Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn nâng cao chất lượng dạy học ngữ văn theo hướng phát triển năng lực học sinh...

Tài liệu Skkn nâng cao chất lượng dạy học ngữ văn theo hướng phát triển năng lực học sinh

.DOC
14
101
115

Mô tả:

ĐỀ TÀI: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH ________________ I. ĐẶT VẤN ĐỀ Đứng trước yêu cầu phát triển của xã hội, ngành Giáo dục có một vai trò hết sức quan trọng - đó là nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực phục vụ đất nước. Trải qua các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn nhấn mạnh mục tiêu, nhiệm vụ cũng như vai trò quan trọng của sự nghiệp giáo dục. Gần đây nhất, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã nêu rõ: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam” (Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011). Song song đó, Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011- 2020 ban hành kèm theo Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo xác định “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”. Từ những yêu cầu chung của đất nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề ra quan điểm giáo dục toàn diện, chú trọng bốn mặt: đức, trí, thể, mỹ, nhằm đào tạo những người lao động mới, có khả năng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nên đòi hỏi phải có những bước cải tiến. Mục tiêu dạy học hiện nay phải đáp ứng theo yêu cầu phát triển năng lực người học. Học 1 sinh phải biết và có khả năng vận dụng những hiểu biết, những kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Trong đó, Ngữ văn là môn học có vai trò rất quan trọng. Ngữ văn còn là môn học có đặc thù riêng – môn học thiên về cảm xúc, thẫm mĩ. Nó mang tính nghệ thuật, tính giáo dục rất cao. Do đặc thù của môn học như thế nên đòi hỏi rất nhiều ở người dạy và người học. Từ khâu thiết kế bài giảng của thầy, đến sự chuẩn bị của trò; từ khâu lên lớp đến suốt cả quá trình học tập, thầy - trò phải làm thế nào để đạt được mục tiêu của bài học, của môn học. Thế nhưng, thực tế vẫn có một số học sinh chưa đáp ứng yêu cầu học tập của bộ môn. Từ đó dẫn đến việc các em lơ là, chán học và kết quả học tập không cao, khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống của HS rất hạn chế. Hơn nữa, Ngữ văn có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống. Để học tốt các môn học khác cũng như để giao tiếp tốt, học sinh phải sử dụng công cụ ngôn ngữ. Và để có được khả năng sử dụng tốt ngôn ngữ, Ngữ văn là môn học giúp học sinh đạt được điều đó. Thiết nghĩ, từ những nguyên nhân cơ bản trên, cùng với các quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục của Đảng và Nhà nước – đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực người học - việc nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn cũng như góp phần giáo dục con người, bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách cho HS là vô cùng cần thiết. Để làm được điều đó, vai trò, nhiệm vụ của người thầy rất quan trọng. Thầy phải làm thế nào để tổ chức tốt tiết học văn, tạo cho HS từ yêu thích môn học này để nâng dần chất lượng bộ môn. Thầy phải giúp cho HS thay đổi phương pháp học tập – từ lối học thụ động thành lối học tích cực. Đó là những 2 trăn trở, là lý do để bản thân tôi thực hiện đề tài: Nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực học sinh. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận của vấn đề: Dạy học là hoạt động quan trọng có tính chất quyết định sự phát triển của nhà trường nói chung, chất lượng giáo dục nói riêng. Một khi chất lượng giáo dục hay cụ thể hơn là chất lượng bộ môn chưa cao thì đòi hỏi người thầy phải có những giải pháp để thay đổi thực trạng đó. Để nâng cao chất lượng giáo dục, một trong những yếu tố quan trọng là tích cực hóa hoạt động học tập của HS và hoạt động dạy học của GV. Vận dụng tư tưởng tích cực hóa hoạt động học tập của HS vào thực tiễn giảng dạy môn Ngữ văn, các nhà nghiên cứu phương pháp dạy học (PPDH) trong thời gian qua đều nhất trí ở quan niệm: GV không phải là người “rót” hay “cung cấp” kiến thức tới HS; HS không đóng vai trò thụ động nghe, ghi, chấp nhận và làm theo mẫu … trong suốt quá trình học tập. Tích cực hóa hoạt động học tập của HS cũng không phải là đề cao những sở thích, hứng thú của cá nhân HS hoặc để HS tích cực hoạt động theo những hứng thú tự phát, tùy hứng mà là đề cao tính tích cực, chủ động học tập của HS nhằm đạt được mục tiêu học tập dưới sự hướng dẫn của GV. GV phải khắc phục lối truyền thụ một chiều. Các em phải biết thay đổi lối học thụ động bằng phương pháp học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. Muốn làm được điều đó, vai trò của người thầy trong quá trình dạy học là rất lớn - phải đổi mới phương pháp daỵ học. Đổi mới PPDH ở trường phổ thông là một quá trình phức hợp vì nó đòi hỏi phải tác động đến nhiều yếu tố khác nhau. Để thành công, cần thiết phải đổi mới một cách toàn diện, đồng bộ các thành tố, các bộ phận cấu thành của quá trình dạy học. 3 Hơn nữa, để đạt được mục tiêu dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh, về phía người thầy, phải dạy thế nào để học sinh động não, phát triển tư duy sáng tạo của các em. HS phải tự vận động để tìm ra kiến thức, phải thông hiểu và ghi nhớ những điều nắm bắt được qua hoạt động chủ động, nỗ lực của chính mình. Cần lưu ý một điều rằng, thầy giáo dù tích cực đến đâu mà HS không nỗ lực thì việc dạy học cũng không đạt kết quả. Vì vậy, người thầy chỉ đóng vai trò định hướng, tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ HS trong quá trình tìm hiểu tri thức. Thầy cần đặt ra cho các em nhiệm vụ tìm tòi, phát hiện tri thức trong suốt quá trình học tập và biết vận dụng tri thức vào giải quyết những tình huống thực tiễn của cuộc sống. Thầy phải rèn cho học sinh biết vận dụng kết hợp kiến thức, kỹ năng và thái độ của chính các em để thực hiện một nhiệm vụ thường là gắn với một tình huống mới. Như vậy, kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực, là nguồn lực để người học tìm ra được các giải pháp tối ưu để thực hiện nhiệm vụ. Những kiến thức là cơ sở để hình thành và rèn luyện năng lực là những kiến thức mà người học phải năng động, tự kiến tạo, huy động được. Việc hình thành và rèn luyện năng lực được diễn ra theo hình xoáy trôn ốc, trong đó các năng lực có trước được sử dụng để kiến tạo kiến thức mới; và kiến thức mới lại là cơ sở để hình thành những năng lực mới. Tuy kiến thức, kỹ năng là cơ sở cần thiết để hình thành năng lực nhưng cũng cần lưu ý việc sử chúng cùng với thái độ, giá trị, trách nhiệm bản thân trong bối cảnh cụ thể. * Những định hướng chung về đổi mới PPDH theo định hướng phát triển năng lực: - Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông tin, …) trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy. 4 - GV chọn lựa linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc thù của môn học để tổ chức các hoạt động dạy học. Tuy nhiên dù sử dụng bất kì phương pháp nào cũng phải đảm bảo nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”. * Các năng lực cần phát triển trong chương trình giáo dục theo định hướng phát triển năng lực: năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực tự quản lý, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, năng lực sử dụng ngôn ngữ… 2. Thực trạng của vấn đề: Ngữ văn là môn học có vai trò quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông. Nhưng thực trạng hiện nay ở một số học sinh, các em chỉ học một cách qua loa, đối phó. HS trở nên lười suy nghĩ, không phát triển tư duy sáng tạo của mình trong quá trình học tập. Học văn mà các em lười đọc văn bản, không chịu tìm hiểu tác phẩm, khâu cảm thụ tác phẩm không có, kĩ năng phân tích tác phẩm rất kém... Từ đó dẫn đến hậu quả trước tiên là giờ học văn rất tẻ nhạt, nhàm chán. Sau nữa là kiến thức của các em có nhiều lỗ hổng, kết quả học tập không cao. Nói đến thực trạng dạy học văn, cũng cần phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, một bộ phận giáo viên vẫn còn quen với phương pháp dạy học truyền thống. Giáo viên chỉ chú ý đến việc cung cấp kiến thức còn học sinh thụ động tiếp thu kiến thức hơn là tự tìm hiểu, cảm thụ, khám phá văn bản, dẫn đến nhiều giờ học khô cứng, nặng nề, buồn tẻ, học sinh không hứng thú tham gia học tập. Ngữ văn là bộ môn được tích hợp từ ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn. Với học sinh yếu, việc tích hợp ấy là vô cùng khó khăn. Những bài viết Tập làm văn của các em luôn bị điểm kém. Thậm chí, các em không chịu làm bài, hoặc làm bài một cách qua loa, đối phó. Từ đó dẫn đến kết 5 quả học tập của các em xếp ở loại yếu. Hơn nữa, theo yêu cầu đổi mới, HS không phải chỉ biết ghi nhớ một cách máy móc những kiến thức đã học mà phải có năng lực vận dụng kiến thức vào những tình huống thực tiễn của cuộc sống. Yêu cầu này đối với đối tượng HS yếu và lười học quả là khó thực hiện. Đứng trước thực trạng như thế, thiết nghĩ về phía giáo viên phải làm thế nào tạo hứng thú học tập cho HS, giúp HS yếu đạt được mục tiêu học tập, nâng dần chất lượng bộ môn là vấn đề cần phải được quan tâm. 3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: Trước tiên GV cần hiểu rõ, giáo dục định hướng năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học trong việc vận dụng tri thức vào thực tiễn cuộc sống. Như vậy để nâng cao chất lượng dạy học, GV cần xác định vấn đề then chốt là đổi mới phương pháp dạy học. Cần bắt đầu ở việc lập kế hoạch bài học, lựa chọn các phương pháp dạy học và cuối cùng là kiểm tra đánh giá kết học tập theo định hướng phát triển năng lực. Với đối tượng học sinh yếu, các em bị hổng kiến thức rất nhiều. Có nhiều em vào lớp học chỉ là hình thức, các em hoàn toàn không chuẩn bị bài, không nghe giảng bài. Từ đó các em không tham vào quá trình học tập. Vì vậy, với học sinh yếu, đòi hỏi người giáo viên phải hết sức kiên trì, phải tiến hành nhiều biện pháp để dẫn dắt, hướng dẫn các em trong suốt quá trình học tập. Điều đó có nghĩa là người thầy phải có kế hoạch dạy học dành cho học sinh ở giờ học trên lớp, vừa có kế hoạch phụ đạo cho các em ngoài giờ học chính khóa. Muốn thế, GV cần chú trọng tạo cho HS sự ham thích, hứng thú học tập bắt đầu ngay từ khâu chuẩn bị bài cho đến suốt quá trình lên lớp qua hình thức tổ chức các hoạt động dạy học. Ở các em, do bị hổng kiến thức nên các em rất lơ là, thờ ơ trong học tập. Vì thế, người thầy không được nóng vội, ngay một 6 lúc là bắt buộc học sinh phải tham gia học tốt là điều khó có thể. Người thầy cần chú ý áp dụng từng bước sau: - Trước tiên, thầy phải tìm hiểu hoàn cảnh, nguyên nhân dẫn đến việc học tập của các em không tốt. Tâm lý, tình cảm, tính cách của các em cũng là vấn đề đáng quan tâm. Từ đó có kế hoạch phù hợp để giúp đỡ, hướng dẫn các em. Đa số các em thiếu sự quan tâm của gia đình nên ham chơi. Có em thiếu điều kiện học tập. Cũng có học sinh gần như tự kỷ, các em tỏ ra xa lánh bạn bè… Người thầy tạo được sự gần gũi với các em cũng là tạo được niềm tin để các em phấn đấu trong học tập. Giải quyết được những khó khăn đó phải cần chính tấm lòng, sự quan tâm gần gũi, chia sẻ của người thầy và của mọi người xung quanh. Để làm tốt điều này, giáo viên cần phải kết hợp tốt với các bộ phận, đoàn thể trong nhà trường và ngoài xã hội, nhất là ở phụ huynh học sinh. - Từ việc hiểu được hoàn cảnh, nguyên nhân dẫn đến việc các em lơ là, chán học, học yếu, người thầy sẽ giúp học sinh điều chỉnh, xác định mục đích học tập một cách đúng đắn. Giúp các em ý thức học là cho mình, cho tương lai của chính mình. Từ đó khơi gợi ở các em ý thức tự giác học tập. Đây là một việc làm không dễ. Bởi các em phần lớn có hoàn cảnh gia đình khó khăn, các em thiếu sự quan tâm của gia đình. Vì thế đòi hỏi giáo viên phải hết sức quan tâm, gần gũi, tạo được niềm tin ở các em mới có thể từng bước thay đổi được các em ngay từ trong tư tưởng. - Người thầy phải nắm vững năng lực học tập ở các em để dù ở giờ học chính khóa hay phụ đạo, thầy phải có kế hoạch dạy học phù hợp, không tạo cho học sinh áp lực học tập. Từng bước giúp các em có phương pháp học tập phù hợp. Có như thế các em mới có thể tiếp thu kiến thức. Ban đầu từ việc thụ động dần dần các em sẽ chủ động hơn trong học tập. Các em sẽ thấy hứng thú và tự 7 giác trong học tập. Có được điều này có thể xem như thành công bước đầu ở giáo viên. - Từ việc nắm vững năng lực học tập của các em , giáo viên có kế hoạch phân chia, tổ chức nhóm học tập, đôi bạn học tập để giúp các em nắm bắt được kiến thức của bài học, môn học. Khi giao việc cho nhóm, giáo viên cần gợi ý tạo điều kiện cho các em yếu hoạt động (yêu cầu cần phù hợp với khả năng, không gây chán nản ở các em vì những vấn đề quá khó). Nhóm cần tạo điều kiện cho các em phát huy năng lực của mình, hoặc nêu thắc mắc…Từ đó dẫn đến việc các em sẽ ham thích học tập. Đối với giờ học trên lớp, từ khâu thiết kế bài giảng đến quá trình dạy học, giáo viên phải chú ý đến đối tượng học sinh yếu này. Ở các em, việc chuẩn bị bài không phải là dễ dàng. Giáo viên cần giúp các em cách chuẩn bị bài tốt nhất. Hệ thống câu hỏi phải dễ hiểu, phù hợp với khả năng của các em. Có như thế mới không gây chán nản cho các em vì những yêu cầu quá khó. Giáo viên có thể thiết kế những phiếu học tập để học sinh dễ dàng chuẩn bị bài cũng như dễ dàng kiểm tra các em. Chẳng hạn, đối với tiết văn bản, cần phải đọc kỹ văn bản trước khi trả lời câu hỏi chuẩn bị bài. Có thể thiết kế phiếu học tập như sau: Tên: ................................ PHIẾU HỌC TẬP Tên bài học: Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ) Yêu cầu: Sau khi đọc tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ: 8 1. Chi tiết nào trong truyện làm cho em thích nhất? 2. Em có nhận xét gì về nhân vật Vũ Nương? ………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… Với những câu hỏi như thế không khó để các em trả lời. Nhưng để thực hiện được phiếu học tập này HS phải đọc thật kỹ văn bản. Có thể lúc đầu, học sinh sẽ khó trả lời thật tốt bởi điều này đòi hỏi kỹ năng đọc – hiểu văn bản và kỹ năng tạo lập văn bản (viết câu, diễn đạt ý..). Nhưng từng bước, giáo viên sẽ uốn nắn cho học sinh quen dần với việc các em biết rút ra nhận xét đồng thời biết cách diễn đạt ý kiến của mình. Bước đầu là những câu hỏi dễ, dần dần GV sẽ đưa ra những câu hỏi đòi hỏi kỹ năng vận dụng của các em. Nhưng phải làm từng lúc, không đưa ra những câu hỏi quá sức đối với các em. Từ việc HS biết đọc văn bản để tìm hiểu, GV rèn cho HS kĩ năng cảm thụ, khám phá tác phẩm. Lúc đó, GV sẽ đưa ra những yêu cầu cao hơn (Ví dụ: Từ lẽ sống mà nhà thơ Thanh Hải gửi gắm trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ, hãy liên hệ và trình bày suy nghĩ của em về quan điểm sống của thanh niên hiện nay). Để làm được bài tập này, HS đòi hỏi phải biết vận dụng kiến thức từ văn bản Mùa xuân nho nhỏ đồng thời phải có năng lực nhận thức cuộc sống để giải quyết vấn đề đặt ra (suy nghĩ về quan điểm sống của thanh niên hiện nay). Với đặc thù của bộ môn Ngữ văn, đòi hỏi học sinh không chỉ nắm vững kiến thức mà còn rèn kỹ năng. Học sinh phải biết vận dụng kiến thức vào việc 9 luyện tập ở phân môn Tiếng Việt hoặc viết bài Tập làm văn. Với học sinh yếu, các em rất ngán ngại khi làm bài Tập làm văn. Công việc này giáo viên cần thực hiện trong các giờ học phụ đạo để giúp các em rèn được kĩ năng tạo lập văn bản . Để giúp học sinh làm tốt bài Tập làm văn, giáo viên từng bước củng cố kiến thức, phương pháp làm bài. Với đối tượng học sinh yếu, các em hầu như không có kỹ năng làm bài. Ở các em, kỹ năng tìm ý, viết câu đều rất kém, thậm chí từ ngữ rất nghèo nàn, dùng từ sai, câu văn lủng củng … Giáo viên phải có kế hoạch phụ đạo hợp lý. Lúc đầu là viết câu, viết đoạn, sau mới viết bài. Khâu chấm, sửa bài cho học sinh cũng là một khâu rất quan trọng. Giáo viên phải giúp học sinh nhận thấy những hạn chế, thiếu sót của mình khi làm bài. Từ đó việc sửa bài mới đạt hiệu quả. Giáo viên cũng nên giới thiệu, hướng dẫn các em tìm đọc những tài liệu liên quan đến bộ môn, nhất là các tác phẩm văn học được trích dẫn trong nhà trường. Điều đó cũng giúp ích nhiều cho các em trong quá trình học tập. - Thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở học sinh để thúc đẩy các em học tập tốt hơn. Giáo viên có thể tăng cường kiểm tra miệng, kiểm tra viết hoặc kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh nhưng việc kiểm tra phải nhẹ nhàng nhưng tránh gây áp lực cho các em, tránh cho học sinh hiểu lầm là bị thầy cô trù dập. - Tạo cho học sinh môi trường học tập thân thiện. Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện rất cần thiết để giúp học sinh đạt hiệu quả cao trong học tập. Có như thế, các em sẽ dễ dàng trao đổi, nêu thắc mắc của mình. Qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười, giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an tâm cho các em, giúp các em mạnh dạn bày tỏ khó khăn trong học 10 tập. Khuyến khích các em mạnh dạn nêu những vướng mắc các em gặp phải, không dấu dốt. Trong tiết học, giáo viên không nên quá nghiêm khắc, gò bó gây áp lực cho học sinh. Nên có những lúc thoải mái để các em thích giờ học, thích môn học này chứ không phải thấy Ngữ văn là một môn khó học. Từ việc thích thú, các em sẽ tự giác học tập. Giáo viên cần chú trọng tuyên dương, khen thưởng những tiến bộ của các em. Đó sẽ là động lực thúc đẩy rất tốt cho các em trên bước đường phấn đấu. - Tổ chức nhiều hình thức thi đua như đố vui, trò chơi, hái hoa học tập ... nhằm lôi cuốn, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Giáo viên có thể kết hợp với giáo viên chủ nhiệm, tổng phụ trách Đội, tổ chuyên môn để tổ chức các hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt chuyên đề, hoạt động ngoài giờ lên lớp để lồng ghép nội dung học tập bổ ích. Những buổi sinh hoạt như thế các em sẽ tham gia rất hào hứng và hiệu quả rất tốt về mặt kiến thức. - Qua khảo sát năng lực của các em, giáo viên cần có kế hoạch phụ đạo thật cụ thể, phù hợp với từng đối tượng học sinh. Ở các em, giáo viên phải quan tâm bổ sung những kiến thức các em bị mất để từng bước trang bị lại kiến thức cho các em. Điều này chỉ có thể thực hiện ở giờ học phụ đạo. - Kết hợp với tổ chuyên môn, với các bộ môn khác trong nhà trường để nâng hiệu quả giáo dục tốt hơn. 4. Hiệu quả của sáng kiến: Sáng kiến kinh nghiệm này được áp dụng và thực hiện có hiệu quả ở bộ môn Ngữ văn nhất là với đối tượng là HS yếu. Qua thời gian áp dụng, HS ngày càng tỏ ra hứng thú học tập, các em chuẩn bị chu đáo hơn cho các tiết học. Giờ 11 học sôi nổi hơn, các em không thụ động tiếp thu kiến thức mà đã chủ động, sáng tạo trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Và có lẽ hiệu quả đáng nói nhất là các em đã thay đổi được cách học, học thực chất, kết quả học tập là của chính mình. Các em không còn chán nản khi học văn. Một hiệu quả đáng phấn khởi từ sáng kiến này là năng lực vận dụng của HS được nâng lên rõ rệt. Các em biết giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống một cách linh hoạt hơn, nhạy bén và tiến bộ hơn trước. Kết quả học tập cũng được nâng lên rõ rệt. Cụ thể, trong năm học 2014- 2015, kết quả khảo sát chất lượng đầu năm ở môn Ngữ văn và kết quả học tập bộ môn ở cuối HKI ở khối lớp 9 như sau: Giỏi Khá TB Yếu Kém Đầu năm 17.1 39.3 32.7 9.0 1.9 Cuối HKI 20.3 49.4 29.1 1.2 0 III. KẾT LUẬN 1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm: - SKKN này góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy theo hướng phát triển năng lực của HS - vấn đề đang được ngành Giáo dục quan tâm. Mặt khác hiệu quả của sáng kiến cũng nhằm nâng cao chất lượng học tập môn Ngữ văn. - HS tỏ ra yêu thích, hứng thú học tập môn Ngữ văn cũng là học tập những đức tính cao đẹp, những bài học giáo dục quí báu qua các tác phẩm văn học. - Học sinh yếu giảm dần cũng là giảm dần nguy cơ bỏ học - mối quan tâm lo ngại của nhà trường và của toàn xã hội hiện nay. 12 - Học sinh tích cực hơn trong học tập. Qua đó giáo viên cũng góp phần không nhỏ trong việc giáo dục kỹ năng sống, phát triển năng lực cho học sinh một trong những mục tiêu quan trọng của ngành Giáo dục hiện nay. 2. Bài học kinh nghiệm: Sau thời gian áp dụng , bản thân tôi rút ra được những kinh nghiệm như sau: - Người thầy trước hết phải yêu thương học sinh, phải tâm huyết với nghề, phải có cái tâm của một nhà sư phạm. Có như thế giáo viên mới vượt qua được những khó khăn gặp phải trong nghề nghiệp. - Với đối tượng giảng dạy là học sinh yếu, người giáo viên phải biết nhẫn nại, gần gũi, tôn trọng nhân cách của học sinh. Tạo cho học sinh niềm tin, tạo động lực để các em vươn lên học tập. - Kết quả học tập của HS được nâng lên nhưng vẫn còn một số học sinh kết quả chưa thực sự khả quan (từ những nguyên nhân khách quan). Bản thân GV cần kết hợp nhiều biện pháp, nhiều phương pháp, nhiều hình thức tổ chức hoạt động dạy học để kết quả học tập ngày một cao. - Tuyên dương những cá nhân tiến bộ cũng rất cần thiết, là động lực thúc đẩy học sinh học tập ngày một tốt hơn. - Hiệu quả của SKKN càng cao khi có sự hợp tác chặt chẽ của nhiều bộ phận, đoàn thể trong và ngoài nhà trường. 3. Khả năng ứng dụng, triển khai: - Đề tài SKKN có thể ứng dụng rộng rãi cho bộ môn Ngữ văn cấp THCS. - Khi áp dụng, bản thân GV sẽ có những biện pháp, kinh nghiệm tổ chức hoạt động dạy học phù hợp với từng đối tượng HS. Từ đó nâng cao hơn hiệu quả của đề tài. 4. Kiến nghi, đề xuất: 13 * Đối với cấp quản lý: - Cần có sự phối hợp giữa các bộ phận, đoàn thể để tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa, về nguồn, tham quan thực tế những di tích lịch sử, văn hóa của địa phương để góp phần giáo dục cũng như tạo sự hứng thú, yêu thích học tập bộ môn Ngữ văn cho học sinh. - Đẩy mạnh công tác xã hội hóa để có điều kiện giúp đỡ những học sinh học yếu do hoàn cảnh khó khăn. - Tạo điều kiện cho SKKN được ứng dụng rộng rãi. * Đối với giáo viên giảng dạy - Đầu tư thật tốt cho công tác soạn giảng đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực học sinh nhất là phù hợp với đối tượng HS yếu kém. - Cần rút kinh nghiệm qua từng bài giảng để SKKN ngày càng mang lại hiệu quả cao. Bến Tre , ngày 02 tháng 01 năm 2015 Người viết Trà Thị Thanh Nhàn 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng