Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn thực trạng tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non hiện...

Tài liệu Skkn thực trạng tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non hiện nay và các giải pháp khắc phục

.PDF
26
3812
91

Mô tả:

TÊN: NGÔ THỊ HOÀI THU LỚP: ĐHMN C K54 MSSV: DQB02120142 THỰC TRẠNG TỔ CHỨC TRÒ CHƠI DÂN GIAN CHO TRẺ MẪU GIÁO Ở TRƯỜNG MẦM NON HIỆN NAY VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC 1 MỤC LỤC 1. Đặt vấn đề ............................................................................................................... 2 2. Lý luận chung về đề tài nghiên cứu .......................................................................... 4 2.1 Một số vấn đề chung ........................................................................................... 4 2.1.1. Khái niệm trò chơi dân gian ......................................................................... 4 2.1.2 Đặc điểm của trò chơi dân gian ..................................................................... 4 2.1.3 Tổ chức trò chơi dân gian ở trường mầm non ................................................ 5 2.2. Lý luận chung về phát triển vận động................................................................. 8 * Khái niệm phát triển vận động ............................................................................ 8 2.3 Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ ............................................................................... 8 3. Thực trạng tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ mẫu giáo ở trường Mầm non hiện nay và các giải pháp khắc phục ........................................................................................ 10 3.1 Cơ sở lựa chọn trò chơi ..................................................................................... 10 3.2. Các trò chơi ..................................................................................................... 12 4. Kết luận ................................................................................................................. 18 2 1. Đặt vấn đề Vai trò của trò chơi dân gian trong giáo dục trẻ em Trong xã hội xưa, trò chơi dân gian chiếm vị trí quan trọng trong không gian giải trí của cả người lớn lẫn trẻ nhỏ. Thông qua hoạt động của nguời lớn, trẻ nhỏ thường học bằng cách bắt chước, và cứ như vậy, các trò chơi dân gian được lưu truyền qua các thế hệ. Chính nhờ những trò chơi đơn giản nhưng thú vị đó mà trẻ em xưa được giáo dục tính cách và phát triển thể chất Dưới góc độ giáo dục, các trò chơi dân gian có thể được chia thành bốn nhóm chính: nhóm trò chơi vận động giúp phát triển sức khỏe thể chất như bịt mắt bắt dê, rồng rắn lên mây, ...; nhóm trò chơi học tập tập cho trẻ em cách quan sát, tính toán như các loại cờ, ô ăn quan, giải đố, ...; nhóm trò chơi sáng tạo giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, sự khéo léo và khiếu thẩm mĩ như làm con vật từ lá cây, nặn đất, ...; và nhóm trò chơi mô phỏng hành động của người lớn như xây nhà, mua bán, ... Sự thi đua trong khi chơi giúp trẻ thực sự nhập vai thành những người lớn mà nhờ đó dần học được cách ứng xử trong quá trình phát triển nhân cách. Xét về không gian vui chơi, đa số các trò chơi dân gian diễn ra ngoài trời [2]. Dụng cụ để chơi cũng rất dễ tìm và chủ yếu từ các vật liệu tự nhiên. Đây là điều kiện để trẻ gắn bó môi trường tự nhiên, giúp các em sớm làm quen với các mối quan hệ tương tác giữa các thành tố thiên nhiên và khi hiểu hơn, các em sẽ yêu quý và dễ hình thành trách nhiệm với môi trường sau này Bên cạnh đó, các trò chơi dân gian cũng là môi trường rèn luyện kỹ năng sống của trẻ. Chỉ khi chơi các trò chơi tập thể, tính đoàn kết của các em mới được thích nghi hay khi thêm bạn thêm bè bất chợt của một cuộc chơi sẽ giúp các em biết cách sẻ chia, linh hoạt. Như vậy, trò chơi dân gian có khả năng giúp trẻ em phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tâm hồn, trong học tập lẫn cuộc sống. Có được khoảng thời gian vui chơi thoải mái sẽ giúp các em học tập thêm hào hứng. Sân chơi lành mạnh còn có vai trò phát huy những năng khiếu tự nhiên hay những phẩm cách tốt ở trẻ, và hạn chế được những tính cách không tốt. [2] Nhận thức được vai trò trong giáo dục trẻ, các trò chơi dân gian đang được tái hiện trong cuộc sống hiện đại. Trong những năm gần đây, Bảo tàng dân tộc học Việt Nam cũng thường xuyên tổ chức đan xen các trò chơi dân gian trong các lễ hội kỷ niệm. Nhiều trường tiểu học, mẫu giáo cũng bắt đầu hướng dẫn học sinh chơi các trò 3 chơi truyền thống như một phần trong giáo trình giảng dạy. Các trò chơi dân gian nhìn chung khá đơn giản, các bậc cha mẹ có thể dễ chuẩn bị để hướng dẫn và chơi cùng con, như một cách giáo dục con trẻ và làm gần hơn các mối quan hệ trong gia đình. Chính vì những lí do đó việc tổ chức trò chơi dân gian nhằm phát triển vận động cho trẻ ở trường mầm non là một trong những nội dung rất cấp thiết và cần thiết. 2. Lý luận chung về đề tài nghiên cứu 2.1 Một số vấn đề chung 2.1.1. Khái niệm trò chơi dân gian Trò chơi dân gian là một hoạt động đặc thù chỉ trong xã hội loài người được nhân dân sáng tạo ra từ thực tiễn cuộc sống của họ, được lưu truyền tự nhiên qua nhiều thế hệ và luôn được cải biên, bổ sung cho phù hợp với từng nơi, từng lúc, nhằm thỏa mãn nhu cầu về vui chơi giải trí, giao lưu văn hóa và phát triển các mặt thể chất, tinh thần của con người. 2.1.2 Đặc điểm của trò chơi dân gian Đặc điểm chung của trò chơi dân gian – Trò chơi cổ truyền của trẻ em được hình thành và lưu truyền theo phương thức của văn hóa dân gian. Việc sáng tạo được thực hiện trong một quá trình lâu dài bao gồm: sáng tạo – lưu truyền – sử dụng – điều chỉnh. Ở đây, chủ thể sáng tạo, sử dụng, lưu truyền và tái tạo các trò chơi này chủ yếu là trẻ em. Dù bất cứ nơi đâu, trong gia đình, tại trường học hay trên đường làng đều có thể tổ chức được các trò chơi dân gian phù hợp. Nếu sân nhà nho nhỏ thì các em chơi ô ăn quan, chơi cờ, đánh chuyền, chặt cây dừa chừa cây mận, bắt ve… Nếu diện tích rộng hơn thì có thể chơi rồng rắn lên mây, đá cầu, trốn tìm, bịt mắt bắt dê… Ở những bãi cỏ lớn thì có thể tổ chức các trò cướp cờ, đánh đu, đá gà, chồng bông sen, cờ chém…Người chơi thường là những trẻ em ,túm tụm ngoài bãi cỏ, ngoài sân,… ngoài việc vui đùa, rèn luyện thân thể, còn thể hiện nỗi khát khao chiến thắng tiềm ẩn trong mỗi đứa trẻ. Do không lệ thuộc vào hình thức lễ hội như trò chơi của người lớn. Nên trò chơi dân gian trẻ em có những đặc trưng cơ bản như:Trò chơi trẻ em dễ dàng phổ biến rộng rãi, không chịu sự ràng buộc một cách nghiêm ngặt về không gian và thời gian, trẻ có thể chơi bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Trong các lễ hội ở địa phương, trẻ em vẫn có phần tham gia, nhưng nhìn chung hoạt động vui chơi của trẻ thường được tổ chức riêng biệt bên ngoài lễ hội. Nếu như trò chơi của người lớn chỉ được thể hiện ở một địa 4 phương trong thời điểm nhất định như thường vào xuân, hát quan họ ( ở Bắc Ninh), tung còn (ở Tâu Bắc)… thì trò chơi ở trẻ em không bị những hạn chế đó. Trẻ em ở nhiều vùng, thậm chí khắp cả nước có thể đánh chuyền, đánh khăng… nhiều trò chơi còn được truyền bá trên phạm vi rộng hơn vượt ra ngoài lãnh phận địa phương, thậm chí còn vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Đây cũng là hiện tượng giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, giữa các địa phương, giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. 2.1.3 Tổ chức trò chơi dân gian ở trường mầm non Chúng ta biết rằng, qua từng thời kỳ phát triển của xã hội, các hình thức chơi của trẻ cũng thay đổi. Một số trò chơi dân gian truyền thống, dần bị mai một, thay thế bằng những trò chơi hiện đại với máy móc, công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, trò chơi dân gian có nhiều thế mạnh riêng. Giáo viên có thể sử dụng những vật liệu sẵn có, rẻ tiền, thậm chí không cần đồ dùng, dụng cụ mà chỉ cần trẻ chơi với nhau. Điều này rất phù hợp với tình hình thực tế của cấp học. Trẻ em được tiếp cận và trực tiếp tham gia chơi các trò chơi dân gian sẽ giúp cho trẻ sớm hình thành các thói quen hoạt động có hệ thống, tính tập thể giúp trẻ tự tin, linh hoạt hơn trong mọi hoạt động cũng như sự phát triển sau này của trẻ. Thông qua trò chơi dân gian, trẻ sẽ phát triển được các giác quan (thị giác, thính giác, vị giác, xúc giác, khứu giác), phát triển trí nhớ, phát triển tư duy, trí tưởng tượng, ngôn ngữ. Theo như phân tích và cách phân loại trò chơi dân gian trẻ em Việt Nam của tác giả Phạm Lan Oanh (Tạp chí Văn hóa nghệ thuật - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) thì nó được chia làm hai loại lớn, đó là các trò chơi trí tuệ và các trò chơi vui - khỏe khéo. Trò chơi trí tuệ còn được gọi là trò chơi học tập, nhằm thúc đẩy hoạt động trí tuệ, giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh thông qua các thao tác trí óc kết hợp với hành động chơi như: Ô ăn quan, Cờ hùm, Cờ chiếu tướng.... Trò chơi vui - khỏe - khéo léo là những trò chơi dân gian tổng hợp vì mỗi trò chơi kết hợp nhiều kỹ năng vận động thể lực. Mục đích của các trò chơi loại này nhằm phát huy tính tích cực chủ động của trẻ, giúp trẻ mở rộng các mối quan hệ nh¬ : Hái quả - chui vào hang bắt chuột đồng hoặc chuột túi nhảy qua rãnh nước - tới đích lấy cờ. Cả trò chơi là phương tiện giáo dục thể lực một cách tích cực và thoải mái, giúp trẻ hoàn thiện sức khỏe, hoàn thiện các vận động như chạy, nhảy, đứng lên, ngồi xuống, 5 hình thành và phát triển các tố chất của thể lực (nhanh nhẹn, khéo léo) và những phẩm chất nhân cách như tính kỉ luật, tính tập thể; như trò chơi: Kéo co, rồng rắn lên mây; Có các trò chơi nhằm giúp vận động khéo léo các ngón tay như Cắp cua bỏ giỏ, Xin lửa xin cua...Hoặc có những trò chơi vừa thể hiện khéo léo, vừa vận động chạy nhảy như Trồng nụ trồng cà (có nơi gọi là Trồng nụ trồng hoa). Ở trò chơi Chim bay thì đòi hỏi phải thính tai, nhanh mắt, nhanh miệng, phản ứng linh hoạt Tuy nhiên, trong độ tuổi mầm non, việc lựa chọn các trò chơi dân gian thích hợp nhằm phát huy tác dụng của nó là rất cần thiết. Ở lứa tuổi này chủ yếu là trẻ bước đầu làm quen với các khái niệm. Do vậy, giáo viên không nên chọn trò chơi dân gian có nội dung quá khó vì những trò chơi dân gian phức tạp, ch¬a phï hîp không những không giúp trẻ phát triển mà ngược lại, trẻ sẽ rất lúng túng, thụ động trong quá trình giải quyết vấn đề. Dựa vào tính chất của từng trò chơi, tác dụng của trò chơi dân gian mà giáo viên lựa chọn trò chơi cho phù hợp với lứa tuổi, đặc thù tâm sinh lý của trẻ. Trẻ trong độ tuổi nhà trẻ thường chơi trò chơi dễ, mang tính chất bắt chước và luật chơi không quá phức tạp . Trẻ trong độ tuổi mẫu giáo thì chơi các trò chơi có cách chơi, luật chơi phức tạp hơn để kích thích trẻ, gây hứng thú cho trẻ. Ví dụ: Trò chơi: Chim bay Trẻ đứng quanh vòng tròn, hai tay buông xuôi, cách nhau khoảng 30-40 cm, số trẻ không hạn chế. Giáo viên đứng giữa. 6 Cách chơi: Giáo viên hô lời và làm động tác gì mà hợp lí thì trẻ làm theo ngay, không chậm trễ; còn khi hô lời không đúng với động tác thực tế thì không làm theo. Giáo viên hô: "Chim bay" và giơ hai tay lên Tất cả hô theo "Chim bay" và giơ hai tay theo, nếu ai chậm là hỏng. Giáo viên hô: "Cá bay" và giơ tay lên Tất cả đứng im, nếu ai hô theo, có động tác làm theo thì là hỏng, là sai. Đối với trò chơi này, giáo viên lưu ý là trước tiên cần cho trẻ làm quen với những hình ảnh dễ dãi, quen thuộc trước để cho trẻ kịp nghe và phản ứng, sau đó nâng dần độ khó tuỳ theo khả năng và sự hứng thú của trẻ. ở mỗi độ tuổi giáo viên sẽ đưa ra luật chơi phù hợp và mở rộng về kiến thức khi chơi trò chơi. Trẻ nhà trẻ giáo viên nói tên 3 hoặc 4 con vật gần gũi, trẻ mẫu giáo bé từ 4-5 con vật, trẻ mẫu giáo nhỡ nói 6 đến 7 con vật và trẻ mẫu giáo lớn thì nói tơi 9 đến 10 con vật. Như vậy cùng một loại trò chơi mà giáo viên đưa ra luật chơi khác nhau và nâng dần độ khó của trò chơi. Lựa chọn và đưa trò chơi dân gian vào nhà trường cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo nhưng phải lấy mục tiêu giáo dục phù hợp lứa tuổi làm tiêu chí quan trọng. Giáo viên có thể thay đổi hình thức chơi, đồ dùng, dụng cụ của trò chơi với chất liệu khác hiện đại, an toàn hơn nhưng vẫn đảm bảo nội dung chủ yếu và tác dụng giáo dục của trò chơi. Để đưa trò chơi dân gian vào trường mầm non đạt hiệu quả cần lưu ý một số điểm sau: 7 Trò chơi dân gian mang tính tập thể cao. Vì vậy giáo viên cần chú ý giáo dục và rèn luyện cho trẻ biết phối hợp nhịp nhàng, ăn ý với nhau khi tham gia chơi thì mới đạt được kết quả mong đợi. Môi trường chơi của trò chơi dân gian thường ở ngoài trời, gần gũi với thiên nhiên và môi trường xung quanh. Giáo viên có thể chọn vị trí, địa điểm chơi linh hoạt, không nhất thiết phải ở trong lớp mà còn có thể cho trẻ chơi ở hành lang, sân trường, vườn trường. Sức tập trung chú ý của trẻ có hạn. Do đó, giáo viên nên lưu ý về thời lượng chơi của trẻ. Có thể cho trẻ chơi ba, bốn ván hoặc tham gia ba, bốn lượt chơi, trẻ sẽ cảm thấy thích thú chơi mà không cảm thấy bị nhàm chán. Giáo viên có thể cho trẻ chơi theo từng cặp, nhóm và không nên cho trẻ chơi với số lượng đông ở một trò chơi. Thay vào đó, có thể để từng nhóm, từng cặp chơi lần lượt, số còn lại làm khán giả cổ vũ cho các bạn chơi. 2.2. Lý luận chung về phát triển vận động * Khái niệm phát triển vận động Phát triển vận động là một lĩnh vực quan trọng trong sự phát triển toàn diện của mỗi đứa trẻ và sự phát triển này bắt đầu ngay từ giai đoạn sơ sinh. Trẻ nhỏ thường phát triển vận động theo một “khuôn mẫu” hoặc theo một trình tự nhất định. Ở từng thời điểm nhất định, trẻ đạt tới những cột mốc phát triển như: biết tự ngồi, tự đứng và tự bước đi. 2.3 Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ - Trẻ em bắt đầu có sự tiếp xúc với bên ngoài, giao tiếp với “ người lạ” khi các em bước vào độ tuổi đi mẫu giáo, bạn bè ở trường mẫu giáo là một thế giới vô cùng rộng lớn đối với trẻ thơ. - Có rất nhiều em hứng thú với việc tới lớp vào mỗi sáng, nhưng trái lại cũng có rất nhiều em có tâm lý sợ tới trường. Mặc dù ở đó có bạn bè để chơi, có thầy cô, nhưng với các em, vẫn luôn sợ tới lớp. Thậm trí có những em nhỏ thường kêu với bố mẹ đau bụng vào sáng thứ 2, tuy nhiên triệu chứng này của các em cũng nhanh biến mất nếu như cha mẹ cho phép nghỉ học ở nhà buổi hôm đó. 8 Ảnh minh họa: Nguồn internet - Rõ ràng đó là những dấu hiệu tâm lý của trẻ em sợ đi học. Nguyên nhân chính đó là các em chưa tìm thấy hứng thú trong việc đi học, hoặc cảm thấy sợ cô giáo, sợ bị bạn bắt nạt…. - Những em nhỏ nào có hứng thú với việc đi học ở trường mầm non thì trong kí ức của các em sau này, trường mầm non là một thế giới tuyệt vời, và rất nhiều kỉ niệm đẹp. - Cũng trong giai đoạn này các em có hứng thú với việc khám phá thế giới xung quanh, tò mò và liên tục thắc mắc các vấn đề với cha mẹ. Nếu cha mẹ hiểu được tâm lý của con, và định hướng sẽ có thể đem lại nhiều hiệu quả tích cực. - Ở giai đoạn từ 3 đến 6 tuổi này, trí tưởng tượng của trẻ phát triển mạnh và phần lớn thời gian của trẻ là chơi đùa. Trẻ chơi mà học và học mà chơi. Chúng tự nghĩ ra những trò chơi và chơi mãi không chán, đôi khi quên cả đi vệ sinh. - Trẻ con ở lứa tuổi này không thích những trò chơi phức tạp, nhiều quy tắc. Những trò chơi ngắn sẽ thích hợp với trẻ ở lứa tuổi này vì khoảng thời gian chú ý, tập trung của trẻ không kéo dài. 9 3. Thực trạng tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ mẫu giáo ở trường Mầm non hiện nay và các giải pháp khắc phục 3.1 Cơ sở lựa chọn trò chơi Trò chơi dân gian rất phong phú và đa dạng, vì thế không hẳn trò chơi nào cũng phù hợp với trẻ nhỏ. Bởi vậy, khi lựa chọn trò chơi dân gian nên lựa chọn những trò chơi đơn giản, dể hiểu, dễ nhớ đối với trẻ. Với trẻ 5 – 6 tuổi, khả năng chú ý có chủ định và nhận thức của trẻ đã cao hơn rất nhiều so với lứa tuổi trước. Vì thế, trẻ có thể chơi được các trò chơi dài hơn và khó hơn. Khi lựa chọn các trò chơi dân gian cho trẻ mẫu giáo lớn, cần thực hiện theo các tiêu chí sau: + Trò chơi không quá đơn giản nhưng cũng không quá phức tạp. + Đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trò chơi dễ kiếm, dễ tìm. + Giúp củng cố tư duy, ngôn ngữ, vận động, kỹ năng cho trẻ. + Gây được hứng thú, thu hút sự chú ý của trẻ. + Có sự tham gia của tập thể lớp hoặc nhóm trẻ trong lớp. Từ những tiêu chí trên, tôi đã lựa chọn các trò chơi sau cho trẻ: “Thả đỉa ba ba”, “Ô ăn quan”, “Mèo đuổi chuột”, “Rồng rắn lên mây”, “Kéo co”, “Nu na nu nống”, “Dung dăng dung dẻ”, “Oẳn tù tì”, “Cướp cờ”, “Lộn cầu vồng”, … Với mỗi trò chơi cần phải nghiên cứu số lượng người chơi, cách chơi, địa diểm chơi, cách chơi, luật chơi để tổ chức, hướng dẫn trẻ chơi. Ví dụ: * Trò chơi: “Thả đỉa ba ba”: – Số lượng người chơi: 10 đến 12 người chơi. 10 – Địa điểm chơi: Sân rộng. – Cách chơi: Vẽ một vòng tròn rộng 3m hoặc vẽ 2 đường thẳng song song, cách nhau 3m để làm sông (tùy theo số lượng người chơi để vẽ sông to hay nhỏ). Các bạn chơi đứng thành vòng tròn quay mặt vào trong. Chọn một bạn vào trong vòng tròn vừa đi vừa đọc bài đồng dao: Thả đỉa ba ba Chớ bắt đàn bà Phải tội đàn ông Cơm trắng như bông Gạo tiền như nước Đổ mắm đổ muối Đổ chuối hạt tiêu Đổ niêu nước chè Đổ phải nhà nào Nhà đấy phải chịu Cứ mỗi tiếng đọc lại đập nhẹ vào vai một bạn. Tiếng cuối cùng rơi vào ai thì bạn đó phải làm đỉa. Đồ dùng đồ chơi của các trò chơi dân gian cũng vô cùng đa dạng và phong phú, mang tính đặc trưng và được thiết kế dựa vào cách chơi và luật chơi của từng trò chơi. Chính vì vậy, trước khi tổ chức cho trẻ chơi một trò chơi dân gian nào đó thì giáo viên cần phải tìm hiểu trước về cách chơi, luật chơi cũng như các đồ dùng trong trò chơi cần đếm. Để từ đó có thể chuẩn bị đầy đủ những thứ cần thiết cho một trò chơi và tổ chức được tốt. Mỗi trò chơi dân gian có một hoặc nhiều loại đồ dùng đồ chơi tương ứng mà thiếu nó thì trò chơi không thể tiến hành được. Ví dụ như trò: “Chơi chuyền” đòi hỏi phải có 10 que chuyền và một đồ vật có dạng khối cầu như quả bóng, quả bưởi non… Trò chơi “Ném còn” không thể diễn ra nếu thiếu quả còn – đồ chơi truyền thống của trò chơi đó. Hay đơn giản như trò chơi “Bịt mắt bắt dê” cũng không thể được tổ chức nếu không có dải vải hoặc dải khăn bịt mắt… Chính vì vậy, trước khi tổ chức cho trẻ chơi một trò chơi dân gian nào đó, giáo viên cần tìm hiểu kỹ lưỡng về luật chơi, cách chơi cũng như việc có hay không có đồ 11 dùng đồ chơi phục vụ cho trò chơi để từ đó có thể chuẩn bị đầy đủ các yếu tố cần thiết cho trò chơi. “Đỉa” đứng vào giữa sông, người chơi tìm cách lội qua sông, vừa lội vừa hát: “Đỉa ra xa tha hồ tắm mát”. Đỉa phải chạy đuổi bắt người qua sông. Nếu chạm được vào ai (bạn chưa lên bờ) thì coi như bị thua, phải làm đỉa thay, trò chơi lại tiếp tục. – Luật chơi: + Người đọc bài ca phải lưu loát hấp dẫn, mỗi tiếng ca phải chỉ đúng vào một bạn, không được bỏ sót bạn nào. + Đỉa phải chạy được trong ao hoặc sông, không được lên bờ.Người phải lội qua ao, không được đi hoặc đứng mãi trên bờ. + Đỉa chạm vào bất cứ phần thân thể của ai khi họ còn trong ao thì người đó phải bị thua, vào làm đỉa thay. + Với một khoảng thời gian mà đỉa không bắt được ai thì đổi bạn làm đỉa, trò chơi lại tiếp tục. 3.2. Các trò chơi Trò chơi 1: “Nu na nu nống” * Cách chơi: Những người chơi ngồi xếp hàng bên nhau, duỗi chân ra, tay cầm tay, vừa nhịp tay vào đùi vừa đọc bài đồng dao: “Nu na nu nống Cái cống nằm trong Cái ong nằm ngoài Củ khoai chấm mật Bụt ngồi bụt khóc Con cóc nhảy ra Con gà ú ụ Bà mụ thổi xôi Nhà tôi nấu chè Tè he chân rút”. Hoặc: “Nu na nu nống Cái cống nằm trong Đá rạng đôi bên 12 Đá lên đá xuống Đá ruộng bồ câu Đá đầu con voi Đá xoi đá xỉa Đá nửa cành sung Đá ung trứng gà Đá ra đường cái Gặp gái giữa đường Gặp phường trống quân Có chân thì rụt”. Mỗi từ trong bài đồng dao được đập nhẹ vào một chân theo thứ tự từ đầu đến cuối rồi lại quay ngược lại cho đến chữ “rút” hoặc “rụt”. Chân ai gặp từ “rút” hoặc “rụt” nhịp trúng thì co chân lại. Cứ thế cho đến khi các chân co lại hết thì chơi lại từ đầu. Trò chơi 2: “Ô ăn quan” Vẽ một hình chữ nhật được chia đôi theo chiều dài và ngăn thành 5 hàng dọc cách khoảng đều nhau, ta có được 10 ô vuông nhỏ. Hai đầu hình chữ nhật được vẽ thành 2 hình vòng cung, đó là 2 ô quan lớn đặc trưng cho mỗi bên, đặt vào đó một viên sỏi lớn có hình thể và màu sắc khác nhau để dễ phân biệt hai bên, mỗi ô vuông được đặt 5 viên sỏi nhỏ, mỗi bên có 5 ô. Hai người hai bên, người thứ nhất đi quan với nắm sỏi trong ô vuông nhỏ tùy vào người chơi chọn ô, sỏi được rãi đều chung quanh từng viên một trong những ô vuông cả phần của ô quan lớn, khi đến hòn sỏi cuối cùng ta vẫn bắt lấy ô bên cạnh và cứ thế tiếp tục đi quan (bỏ những viên sỏi nhỏ vào từng ô liên tục). Cho đến lúc nào viên sỏi cuối cùng được dừng cách khoảng là một ô trống, như thế là ta chặp ô trống bắt lấy phần sỏi trong ô bên cạnh để nhặt ra ngoài. Vậy là những viên sỏi đó đã thuộc về người chơi, và người đối diện mới được bắt đầu. Đến lượt đối phương đi quan cũng như người đầu tiên, cả hai thay phiên nhau đi quan cho đến khi nào nhặt được phần ô quan lớn và lấy được hết phần của đối phương. Như thế người đối diện đã thua hết quan. Hết quan tàn dân, thu quân kéo về. Hết ván, bày lại như cũ, ai thiếu phải vay của bên kia. Tính thắng thua theo nợ các viên sỏi. 13 Quan ăn 10 viên sỏi.Cách chơi ô ăn quan được nói lên rất đơn giản nhưng người chơi ô ăn quan đã giỏi thì việc tính toán rất tài tình mà người đối diện phải thua cuộc vì không còn quan (sỏi) bên phần mình để tiếp tục cuộc chơi… Trò chơi 3: “Kéo co” Tục kéo co ở mỗi nơi có những lối chơi khác nhau, nhưng bao giờ số người chơi cũng chia làm hai phe, mỗi phe cùng dùng sức mạnh để kéo cho được bên kia ngã về phía mình. Có khi cả hai bên đều là nam, có khi bên nam, bên nữ. Trong trường hợp bên nam bên nữ, dân làng thường chọn những trai gái chưa vợ chưa chồng. Một cột trụ để ở giữa sân chơi, có dây thừng buộc dài hay dây song, dây tre hoặc cây tre, thường dài khoảng 20m căng đều ra hai phía, hai bên xúm nhau nắm lấy dây thừng để kéo. Một vị chức sắc hay bô lão cầm trịch ra hiệu lệnh. Hai bên ra sức kéo, sao cho cột trụ kéo về bên mình là thắng. Bên ngoài dân làng cổ vũ hai bên bằng tiếng “dô ta”, “cố lên”. Có nơi người ta lấy tay người, sức người trực tiếp kéo co. Hai người đứng đầu hai bên nắm lấy tay nhau, còn các người sau ôm bụng người trước mà kéo. Đang giữa cuộc, một người bên nào bị đứt dây là thua bên kia. Kéo co cũng kéo ba keo, bên nào thắng liền ba keo là bên ấy được. Trò chơi 4: cắp cua Hai tay trẻ nắm lại, đan các ngón vào nhau, hai ngón tay trỏ duỗi ra làm càng cua cắp đúng con vật mình cần cắp. Khi cắp phải khéo léo, không để cho ngón tay chạm vào hình bên, nếu bị chạm sẽ nhường quyền cắp cho bạn kế tiếp. Ai cắp hết hình con vật của mình trước là thắng cuộc. - 3 -4 trẻ ngồi vòng tròn, 1 trẻ đọc đồng dao: Cua cua cắp cắp Đi khắp thế gian Tìm con tìm cái Con gà, con vịt Con tôm, con cá... Con nào con nấy, Cho ta chất đạm Mau mau cắp về. 14 - Trẻ vừa đọc vừa chỉ tay vào từng bạn chơi. Các từ "con gà, con vịt, con tôm, con cá" rơi vào ai thì trong suốt lượt chơi, trẻ chỉ được cắp con vật đó. - Sau khi đã xác định được con vật mình sẽ cắp, cả nhóm oẳn tù tì để xếp thứ tự đi. Trẻ đi trước bốc hết hình và tung ra, hai tay nắm lại, đan các ngón tay vào nhau, hai ngón trỏ duỗi ra làm càng cua cắp từng hình ra chỗ mình, khi cắp phải khéo léo không để cho ngón tay chạm vào hình bên. Nếu bị chạm sẽ nhường quyền cắp cho bạn đi kế tiếp. Cứ như thế, lần lượt cho từng trẻ cắp loại hình của mình. Ai cắp hết loại hình của mình trước sẽ thắng cuộc. Trò chơi 5: “Oẳn tù tì” Trong các trò chơi dân gian khi chỉ có 2 người, để biết được một trong hai người ai là người được ưu tiên thì với trò Sình Sầm dễ phân biệt trước sau. Những vật dụng được thể hiện qua bàn tay : – Cái Búa: nắm các ngón tay lại như quả đấm – Cái Kéo: nắm 3 ngón tay gồm có ngón cái, ngón áp út, và ngón út lại, và xèo 2 ngón tay còn lại (ngón trỏ, ngón giữa) ta có hình cái Kéo – Cái Bao: xòe cả 5 ngón tay ra. Luật chơi: Cái Búa thì đập cái kéo, cái kéo thì cắt cái bao, cái bao thì chùm được cái búa Khi cả hai cùng đọc: “Uýnh Sình Sầm mày ra cái gì? tao ra cái này”, trong khi bàn tay được dấu sau lưng và khi dứt câu thì đưa tay ra cùng một lúc không được trước sau với dấu hiệu tùy vào mỗi bên, như thế ta biết được bên nào thắng bên nào thua theo luật định, khi hai bên ra cùng một dấu hiệu thì được sình sầm lại. Trò chơi 6: “Cướp cờ” * Dụng cụ: + Một cái khăn bất kì tượng trưng cho cờ + Một vòng tròn + Vạch xuất phát củng là đích của 2 đội * Cách chơi: + Quản trò chia tập thể chơi thành hai đội, có số lượng bằng nhau mỗi đội có từ 5-6 bạn, đứng hàng ngang ở vạp xuất phát của đội mình. Đếm theo số thứ tự 1,2,3,4,5… các bạn phải nhớ số của mình. 15 + Khi quản trò gọi tới số nào thì số đó của hai đội nhanh chóng chạy đến vòng và cướp cờ. + Khi quản trò gọi số nào về thì số đó phải về + Một lúc quản trò có thể gọi hai ba bốn số * Luật chơi: + Khi đang cằm cờ nếu bị bạn vỗ vào người, thua cuộc + Khi lấy được cờ chạy về vạch xuất phát của đội mình không bị đội bạn vỗ vào người, thắng cuộc + Khi có nguy cơ bị vỗ vào người thì được phép bỏ cờ xuống đất để chánh bị thua + Số nào vỗ số đó không được vỗ vào số khác. Nếu bị số khác vỗ vào không thua + Số nào bị thua rồi (“bị chết”) quản trò không gọi số đó chơi nữa + Người chơi không được ôm, giữ nhau cho bạn cướp cờ + Người chơi tìm cách lừa đối phương để nhang cờ về, lựa chọn sân bải phù hợp để chánh nguy cơ, cờ ra khỏi vòng tròn, để cờ lại vòng tròn chỉ được cướp cờ trong vòng tròn + Khoảng cách cờ đến hai đội bằng nhau Trò chơi 7: “Lộn cầu vồng” – Số lượng: Chơi theo nhóm, mỗi nhóm có 2 người. – Địa điểm chơi: Trong phòng hoặc ngoài sân trường. – Cách chơi: Hai trẻ đứng quay mặt vào nhau, vừa vung tay lên theo nhịp vừa hát: Lộn cầu vồng Nước trong nước chảy Có cô mười bảy Có chị mười Hai chị em ta Ra lộn cầu vồng. Khi hát tiếng cuối cùng cả hai trẻ vẫn nắm tay vào nhau cùng giơ lên đầu rồi cùng chui qua tay về một phía, quay lưng vào nhau. Ở tư thế quay lưng vào nhau các 16 em tiếp tục vung tay lên rồi hạ tay xuống như lần trước vừa vung tay vừa hát. Đến tiếng cuối cùng các em lại chui qua tay lộn lại và về tư thế như ban đầu. Trò chơi 8: “Chi chi chành chành” * Cách chơi và luật chơi: Người chơi có thể từ 3 người trở lên. Chọn một người đứng ra trước xòe bàn tay ra các người khác giơ ngón trỏ ra đặt vào long bàn tay vào. Người xòe bàn tay đọc thật nhanh: Chi chi chành chành. Cái đanh thổi lửa. Con ngựa chết chương. Ba vương ngũ đế. Chấp chế đi tìm Ù à ù ập. Đọc đến chữ “ập” người xòe tay nắm lại, những người khác cố gắng rút tay ra thật nhanh, ai rút không kịp bị nắm trúng thì vào thế chỗ người xòe tay và vừa làm vừa đọc bài đồng dao cho các bạn khác chơi. Trò chơi 9: “Mèo đuổi chuột” Trò chơi gồm từ 7 đến 10 người. Tất cả đứng thành vòng tròn, tay nắm tay, giơ cao lên qua đầu. Rồi bắt đầu hát. Mèo đuổi chuột Mời bạn ra đây Tay nắm chặt tay Đứng thành vòng rộng Chuột luồn lỗ hổng Mèo chạy đằng sau Thế rồi chú chuột lại đóng vai mèo Co cẳng chạy theo, bác mèo hóa chuột Một người được chọn làm mèo và một người được chọn làm chuột. Hai người này đứng vào giữa vòng tròn, quay lưng vào nhau. Khi mọi người hát đến câu cuối thì chuột bắt đầu chạy, mèo phải chạy đằng sau. Tuy nhiên mèo phải chạy đúng chỗ chuột đã chạy. Mèo thắng khi mèo bắt được chuột. Rồi hai người đổi vai trò mèo chuột cho nhau. Trò chơi lại được tiếp tục. 17 Trò chơi 10: “Dung dăng dung dẻ” * Cách chơi: + Địa điểm :trong nhà ngoài sân + Số lượng:từ 5-10 em chơi 1 nhớm + Hướng dẫn:quản trò vẽ sẳn các vòng tròn nhỏ trên đất,số lượng vòng tròn ích hơn số người chơi, chơi. Khi chơi các bạn nắm áo tạo thành một hàng đi quanh các vùng tròn và cùng độc”dung dăng dung dè dắc trẽ đi chơi,đi đến cổng trời gặp cậu gặp mợ,cho cháu về quê, cho dê đi học,cho cóc ở nhà cho gà bới bếp,ngồi xệp xuống đây” khi đọc hết chử đây các bạn chơi nhanh chóng tìm một vòng tròn và ngồi xệp xuống.sẽ có một bạn không có vòng tròn để ngồi tiếp tục xoá vòng tròn và chơi như trên,lại sẽ có 1 bạn không có,trò chơi tiếp tục khi chỉ còn 2 người * Luật chơi + Trong 1 khoản thời gian bạn nào khống có vòng thì bị thua + Hai bạn ngồi cùng 1 vòng bạn nào ngồi xuóng dưới là thắng 4. Kết luận Giáo viên mầm non cần quan tâm nhiều hơn đến việc sưu tầm và sử dụng trò chơi dân gian một cách hợp lý, cần nâng cao hiệu quả sử dụng các biện pháp tổ chức trò chơi cho trẻ nhằm phát triển hứng thú, tò mò, ham muốm khám phá và tìm hiểu thế giới xung quanh của trẻ, rèn luyện các kỹ năng cho trẻ. Trò chơi dân gian chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc của một nền văn hóa truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam. Những trò chơi dân gian có tác dụng rất bổ ích đối với mỗi đứa trẻ, không chỉ rèn luyện cho trẻ kỹ năng hợp tác nhóm, về sự phán đoán, óc tư duy sáng tạo và đặc biệt là rèn cho trẻ sớm có tính tự lập, chủ động, biết yêu thương con người, yêu thương thiên nhiên và cuộc sống quanh mình, rèn cho trẻ có một thể chất khỏe mạnh. Trò chơi dân gian làm phong phú tâm hồn trẻ, giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, sáng tạo, sự khéo léo mà còn giúp các em hiểu về tình bạn, tình yêu gia đình, quê hương, đất nước. 18 PHỤ LỤC GIÁO ÁN HOẠT ĐỘNG CHIỀU TÊN ĐỀ TÀI: - HĐ1: TRÒ CHƠI: " DUNG DĂNG DUNG DẺ". - HĐ2: BÉ GIẢI CÂU ĐỐ VỀ CÁC MÙA TRONG NĂM. - HĐ3: CHƠI TỰ CHỌN. Đối tượng: Lớp 4 Tuổi. Số lượng:30 - 35 cháu. Người soạn: Trần thị Quế. Ngày soạn: Ngụ Thị Hoài Thu 19 I. Mục đích yêu cầu: 1. Kiến thức: - Trẻ thuộc bài đồng dao: " Dung dăng dung dẻ"; nhớ luật chơi, cách chơi. - Trẻ trả lời được các câu đố của cô, biết đuợc 1 sô điểm đặc trưng của các mùa trong năm. 2. Kỹ năng: - Rèn cho trẻ kỹ năng quan sát, phân tích tổng hợp để trả lời được các câu hỏi của cô giáo. - Phát triển khả năng ngôn ngữ của trẻ. - Kỹ năng phối hợp nhóm. 3. Thái độ: - Hứng thú với những slide đố các mùa trong năm. - Bài hát về các mùa trong năm. - Trẻ thích tham gia học bài. II . Chuẩn bị: - Máy tính có bài giảng điện tử câu đố các mùa trong năm. * Nội dung tích hợp: Âm nhạc, khám phá khoa học, làm quen văn học. Hoạt động của cô Hoạt động của trẻ Ghi chú 1. Trò chơi: - Cô cho trẻ nhắc lại luật chơi, cách - Trẻ nhắc lại luật chơi, chơi. cách chơi. - Cô cho trẻ chơi 3- 4 lần. - Trẻ chơi vui vẻ. 2. Bé giải câu đố về các mùa trong năm. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan