Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn sử dụng những bài văn mẫu trong việc dạy học ngữ văn ở trường thcs...

Tài liệu Skkn sử dụng những bài văn mẫu trong việc dạy học ngữ văn ở trường thcs

.DOC
20
366
61

Mô tả:

Phần 1: MỞ ĐẦU 1. Mục đích của sáng kiến Phải nói rằng, một trong những sáng kiến kì diệu của loài người, đó là ngôn ngữ. Nhưng sử dụng ngôn ngữ như thế nào để đạt được mục đích giao tiếp? Bày tỏ thái độ, ý kiến của mình sao cho người khác hiểu một cách chính xác, khoa học? Đó chính là nhiệm vụ cơ bản của môn Ngữ văn. Nó có trách nhiệm dạy học sinh nắm vững tiếng Việt, công cụ giao tiếp quan trọng nhất với mỗi người Việt Nam. Không phải đơn giản dạy một số tri thức tiếng Việt mà dạy kỹ năng sử dụng thành thạo công cụ đó. Đó là bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Bốn kỹ năng này sẽ được hình thành và phát triển ở học sinh thông qua việc học ba phân môn trong bộ môn Ngữ văn: Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn. Tiếng là công cụ, là hình thức; Văn là nội dung, mục đích... Tập làm văn là thực hành tổng hợp, là kết quả học của cả hai phân môn Văn và Tiếng. Mỗi bài Tập làm văn là một sản phẩm tổng hợp, là tấm gương phản ánh năng lực của học sinh, bao gồm năng lực tư duy, giao tiếp, vốn sống, vốn văn học, văn hoá, sự thành thạo trong việc sử dụng ngôn ngữ và sự sáng tạo cá nhân... Cho nên, có thể thấy cùng với hai phân môn kia, việc dạy và học Tập làm văn cho học sinh trong nhà trường phổ thông là vô cùng quan trọng và cần thiết. Hiện nay, nhiều em có thiên hướng học các khối tự nhiên, khoa học kĩ thuật, ngân hàng, thương mại...lại nghĩ rằng làm văn không cần thiết bằng làm toán, lý, hóa...Đó là quan niệm chưa đúng. Thực tế làm văn là rất cần thiết cho mỗi người, dù ta có học nghề gì trong tương lai. Bởi làm văn cũng là một cách để rèn luyện tư duy bằng ngôn ngữ, cách diễn đạt chính xác, cách dùng từ đúng chỗ, cách thuyết phục người khác. Thiếu năng lực thuyết phục thì khó mà thành đạt trong cuộc sống. Nói đến việc làm văn trong nhà trường, học sinh thường ngại ngùng, thấy khó, khô khan và có ít hứng thú. Tâm lý đó khiến các em học văn ít có hiệu quả. Có nhiều em đã tìm đến những cuốn văn mẫu với hy vọng sẽ “kiếm” được điểm cao. Nhưng bản thân các em lại không biết nên sử dụng văn mẫu thế nào cho đúng và mang lại hiệu quả như mình mong muốn. 1 Thêm nữa, việc giảng dạy phương pháp làm văn đối với giáo viên cũng khó hơn so với việc dạy các môn học khác. Nhiều băn khoăn trăn trở đặt ra: Giáo viên cần dạy như thế nào để học sinh làm được bài văn hay và sáng tạo? Học sinh học cách nào để viết bài văn nghị luận đúng và hay? Bao nhiêu câu hỏi đặt ra với thầy và trò xung quanh vấn đề phương pháp làm văn nghị luận. Để giúp các em học sinh và các đồng nghiệp có thể có thêm một phương pháp khi dạy và học môn Ngữ văn, tôi lựa chọn đề tài “Sử dụng những bài văn mẫu trong việc dạy học Ngữ văn ở trường THCS” . Hy vọng với đề tài này sẽ phần nào giúp cho môn Ngữ văn ở trường THCS không còn là “nỗi ám ảnh” của các em học sinh. 2. Những đóng góp của sáng kiến Việc sử dụng những bài văn mẫu trong việc dạy học môn Ngữ văn ở trường THCS sẽ giúp cho giờ giảng của giáo viên thêm phong phú, sinh động. Trên cơ sở đó, kiến thức về văn của học sinh được mở rộng hơn, các em có thể nhanh nhạy, chủ động sáng tạo trong việc tiếp thu phương pháp làm các kiểu văn bản.Từ đó có thể tạo ra sự ham thích của các em đối môn Ngữ văn. 2 Phần 2: NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở khoa học của sáng kiến 1. Cơ sở lý luận của sáng kiến Đối với học sinh THCS, việc học văn trong giai đoạn này đòi hỏi các em phải học cách tổng – phân – hợp(tổng hợp, phân tích và khái quát)vấn đề và quan trọng hơn là tìm, phát hiện ra cái hay của tác phẩm mà có thể thầy cô không nói đến. Chính vì thế, việc sử dụng sách văn mẫu cũng là một cách học văn tốt và góp phần bổ trợ kiến thức cho học sinh. Cũng giống như một tờ báo hay một tạp chí, văn mẫu chính là tuyển tập những bài văn chọn lọc mà học sinh có thể dễ dàng tìm thấy trong bất cứ nhà sách nào. Văn mẫu cũng có từng loại. Có những đề văn mẫu theo dạng chung của Bộ GD & ĐTnhư: Phân tích tâm lý nhân vật, bình giảng một khổ thơ... Nhưng cũng có sách văn mẫu gợi ý cả cách mở bài, thân bài và kết luận. Vậy một vấn đề được đặt ra đó là nên chọn cuốn nào và sử dụng như thế nào để có thể mang lại kết quả học tập cao nhất? 2. Cơ sở thực tiễn Văn mẫu hiện nay có rất nhiều loại. Có những cuốn được biên soạn một cách tâm huyết, đầy đủ và sáng tạo, giúp các em học sinh có thể rèn luyện được kĩ năng viết văn và kĩ năng cảm thụ văn học. Nhưng vẫn có không ít những cuốn văn mẫu được biên soạn một cách vội vàng, chỉ nhằm mục đích thương mại. Những cuốn sách ấy không những không giúp cho các em có thể làm văn tốt hơn, học văn giỏi hơn mà khiến các em dần trở thành những học sinh lười suy nghĩ, ỷ lại vào người khác. Hiện nay trong các trường THCS, việc học sinh sử dụng văn mẫu là rất phổ biến. Có những học sinh có đến vài ba quyển, đủ các loại. Và khi có bài kiểm tra, những cuốn sách ấy trở thành “cứu tinh” của các em. Chẳng cần suy nghĩ nhiều, thầy cô chép đề bài xong, học sinh chỉ cần đọc lướt qua, thấy đề ấy có trong văn mẫu là giở ra chép “nhiệt tình”. Thời gian làm bài là chín mươi phút, nhưng có khi 3 chỉ cần chưa đầy bốn mươi lăm phút là các em đã làm xong. Và khi trả bài, các em có thể tự hào là mình làm văn rất giỏi. Nhưng chỉ cần thầy cô coi nghiêm, văn mẫu không thể hoạt động được thì ngay lập tức các em cũng không biết phải làm thế nào, có em còn nộp giấy trắng. Chính vì vậy, theo tôi việc hướng dẫn cho các em sử dụng văn mẫu sao cho hiệu quả là một vấn đề quan trọng mà mỗi giáo viên dạy văn cần chú ý đến. 4 Chương 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ Việc giảng dạy môn Ngữ văn ở cấp THCS là một hoạt động rất quan trọng. Đây hoàn toàn không phải là việc minh hoạ lý thuyết một cách đơn thuần mà thực sự là những hoạt động rèn luyện kỹ năng nhằm góp phần phát triển toàn diện người học sinh. Trong quá trình dạy học môn Ngữ văn đã có các rất nhiều bài văn mẫu nhằm giúp học sinh có thể rút ra được phương pháp làm văn cho bản thân mình. Tuy vậy, xung quanh việc sử dụng các bài văn mẫu có những ý kiến bàn cãi khác nhau. Tiêu biểu là vấn đề: nên chăng sử dụng bài văn mẫu trong giảng dạy bộ môn Ngữ văn THCS? Để học tốt các môn, tài liệu tham khảo thật sự rất cần thiết. Bởi những tài liệu này giúp học sinh mở rộng vốn kiến thức mà do thời gian eo hẹp ở trường, giáo viên không có điều kiện giảng dạy. Những cuốn văn mẫu cũng không nằm ngoài mục đích đó. Hiện nay có rất nhiều cuốn văn mẫu do các tác giả có uy tín biên soạn. Phần lớn các cuốn sách này được viết ra với mục đích giúp các em học sinh học môn Ngữ văn tốt hơn. Ta có thể kể tên một số cuốn như: Hướng dẫn làm bài văn nghị luận xã hội (NXB GD, 2010), Tuyển tập đề và bài văn nghị luận xã hội tập 1, 2(NXB GD, 2013), Nâng cao ngữ văn 6, 7, 8, 9(NXB Hà Nội, 2004)... Thế nhưng tài liệu tham khảo môn văn hiện nay không dừng lại đó. Bên cạnh những đầu sách thuộc dạng nghiên cứu, mở rộng kiến thức như những cuốn kể trên(mà ít học sinh nào chịu mua để đọc) là vô số tài liệu kiểu những bài văn mẫu. Đến nhà sách nào cũng thấy bạt ngàn sách tham khảo môn văn, chủ yếu là sách các bài văn mẫu. Số lượng tuyển tập văn mẫu có vẻ như ngày càng phong phú, mỗi khối lớp có hàng chục đầu sách và nội dung thì “bình mới, rượu cũ”. Chẳng hạn như các cuốn 162 bài tập làm văn chọn lọc, Tuyển chọn 171 bài văn hay, 270 đề và bài văn mẫu...Phần lớn học sinh mua những cuốn sách này để rồi phụ thuộc hoàn toàn vào văn mẫu, dẫn đến tình trạng bài của học sinh hầu như na ná nhau, không có tính phát hiện. 5 Mặc dù thị trường văn mẫu đa dạng như vậy nhưng ở rất nhiều trường, giáo viên đã có những định hướng đúng đắn, giúp học sinh của mình có thể lựa chọn được những cuốn văn mẫu hay và có ích. Từ đó nâng cao kết quả học và làm văn của các em. Nhưng cũng có một số giáo viên có suy nghĩ sử dụng văn mẫu là sai, vì nó khiến cho học sinh không có thói quen tự giác làm bài, bị lệ thuộc hoàn toàn vào mẫu. Cho nên họ kiên quyết cấm học sinh đọc văn mẫu. Ngược lại, có một số giáo viên lại rất thích văn mẫu và thường xuyên đọc văn mẫu cho học sinh chép. Trên thực tế phương pháp sử dụng văn mẫu của giáo viên như vậy sẽ làm cho học sinh ngày càng lệ thuộc vào mẫu mà quên đi sự sáng tạo của bản thân Theo tôi, dạy văn khuôn sáo, công thức là sai, nhưng dạy văn không cần bài văn mẫu cũng là không đúng. Học làm văn, viết thơ, cũng như học bất kỳ cái gì cũng phải bắt đầu từ sự hiểu biết đến kỹ năng thao tác một quy trình kiến tạo. Bài mẫu, đoạn mẫu giúp học sinh đi nhanh một cách có ý thức, một quy trình làm văn, học văn có hiệu quả. Đó là việc làm có tính khoa học và quy phạm. Cung cấp mẫu cho học sinh rèn luyện là chuyện cần thiết. Cần phải làm như thế để học sinh biết sáng tạo một cách có ý thức, có tự giác. Tôi có thể dẫn ra đây một bài văn mẫu như thế: Đề bài: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương. Trong văn học trung đại đã có nhiều tác giả viết về đề tài người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Ví như Nguyễn Dữ với tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương đã khắc hoạ nhân vật Vũ Nương – một đại diện cho hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến với những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại gặp nhiều đau khổ. Vũ Nương là một người phụ nữ xuất thân bình dân, có “tư dung tốt đẹp”. Nàng được Trương Sinh con trai nhà hào phú trong làng “mang trăm lạng vàng” cưới về làm vợ. Nhưng chính sự không bình đẳng trong quan hệ gia đình, đồng tiền đã phát huy “sức mạnh” của nó khiến cho Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm 6 “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Biết chồng bản tính đa nghi, nàng luôn gìn giữ khuôn phép, không để vợ chồng có mối thất hoà. Cuộc sum vầy cha được bao lâu, Trương Sinh bị bắt đi lính. Khi tiễn chồng ra trận, nàng rót chén rượu đầy và nói những lời dặn dò đượm tình thuỷ chung: “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ...”. Điều ao ước lớn nhất của nàng không phải là danh vọng, tiền bạc mà là cuộc sống gia đình đầm ấm yên vui. Trong những ngày tháng chồng đi xa, một mình nàng phải chèo lái con thuyền gia đình. Nàng chăm sóc thuốc thang cho mẹ chồng đau ốm, bệnh tật nh đối với cha mẹ đẻ. Sự hiếu thảo của nàng khiến bà hết sức cảm động, trước khi qua đời bà đã nhắn nhủ: “Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống nòi tơi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ...”. Không chỉ vậy nàng còn phải chăm lo cho đứa con thơ vừa lọt lòng. Vì thương con, lo cho con thiếu thốn hình bóng người cha và cũng để nàng gửi gắm nỗi nhớ thương, mong mỏi chồng, Vũ Nương đã nghĩ ra trò cái bóng. Đêm đêm, nàng chỉ vào cái bóng của mình trên tường và nói với đứa con nhỏ rằng đó là cha nó. Xã hội phong kiến trong buổi suy tàn khiến con người luôn cảm thấy bất an: chỉ một trò đùa, một vật vô tri, vô giác như cái bóng cũng khiến hạnh phúc gia đình tan vỡ. Qua năm sau, việc quân kết thúc, Trương Sinh trở về nhà. Nghe lời của đứa con, chàng chẳng thèm suy nghĩ dù đó là lời nói của một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ và quá mập mờ. Trương Sinh mắng nhiếc vợ rồi đánh đuổi nàng đi, không cho nàng giải thích. Nàng thật sự thất vọng. Hạnh phúc gia đình tan vỡ. Tình yêu, lòng tin không còn. Thất vọng đến tột cùng, chán chường vô hạn, nàng đã tìm đến cái chết để thanh minh cho bản thân. Niềm tin vào cuộc sống đã mất khiến cho Vũ Nương không thể trở về với cuộc sống trần gian dù điều kiện có thể. Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng đều giống như Vũ Nương. Số phận của họ như đã được định đoạt từ trước. Sinh ra mang kiếp đàn bà thì dù giàu nghèo sang hèn không trừ một ai, lời “bạc mệnh” cũng đã trở thành “lời chung” – như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều: 7 Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Họ là nạn nhân của chế độ phong kiến với những điều luật hà khắc, bất công với nữ nhi. Ở đó sinh mạng người phụ nữ không được coi trọng, họ bị mua bán, trả giá một cách công khai. Ở xã hội ấy, họ chỉ như một thứ đồ vật vô tri, không được có ý kiến hay thanh minh cho bản thân. Vũ Nương chết đi mang theo nỗi oan tột cùng, nhưng người gây ra tất cả những bi kịch trên là Trương Sinh lại không bị xã hội lên án và cũng không mặc cảm với bản thân. Ngay cả khi nỗi oan ức ấy được giải thoát, Trương Sinh cũng không bị lương tâm cắn rứt, coi đó là việc đã qua rồi, không còn đáng nhắc lại làm gì nữa. Xã hội phong kiến đã dung túng cho những kẻ như Trương Sinh, để người phụ nữ phải chịu những đau khổ không gì sánh được. Trong ca dao cũng nhắc đến người phụ nữ với sự đau khổ tương tự: Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày. Dù ca dao có xuất xứ từ nhân dân lao động, nhưng nó vẫn phản ánh đúng số phận của người phụ nữ - “những hạt mưa sa”. “Hạt mưa ấy” không biết mình sẽ rơi vào đâu: một nơi “đài các” hay ra “ruộng cày”? Dù đó là đâu, dù muốn hay không họ cũng phải chấp nhận. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng là một người phụ nữ phong kiến, bà cũng hiểu số phận của mình sẽ bị xã hội đa đẩy như thế nào. Bà đã viết Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non. Bà không cam chịu cuộc sống bất công như vậy. Bà đã khẳng định người phụ nữ phải có một vị trí khác trong xã hội. Nhưng sự cố gắng của bà chỉ như một tia sáng hiếm hoi trong chuỗi đời u tối của người phụ nữ. Xét cho cùng, những đau khổ ấy đến với họ cũng là do sống quá cam chịu, quá dễ dàng thoả hiệp. Nếu như họ biết đấu tranh tới cùng, nếu như họ không chọn cái chết để thanh minh thì những bất công ấy sẽ không có điều kiện để phát triển. 8 Chúng ta đều xót thương và cảm thông cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Là một con người sống trong thời đại mới, ta thật hạnh phúc khi không phải bó buộc vào những luật lệ, lề thói xấu ấy. (Phan Hồ Thuý Hằng, lớp 9A1, Trường THCS Trưng Vương, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) * Nhận xét: Bài viết đã đi vào hai ý chính là nhân vật Vũ Nương và thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Về thân phận của Vũ Nương, người viết chủ yếu mới thuật lại câu chuyện về nỗi oan trái của nàng chứ chưa bàn sâu về thân phận. Có lẽ để dành cho phần khái quát về thân phận được khái quát thông qua một số tác phẩm khác nữa chăng? Về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, người viết đã cố gắng dẫn ra ca dao, thơ Hồ Xuân Hương, tác phẩm của Nguyễn Du. Tuy nhiên sự phân tích và khái quát vẫn còn hạn chế. Chi tiết Trương Sinh “đem trăng lạng vàng cưới về” chỉ để gián tiếp khẳng định phẩm giá của Vũ Nương. Trong tác phẩm không hề nói chuyện hôn nhân không đăng đối làm Vũ Nương mặc cảm. Nhận xét về Trương Sinh cũng chưa thật xác đáng. Một con người “không có học” như Trương Sinh lại “có tính đa nghi” thì xử sự gia trưởng như thế là phù hợp với tính cách. Có một vài chỗ hành văn chưa thật mạch lạc. Ví dụ: Dù ca dao có xuất xứ từ nhân dân lao động, nhưng nó vẫn phản ánh đúng số phận của người phụ nữ - “những hạt mưa sa”. (Hướng dẫn Tập làm văn 9 - Vũ Nho chủ biên, NXB Giáo dục 2006) Như vậy, nếu có quan niệm đúng cộng phương pháp đúng trong sử dụng bài văn mẫu sẽ đem lại hiệu quả trong dạy và học làm văn THCS. Điều cơ bản là phải tránh các quan niệm sai lệch khi sử dụng. 9 Chương 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG NHỮNG BÀI VĂN MẪU TRONG VIỆC DẠY HỌC NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THCS Như đã nói ở trên, hiện nay có quá nhiều sách văn mẫu, khiến cho học sinh như rơi vào “ma trận”, không biết nên chọn cuốn nào và sử dụng ra sao. Chính vì thế, tôi nghĩ, để giúp các em có thể học văn tốt hơn khi sử dụng văn mẫu, giáo viên cần phải là người định hướng cho các em từ việc nên mua những cuốn sách văn mẫu nào cho đến việc sử dụng chúng ra sao để có kết quả tốt nhất. Có như vậy mới giúp các em tự tư duy, sáng tạo, không còn hiện tượng học sinh chép y nguyên văn mẫu vào bài kiểm tra như trước đây. Sau đây tôi xin giới thiệu một số cách hướng dẫn học sinh chọn lựa và sử dụng sách văn mẫu: 1. Chọn những cuốn sách có hướng dẫn lập dàn ý. Khi làm văn, lập dàn ý là bước vô cùng quan trọng. Lập dàn ý là cách sắp xếp cái gì kể trước, cái gì kể sau để người đọc theo dõi được văn bản và hiểu được ý định của người viết. Nếu như học sinh biết cách lập dàn ý thì chắc chắn các em sẽ thấy được vấn đề mình cầm phải làm bật lên khi phân tích và sẽ không bao giờ bỏ sót ý. Chính vì vậy, giáo viên nên định hướng cho học sinh sử dụng những cuốn văn mẫu có nội dung chính là hướng dẫn các em cách lập dàn ý. Bởi bên cạnh những kiến thức do thầy cô dạy trên lớp, thì khi đọc nhiều văn mẫu, các em cũng sẽ dần dần hình thành cho mình một tư duy là với kiểu bài này, mình sẽ phải làm những ý nào và sắp xếp bố cục ra sao cho hiệu quả. Đây là một bài văn mẫu trong cuốn Những bài làm văn tự sự và miêu tả (NXB GD, 2008). Đề bài: Hãy tả cảnh dòng sông quê hương. Hướng dẫn lập dàn bài: * Mở bài: giới thiệu về dòng sông quê hương: - Tên dòng sông - Hình ảnh chung về dòng sông 10 * Thân bài: - Lai lịch dòng sông: + Dòng sông có từ bao giờ? + Bắt nguồn từ đâu, chảy về đâu? + Những truyền thuyết về dòng sông (nếu có)? - Hình ảnh cụ thể về dòng sông: + Nước sông. + Cảnh sắc hai bên bờ sông. + Con người sống bên dòng sông. + Những hình ảnh khác - Sự gắn bó của bản thân với dòng sông: + Những ngày hè bơi lội trên sông + Những buổi học bài bên bờ sông. + Những buổi câu cá, đi thuyền trên sông. * Kết bài: Cảm nghĩ của em về dòng sông Như vậy, người biên soạn đã hướng dẫn cho học sinh những ý chính cần phải có của đề bài này. Dựa vào đó học sinh cần suy nghĩ xem với ý này mình sẽ phải viết như thế nào, sử dụng từ ngữ ra sao cho phù hợp...Từ đó giúp các em có thể tự mình viết được một bài văn tả dòng sông quê hương vừa đủ ý, vừa hay lại vừa sáng tạo. 2. Chọn những cuốn văn mẫu có kiểu đề truyền thống Những kiểu đề truyền thống như: Phân tích tâm lý nhân vật, bình giảng khổ thơ hay nghị luận xã hội...là những dạng đề cơ bản trong chương trình Ngữ văn THCS cũng như các cấp học khác. Khi đọc dạng văn mẫu này, học sinh sẽ học hỏi được cách phân tích dẫn chứng, bình giảng ngôn từ và cảm nhận rung động của văn chương. Nếu như thành thạo kĩ năng này là các em đã thành công khi viết một bài văn. 11 Một số cuốn sách có những kiểu đề truyền thống như trên là: Hướng dẫn làm bài văn nghị luận xã hội (NXB GD, 2010), Tuyển tập đề và bài văn nghị luận xã hội tập 1, 2(NXB GD, 2013), Nâng cao ngữ văn 6, 7, 8, 9(NXB Hà Nội, 2004), Tôi xin dẫn ra đây một bài văn mẫu thuộc kiểu bài nghị luận xã hội trong cuốn Hướng dẫn làm bài văn nghị luận xã hội(NXB GD, 2010) để mọi người tham khảo. Đề bài: Quan niệm của anh (chị) về lối sống giản dị của con người. Bài làm: Phẩm chất là một trong những điều quý giá nhất của con người. Từ khi có được nhận thức cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, con người luôn phải học hỏi tích lũy, trau dồi đạo đức cho mình. Giản dị cũng là một trong những phẩm chất đạo đức mà con người cần phải rèn luyện, trau dồi cho bản thân. Chính vì thế giản dị là một nét đáng trân trọng của mỗi con người, đem lại cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Thế nào là giản dị? Giản dị là một cách sống phù hợp với điều kiện của gia đình và xã hội, không cầu kì, kiểu cách, không xa hoa, lãng phí, sống đúng với bản thân và những giá trị đích thực của mình trong cuộc sống Giản dị chính là sự kết hợp giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn. giản dị không chỉ biểu hiện ở lời nói, cách ăn mặc, việc làm mà còn biểu hiện qua suy nghĩ, hành động của mỗi người trong cuộc sống và trong những hoàn cảnh nhất định. Nhưng giản dị không đồng nhất với lối sống cẩu thả, luộm thuộm, sống buông tuồng, bừa bãi, nói năng cộc lốc... Tại sao chúng ta phải sống giản dị? giản dị là một đức tính tốt đẹp của con người. Người có lối sống giản dị luôn thể hiện sự tôn trọng người khác, tôn trọng chính mình, sống gần gũi, hòa nhã với mọi người. Hơn thế nữa, lối sống giản dị còn là tiền đề để tạo ra nhiều đức tính quý báu khác của con người như: tính tiết kiệm, sự thân thiện, tính tập thể...ở mỗi cá nhân. Người sống giản dị sẽ được mọi người tôn trọng, quý mến, cảm thông và chia sẻ. Còn những người thích sống phô trương thanh thế, cầu kì, thiếu sự gần gũi với mọi người thì sẽ khó nhận được tình cảm yêu mến của mọi người. 12 Trong cuộc sống có rất nhiều tấm gương có lối sống giản dị mà điển hình là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi ở cương vị chủ tịch nước, Người có quyền chọn cho mình những tiện nghi sinh hoạt đầy đủ, sang trọng và đắt tiền; thế nhưng Bác đã không chọn như vậy. Bác đã chọn chỗ ở của mình là một ngôi nhà sàn làm bằng gỗ với hai phòng nhỏ. Căn nhà nhỏ, thấp, đôi dép cao su, chiếc quạt làm từ lá cọ, bộ quần áo ka ki đã sờn và cả những bữa cơm thanh đạm ... là cả một bài học lớn về đạo đức cho mọi thế hệ. Đó là một lối sống giản dị - một lối sống giản dị ở một nhân cách vĩ đại làm xúc động trái tim triệu người mỗi khi nhắc đến Bác. Đúng như một người bạn quốc tế đã nhận xét: “Có được vị Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng như vậy là cái phúc cho nước nhà”. Ở Hồ Chí Minh, giản dị đã trở thành một lối sống rất tự nhiên, một phong cách rất Á đông mà ta đã từng gặp trong trang thơ của các bậc đại Nho xưa, như thi nhân Nguyễn Trãi: Ao cạn vớt bèo cấy muống, Đìa thanh phát cỏ ương sen. Hay trong áng thơ của Trạng Trình với cái thú “sống nhàn”: Một mai, một cuốc, một cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào Lối sống giản dị quay về gần gũi với thiên nhiên là cuộc sống thanh đạm, đơn sơ, nghèo về vật chất nhưng giàu có về tâm hồn. Đó là cái đích cuối cùng của lối sống giản dị. Giản dị không chỉ là lối sống hòa mình vào thiên nhiên mà còn là lối sống gắn bó với những gì bình dị nhất: Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương Chàng trai trong bài ca dao xưa, khi xa quê, nhớ về quê hương, chàng nhớ về những món ăn thanh đạm của quê nhà. Món ăn ấy được làm từ bàn tay thơm thảo của người thương... 13 Trái với lối sống giản dị là lối sống xa hoa, lãng phí, phô trương thanh thế. Trong xã hội hiện nay, không hiếm người cậy mình có quyền lực mà ra sức phô trương thanh thế, mua nhà lầu, xe hơi, sắm quần áo xa xỉ, đắt tiền để khẳng định “đẳng cấp” của mình. Họ khinh bỉ, coi thường những người địa vị thấp kém hơn, nghèo hơn mình. Chính điều đó đã đẩy họ sống tách biệt với xã hội, với mọi người xung quanh. Buồn hơn nữa, có người lại cố tình che đậy mình bằng lối sống “giản dị”. Họ tự khoác lên mình hai chữ giản dị, hoặc cố làm ra vẻ giản dị để che đậy những hành vi mờ ám của mình. Lại có những người sống “giản dị” đến mức trở nên hà tiện, không dám ăn, không dám mặc. Và đến lúc nào đó họ trở nên cẩu thả, không tôn trọng chính mình và người khác. Tất cả những biểu hiện ấy không những đi ngược lại lối sống giản dị mà còn bóp méo ý nghĩa thực sự của hai từ “giản dị”. Giản dị phải là sự tự tu thân từ bên trong chứ không phải là cái danh tiếng, cái vỏ bề ngoài, nó phải là “tôt gỗ hơn tốt nước sơn”. Hiểu được tác dụng của lối sống giản dị và biểu hiện của nó trong cuộc sống, ta phải thường xuyên trau dồi cho mình lối sống giản dị, phù hợp với hoàn cảnh gia đình, với xã hội và mọi người xung quanh. Giản dị là một lối sống đẹp. Trong hành trang cuộc sống, mỗi người chọn cho mình một lối sống riêng, nhưng xin đừng quên lối sống giản dị. Bởi chính nó sẽ tôn lên vẻ đẹp của mỗi người. Khi học sinh đọc bài văn mẫu này, các em sẽ học được: cách lấy dẫn chứng cho bài văn nghị luận, cách phân tích các dẫn chứng đó để chứng minh cho ý kiến của mình, cách sắp xếp dẫn chứng, cách viết đoạn, tách đoạn...Và khi gặp một đề bài tương tự, các em sẽ không còn thấy “hoảng” mà sẽ tự tin hơn khi viết bài. 3. Chọn sách văn mẫu có nhiều dạng đề và nhiều bài viết Những cuốn văn mẫu thuộc loại này sẽ giúp các em khai thác được các khía cạnh của văn học, có cái nhìn đa dạng, đa chiều để bình giảng và học hỏi thêm được cách chuyển ý, chuyển đoạn sao cho mượt mà, cuốn hút. Việc dùng bút đỏ gạch chân phần mình cho là quan trọng nhất, hay nhất và ghi lại vào vở để nhớ cũng là một cách giúp các em nhớ lâu và ấn tượng hơn với tác phẩm. 14 4. Chọn những cuốn sách nâng cao Không phải với học sinh nào giáo viên cũng định hướng cho các em mua sách nâng cao. Đối tượng chính của sách nâng cao là các em học sinh khá và giỏi. Bởi các đề bài trong sách nâng cao thường khó, buộc các em phải tư duy, suy nghĩ và đánh giá tổng hợp vấn đề. Các em sẽ có thêm quan điểm mới nhìn nhận tác phẩm, đồng thời cũng biết nhiều hơn về những bình luận, phân tích của các nhà nghiên cứu văn học, phê bình văn học được trích dẫn trong sách, nâng cao trình độ cho các em trong cách lập luận và chứng minh. Chẳng hạn trong cuốn Đọc – hiểu văn bản Ngữ văn 6, ngoài việc trình bày những khái quát về văn bản như: đại ý, tóm tắt, phân tích, bình giảng nội dung chính...thì sách thường có một mục “liên hệ” – là các lời bình, lời nhận xét, đánh giá về văn bản, hay có thể là những mẩu chuyện liên quan đến sự ra đời của văn bản...Vì vậy, khi có trong tay cuốn sách này, học sinh không những có thể nắm được những kiến thức cơ bản của văn bản mà còn có những hiểu biết rộng hơn về văn bản đó. Ví dụ, văn bản Thầy bói xem voi bên cạnh việc trình bày những kiến thức chung thì người viết còn đưa vào phần “liên hệ” hai phần đánh giá của hai tác giả về văn bản này, cụ thể: - “Thầy bói xem voi là một ẩn dụ rất hay về người chủ quan, phiến diện. Thầy nào cũng căn cứ vào bộ phận tự tay mình sờ mó mà biết, rồi cho đó là toàn bộ con voi. Con voi có nhiều bộ phận, mỗi thầy chỉ sờ có một bộ phận. Các thầy chủ quan và phiến diện như thế thì dù có đánh nhau toạc đầu chảy máu cũng vẫn cứ tưởng chỉ có mình là biết sự thật về con voi.” (Trương Chính, Bình giảng truyện ngụ ngôn Việt Nam, NXB GD, 1999) - “Thầy bói xem voi là câu chuyện giàu kịch tính, có kết cấu khá mạch lạc. Nghệ thuật của truyện ngụ ngôn dân gian ở đây đạt tới đỉnh cao. Tác giả đã rất khéo chọn lựa một con vật đồ sộ như voi để cho các thầy bói cùng một lúc có thể “xem” bằng tay, và từ đó sẽ thuận lợi cho việc tưởng tượng, hư cấu nhằm rút ra những điều bổ ích cho con người về việc nhận xét, bình giá và ứng xử trong mọi 15 quan hệ ở đời. Rõ ràng đây là một tấn bi hài kịch về một cách nhận thức, một bài học quý để người đời cùng học. Bài học ấy nhắc chúng ta rằng muốn hiểu biết đầy đủ về một sự vật, một hiện tượng hay một con người nào đó thì phải nhìn nhận thật toàn diện, không nên mới chỉ biết có một ít đã suy nghĩ quá nhiều hay phán đoán mò mẫm. Đến đây, ta càng thấy nhan đề “Thầy bói xem voi” hàm chứa đầy tính hài hước. Nhan đề này cũng đã đi vào vốn ngôn ngữ thông thường của đời sống mỗi khi nhận xét hoặc bình giá một sự việc nào đó chưa đến đầu đến đũa hoặc còn phiến diện. Truyện Thầy bói xem voi mang đậm tính phê phán, có ý nghĩa triết học sâu sắc, nó như một bài học quý không chỉ cho ngày xưa mà còn cho ngày nay và cả mai sau...” (Cao Đức Tiến, Ngụ ngôn – Truyện cười, NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1998) Ngoài cuốn sách kể trên, giáo viên có thể giới thiệu thêm cho học sinh một số cuốn sách nâng cao khác như: Một số kiến thức – kĩ năng và bài tập nâng cao Ngữ văn 6, 7, 8, 9(NXB GD, 2008); Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn THCS quyển 1, 2, 3, 4, 5 (NXB GD, 2009)... 16 Chương 4: KIỂM CHỨNG CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TRIỂN KHAI CỦA SÁNG KIẾN Trong năm học 2013 – 2014, tôi đã mạnh dạn áp dụng một số giải pháp trên vào thực tiễn dạy học ở trường. Kết quả đạt được như sau: Kết quả bài viết văn số 1 – văn tả cảnh 6A Xếp loại Giỏi Khá TB Yếu Số lượng 9 27 4 0 % 22,5 67,5 1 0 6C Xếp loại Giỏi Khá TB Yếu Số lượng 7 28 6 0 % 17,1 68,3 14,6 0 Số lượng 10 26 5 0 % 24,4 63,4 12,2 0 Kết quả bài Tập làm văn số 2 – văn tả người 6A Xếp loại Giỏi Khá TB Yếu Số lượng 10 28 2 0 % 25 70 5 0 6C Xếp loại Giỏi Khá TB Yếu Kết quả bài Tập làm văn số 3 – Văn miêu tả sáng tạo 6A 6C Xếp loại Số lượng % Xếp loại Số lượng % Giỏi 10 25 Giỏi 10 24,4 Khá 28 70 Khá 26 63,4 TB 2 5 TB 5 12,2 Yếu 0 0 Yếu 0 0 Nhìn vào bảng tổng hợp trên có thể thấy kết quả các bài kiểm tra văn miêu tả của học sinh khá ổn định và đồng đều. Dù là văn tả người, tả cảnh hay miêu tả sáng tạo thì việc tham khảo thêm các bài văn mẫu đều là một bước đệm quan trọng để học sinh có cái nhìn mở rộng cũng như cách làm khoa học. Mặt khác, do vốn từ của học sinh còn hạn chế nên đây cũng là một trong những phương pháp để học sinh trau dồi và mở rộng vốn từ, tham khảo thêm những cách diễn đạt lưu loát khi viết 17 văn. Phương pháp này đặc biệt quan trọng với các học sinh còn kém trong cách cảm thụ văn. Phần 3: KẾT LUẬN Việc giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THCS nhằm đạt hiệu quả cuối cùng là học sinh biết tự luận – tức là biết cách làm một bài văn trên cơ sở tổng hợp mọi kiến thức của các bộ môn. Để làm được việc đó, học sinh ngoài việc cần nắm được 18 đầy đủ các bước cần thiết như: Tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý...thì còn cần có kĩ năng sử dụng những bài làm văn mẫu sao cho mang lại hiệu quả cao nhất. Ranh giới giữa ưu điểm và nhược điểm của văn mẫu là rất mong manh. Đọc văn mẫu, nếu biết cách chọn lọc, học sinh có thể học được nhiều điều từ bố cục bài văn, cho đến cách sử dụng ngôn từ, ý tưởng có định hướng, từ đó sàng lọc và vận dụng vào bài văn của mình. Đọc văn mẫu là cách tham khảo được điều hay từ “văn của bạn” chứ không phải là việc chìm khuất vào bài văn mẫu. Học để biết phương pháp chứ không phải để thuộc lòng và ghi lại. Sách văn mẫu có nhiều loại nên việc làm thế nào để định hướng cho học sinh cách chọn được những cuốn hay và bổ ích là điều mà giáo viên dạy văn nào cũng cần phải quan tâm. Chính vì vậy, tôi lựa chọn đề tài Sử dụng những bài văn mẫu trong việc dạy học Ngữ văn ở trường THCS với mong muốn sẽ mang lại một cái nhìn mới mẻ về tác dụng của văn mẫu đối với học sinh khi học môn Ngữ văn ở THCS. Phần 4: PHỤ LỤC Danh mục tài liệu tham khảo: 1. Nguyễn Trọng Hoàn, Đọc – hiểu văn bản Ngữ văn 6, 7, 8, 9, NXB GD, 2008 2. Bộ SGK Ngữ văn lớp 6, 7, 8, 9. NXB Giáo dục, Hà Nội 2014. 19 3. Nguyễn Viết Chữ: Phương pháp dạy học Văn. NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội 2006. 4. Một số kiến thức – kỹ năng và bài tập nâng cao Ngữ văn 6, 7 – NXB Giáo dục, Hà Nội 2008. 5. Tuyển tập đề bài và bài văn nghị luận xã hội, NXB GD, 2013. 6. Lê Đĩnh Mai: Để làm tốt các kiểu văn nghị luận. NXB Giáo dục, Hà Nội 2006. 7. Cao Bích Xuân: Các dạng bài tập làm văn và cảm thụ thơ văn lớp 7 (năm 2004) và Các dạng bài tập làm văn và cảm thụ thơ văn lớp 8 (2005). NXB Giáo dục. 8. Vũ Nho (chủ biên): Hướng dẫn Tập làm văn 7 (năm 2004) và Hướng dẫn Tập làm văn 9 (năm 2006). NXB Giáo dục. 9. Tạp chí Văn học và tuổi trẻ – Bộ Giáo dục và Đào tạo. 10. Các tài liệu khác có liên quan. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng