pháp 1946 và khẳng định trong tất cả các Hiến pháp tiếp theo, tuy nhiên, trên thực tế, về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, các thiết chế chính trị, đặc biệt là của Đảng vẫn còn có quá nhiều "áp lực" đối với hệ thống tư pháp và hoạt động xét xử. Vai trò và vị trí của Toà án trong cơ chế quyền lực chưa thực sự xứng đáng với chức năng, nhiệm vụ của nó trong cơ chế của nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cần có sự thay đổi cơ bản về các phương thức thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với Toà án cũng như toàn bộ hệ thống Tư pháp để đảm bảo sự độc lập của hoạt động xét xử. 2. Về các nghiên cứu khoa học trong nước, hiện nay mới có một số bài nghiên cứu về một số khía cạnh của độc lập xét xử nhưng chưa chú trọng tới việc phân tích có hệ thống và toàn diện về sự độc lập xét xử. Chưa có công trình khoa học cấp nhà nước hoặc cấp bộ/ngành nào tập trung nghiên cứu về độc lập xét xử nói chung. Một số nghiên cứu tổng quan về cải cách tư pháp cũng chỉ đề cập sơ lược về độc lập xét xử. Với việc nghiên cứu đề tài này, tác giả hi vọng sẽ có được những kết luận và kiến nghị xác đáng về các giải pháp bảo đảm sự độc lập trong hoạt động xét xử của toà án tại Việt Nam. 3. Mục đích của đề tài Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về độc lập xét xử để từ đó góp phần đưa nguyên tắc độc lập xét xử thực sự phát huy hiệu quả ở Việt Nam. Cụ thể, luận văn cần đạt được các mục tiêu chủ yếu sau đây: - Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về độc lập xét xử ở Việt Nam: phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung của sự độc lập trong hoạt động xét xử của tòa án. - Thứ hai, làm rõ pháp luật đã ghi nhận, thể hiện như thế nào về sự độc lập trong hoạt động xét xử của tòa án. - Thứ ba, phân tích thực tiễn hoạt động xét xử ở Việt Nam xét từ góc độ bảo đảm sự độc lập của tòa án (việc thực thi quy định pháp luật hiện hành liên quan đến độc lập xét xử và đánh giá thực tiễn áp dụng các yếu tố bảo đảm thực thi độc lập xét xử trong những năm qua ở Việt Nam; phân tích tính đặc thù, vị trí, vai trò của thẩm phán và toà án trong mối quan hệ với vấn đề độc lập xét xử ở nước ta; phân tích các mối quan hệ xã hội ảnh hưởng tới quá trình ra quyết định của thẩm phán); - Thứ tư, đề xuất, kiến nghị về các giải bảo đảm sự độc lập xét xử của tòa án 4. Nội dung của đề tài Luận văn gồm mở đầu, ba chương và Kết luận. Cụ thể như sau: Chương 1: Độc lập của toà án là một nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền. Chương này làm rõ các nội dung: 1. Tại sao trong Nhà nước pháp quyền, toà án phải độc lập 2. Những yêu cầu của toà án độc lập 3. Toà án độc lập ở một số quốc gia điển hình Chương 2: Thực trạng nguyên tắc độc lập xét xử của tòa án ở Việt Nam. Chương này làm rõ hai nội dung lớn nhất: 1. Khái quát về hệ thống toà án Việt Nam qua các bản Hiến pháp 2. Thực trạng nguyên tắc độc lập xét xử của toà án tại Việt Nam. Chương 3: Những đề xuất cụ thể để đảm bảo thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử tại Việt Nam 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: giải thích, so sánh, phân tích, tổng hợp … cũng sẽ được sử dụng để hoàn thành mục tiêu của đề tài. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Nguyễn Ngọc Bích (2007), "Bài biện hộ cho ông chánh án", Tạp chí Tiasangonline, ngày 03/2, tr.5. 2. Bộ chính trị (2002), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội. 3. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội. 4. Bộ Tư pháp (2007), Tạp chí dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề về cải cách tư pháp (4), Hà Nội. 5. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 6. Nguyễn Đăng Dung (2004), Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, Nxb tư pháp, Hà Nội. 7. Dự án Vie/95/017 (2000), "Tăng cường năng lực xét xử tại Việt Nam", Kỷ yếu của dự án, Hà Nội. 8. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 9. Phạm Hồng Hải (2003), "Một số biện pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc “Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (5), Hà Nội. 10. Hà Thị Mai Hiên (2008), Nguyên tắc tổ chức của toà án và và sự độc lập của hoạt động xét xử, Tham luận tại Hội thảo về sự độc lập trong hoạt động xét xử của toà án tại Việt Nam, Hà Nội. 11. Tô Văn Hoà (2007), Tính độc lập của toà án, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. 12. Vũ Đình Hoè (2001), Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Thông tin, Hà Nội. 13. Nguyễn Mạnh Kháng (2008), Chức năng tố tụng của toà án và vấn đề độc lập của hoạt động xét xử, Tham luận tại Hội thảo về sự độc lập xét xử của toà án tại Việt Nam, Hà Nội. 14. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội. 15. Trần Thúc Linh (1974), Danh từ pháp luật lược giải, NXB Khai Trí, Hà Nội. 16. Montesquieu (1996), bản dịch của Hoàng Thanh Đạm, Tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 17. Phạm Duy Nghĩa (2008), Cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà nước, Tham luận tại Hội thảo về sự độc lập trong hoạt động xét xử của toà án tại Việt Nam, Hà Nội. 18. Nguyễn Như Phát (2004), "Một số ý kiến về cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí nhà nước và pháp luật, (3), Hà Nội. 19. Đinh Văn Quế (2000), "Đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân: Những vấn đề lý luận và thực tiễn", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (8), Hà Nội. 20. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội 21. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội. 22. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội. 23. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi bổ sung), Hà Nội. 24. Quốc hội (2002), Luật tổ chức toà án nhân dân, Hà Nội. 25. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội. 26. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội. 27. Quốc hội (2009), Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước, Hà Nội. 28. Toà án nhân dân Tối cao (2002), Quyết định số 51/QĐ-TCCB của chánh án Toà án nhân dân Tối cao về việc uỷ quyền quản lý nhân sự ngành toà án ở các toà án địa phương, Hà Nội. 29. Toà án nhân dân Tối cao (2009), Báo cáo tổng kết công tác ngành toà án nhân dân, Hà Nội. 30. Toà án nhân dân tối cao ( 2001), Đề tài nghiên cứu khoa học mã số 2001 - 38- 0, Hà Nội. 31. Đào Trí Úc (2006), Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 32. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm nhân dân, Hà Nội. 33. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh cán bộ công chức (sửa đổi bổ sung), Hà Nội. 34. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2008), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ( sửa đổi bổ sung), Hà Nội. 35. Nguyễn Tất Viễn (2006), "Vai trò của toà án trong Nhà nước pháp quyền", Tạp chí dân chủ và pháp luật, (5), Hà Nội. 36. X.X. Alech-xây-ép (1986) (bản dịch của Đồng Ánh Quang, hiệu đính Nguyễn Đình Lộc), Pháp luật trong cuộc sống của chúng ta, Nxb Pháp lý, Hà Nội. Tiếng Anh 37. Alexander Hamilton (1961), The Federalist Paper No. 78 - The Judge as Guardian of The Constitution, in Wright, pp. 489 - 496 38. Henry J. Abraham (1998), The Judicial Process: An Introductory Analysis of the of The United States, England and France, Oxford University Press, pp. 300 VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ ! VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ !
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan