SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HƯNG YÊN
TRƯỜNG THPT NAM PHÙ CỪ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG
CỦA HỌC SINH TRONG PHẦN KẾT THÚC BÀI GIẢNG
MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH”
Họ và tên: Nguyễn Mạnh Hùng
Tổ
: Sinh - Kỹ - Thể - QP&AN
Năm học 2013 -2014
PHẦN I: PHẦN LÝ LỊCH
-Họ và tên: Nguyễn Mạnh Hùng
-Chức vụ: Giáo viên
-Đơn vị công tác: Trường THPT Nam Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên
-Tên đề tài: “Một số phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động
của học sinh trong phần kết thúc bài giảng môn Giáo dục quốc phòng-An ninh”
-Thời gian thực hiện: Từ tháng 9 năm 2013 đến tháng 4 năm 2014
-Phạm vi áp dụng: Vận dụng vào giảng dạy bộ môn GDQP-AN
bậc THPT.
-Hiệu quả: Bước đầu áp dụng SKKN đã mang lại hiệu quả tích cực.
-1-
MỤC LỤC
PHẦN: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài-------------------------------------------------------------------- ------------------------------------ 4
2. Mục đích nghiên cứu-------------------------------------------------------------------------------------------------- 4
3. Đối tượng nghiên cứu-------------------------------------------------------------------------------------------------4
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn------------------------------------------------------------------------------- 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ------------------------------------------------------------------------------------------------ 4
6. Phương pháp nghiên cứu------------------------------------------------------------------------------------------ 5
7. Thời gian hoàn thành-------------------------------------------------------------------------------------------------- 5
PHẦN: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 5
2. Thực trạng----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 6
3. Một số phương pháp--------------------------------------------------------------------------------------------------- 8
4. Áp dụng phương pháp----------------------------------------------------------------------------------------------- 12
5. Kết quả ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 16
PHẦN: KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của sáng kiến -----------------------------------------------------------------------------------------------17
2. Bài học kinh nghiệm---------------------------------------------------------------------------------------------------17
3. Khả năng áp dụng đề tài ------------------------------------------------------------------------------------------ 18
4. Một số kiến nghị ---------------------------------------------------------------------------------------------------------- 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-2-
DANH MỤC
CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CAND: Công an nhân dân
CNTT: Công nghệ thông tin
CS: Chiến sĩ
HS: Học sinh
GV: Giáo viên
GDQP-AN: Giáo dục quốc phòng-An ninh
PPCT: Phân phối chương trình
PPDH: Phương pháp dạy học
QĐ: Quân đội.
QĐND: Quân đội nhân dân
SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm
THPT: Trung học phổ thông
GD&ĐT: Giáo dục và đào tạo
-3-
PHẦN II: NỘI DUNG
“MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG
CỦA HỌC SINH TRONG PHẦN KẾT THÚC BÀI GIẢNG
MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH”
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Phần kết thúc bài giảng là một trong ba phần của bài giảng, phần kết thúc
bài giảng giúp cho học sinh hệ thống được kiến thức trọng tâm của bài, thiết lập
mối liên quan về nội dung kiến thức giữa các phần. Vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Một
số phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong phần kết thúc
bài giảng môn Giáo dục quốc phòng-An ninh”
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đưa ra một số phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh trong phần kết thúc bài giảng môn GDQP-AN, nhằm nâng cao chất lượng dạy
học môn GDQP-AN bậc THPT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Học sinh trường THPT Nam Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên
3.2. Phạm vi
Sử dụng cho một số bài giảng trong chương trình GDQP-AN bậc THPT.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Hệ thống hoá cơ sở lý luận liên quan đến các phương pháp kết thúc bài
giảng. Đồng thời đề xuất một số phương pháp kết thúc bài giảng môn GDQP-AN
theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực của HS.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
-Nghiên cứu phương pháp giảng dạy môn GDQP-AN
-Nghiên cứu cấu trúc lên lớp của một bài giảng
-4-
-Nghiên cứu một số trò chơi và vận dụng một số trò chơi vào thực tiễn
6. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận cơ sở
- Phân tích thực trạng một số vấn đề nghiên cứu
- Lý luận thực tiễn của nội dung đề tài
- Áp dụng, thống kê, so sánh, tổng hợp và đánh giá
7. Thời gian thực hiện đề tài
Từ tháng 9 năm 2013 đến tháng 4 năm 2014.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận của đề tài
Hiện nay ngành Giáo dục và đào tạo nói chung, cũng như đội ngũ giáo viên
giảng dạy bộ môn GDQP-AN nói riêng đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học
(PPDH) theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, chống lại thói quen
thụ động của HS trong hoạt động học tập. Mục đích của việc đổi mới PPDH là
thay đổi phương pháp dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “Phương
pháp dạy học tích cực” nhằm giúp HS phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng học tập, tinh thần hợp tác, vận dụng kiến
thức, kĩ năng vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn
cuộc sống; giúp cho học sinh có sự hứng thú, niềm tin, niềm vui trong học tập;
nâng cao chất lượng dạy và học.
Trong dạy học môn GDQP-AN thì phần kết thúc bài giảng là một phần hết
sức quan trọng không thể thiếu trong toàn bộ tiến trình bài giảng, là một yếu tố dẫn
đến sự thành công của bài giảng.
Đối với HS: Phần kết thúc bài giảng giúp HS hệ thống lại kiến thức, kĩ năng
trọng tâm của bài, nhớ lại và khắc sâu kiến thức, kĩ năng. Ngoài việc xác định kiến
thức, kĩ năng trọng tâm, HS còn có thể tự đánh giá kết quả học tập của mình. Từ đó
các em có thể điều chỉnh lại phương pháp học sao cho phù hợp. GV sẽ giúp học
sinh phát huy tính tích cực, chủ động trong việc tiếp thu nội dung bài, đồng thời
-5-
mở rộng và phát triển tư duy cho HS. Kết thúc bài giảng còn tạo điều kiện tương
tác giữa HS và GV. Điều đó tạo hứng thú học tập cho học sinh, nuôi dưỡng bầu
không khí lớp học, tạo điều kiện để HS phát biểu ý kiến.
Đối với GV: Kết thúc bài giảng là một trong ba phần của quá trình lên lớp.
Qua đó, GV nắm được khả năng tiếp thu bài của HS để có biện pháp sửa chữa, bổ
sung kiến thức kịp thời. Từ đó GV sẽ điều chỉnh phương pháp dạy học phù hợp với
nội dung. Đồng thời GV cũng đánh giá được thái độ, tinh thần, ý thức học tập của
HS.
Như vậy, trong dạy học nói chung và dạy học môn GDQP-AN nói riêng, GV
sử dụng tốt phương pháp trong phần kết thúc sẽ góp phần rất lớn mang lại hiệu quả
cho bài giảng, phát huy tối đa tính chủ động, tích cực của HS, nâng cao chất lượng
dạy và học.
2. Thực trạng của vấn đề
2.1. Những thuận lợi
Trong những năm qua, bộ môn GDQP-AN nhận được sự quan tâm của các
cấp, các ngành. Bộ GD&ĐT đã hoàn chỉnh và ban hành chương trình, SGK môn
GDQP-AN theo quyết định Số 79/2007/QĐ-BGDĐT. Hàng năm Vụ GDQP-AN tổ
chức các lớp tập huấn cho cán bộ cốt cán về thực hiện chương trình, đổi mới
PPDH, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá, ứng dụng CNTT vào dạy học, sử
dụng đồ dùng, trang thiết bị dạy học, cập nhật những sửa đổi bổ sung của Điều
lệnh quản lí, Điều lệnh đội ngũ,…
Sở GD&ĐT Hưng Yên mở các lớp tập huấn, triển khai các nội dung tập
huấn cấp bộ cho GV GDQP-AN chuyên trách trong toàn tỉnh,…
Ban giám hiệu trường THPT Nam Phù Cừ luôn dành sự quan tâm, lãnh đạo,
chỉ đạo, kiểm tra đối với tổ, nhóm chuyên môn và GV trong thực hiện chương
trình, thực hiện việc đổi mới PPDH, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá,
khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho GV tham dự các lớp bồi dưỡng
chuyên môn cấp Bộ và Sở. Nhà trường đảm bảo về cơ sở vật chất, trang thiết bị
-6-
dạy và học, chế độ trang phục, chế độ bồi dưỡng giờ dạy,… giúp GV an tâm công
tác, nâng cao hiệu quả giảng dạy.
Bản thân tôi được Sở giáo dục và đào tạo Hưng Yên cử đi học lớp GV
GDQP-AN 6 tháng tại Trung tâm Giáo dục Quốc phòng Hà Nội 2, tham dự các lớp
tập huấn do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức để triển khai lại cho đội ngũ GV
GDQP-AN tỉnh nhà. Được học hỏi kinh nghiệm qua dự giờ các đồng nghiệp giảng
dạy bộ môn GDQP-AN tại các trường THPT trong tỉnh. Trong quá trình công tác
luôn nhận được sự quan tâm của lãnh đạo, tổ chuyên môn, sự giúp đỡ của đồng
nghiệp, sự tin tưởng, hợp tác của HS. Bản thân tôi tâm huyết với bộ môn, luôn nỗ
lực, tìm tòi, áp dụng những biện pháp, phương pháp dạy học tích cực để nâng cao
chất lượng bộ môn, góp phần giáo dục cho HS phát triển toàn diện.
2.2. Những hạn chế
Qua thực tế giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp ở trường sở tại và đồng nghiệp
bộ môn GDQP-AN ở các trường THPT trong tỉnh, tôi nhận thấy bước đầu GV đã
áp dụng một số PPDH mang tính tích cực vào trong bài giảng nói chung và phần
kết thúc bài giảng nói riêng . Đồng thời sử dụng các trò chơi vào phần kết thúc bài
giảng làm tăng hiệu quả và thành công cho tiết dạy. Tuy nhiên, nhìn chung việc
thực hiện đổi mới PPDH theo hướng tích cực, chủ động còn chậm chuyển biến.
Việc sử dụng phương pháp dạy học trong phần kết thúc bài giảng còn bị GV xem
nhẹ, thực hiện qua loa đại khái, mang tính hình thức, thậm chí bỏ qua. Một bộ phận
HS chưa mạnh dạn, chủ động tham gia vào các hoạt động học tập ảnh hưởng đến
việc tiếp thu, hệ thống và ghi nhớ các kiến thức của bài học, lâu dần hình thành
thói quen học tập thụ động,…
Nguyên nhân: Một bộ phận GV chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, vị trí, tầm
quan trọng của phần kết thúc bài giảng, còn hạn chế về chuyên môn (chỉ qua lớp
đào tạo ngắn hạn 6 tháng), ngại áp dụng các PPDH tích cực vào trong tiết dạy, hiệu
quả của các lớp tập huấn đổi mới PPDH chưa cao, do áp lực thời gian… HS có tấm
lí coi nhẹ môn học GDQP-AN do phải tập trung cho các môn thi tốt nghiệp, các
môn thi Đại học, Cao Đẳng,… Trang thiết bị phục vụ cho dạy học chưa đáp ứng đủ
số lượng, đảm bảo về chất lượng.
-7-
3. Một số phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong
phần kết thúc bài giảng môn GDQP-AN
Trong thực tế GV thường vận dụng các phương pháp sau vào phần bài
giảng:
* Kết thúc bài giảng bằng phương pháp thiết kế và sử dụng các sơ đồ, bảng
biểu, tranh ảnh, phim tài liệu.
Phương pháp này giúp HS hiểu được kiến thức thông qua khả năng phân
tích, so sánh và móc nối, liên hệ các kiến thức.
Thường áp dụng với những bài lý thuyết, mang tính so sánh hay tổng quát,
có thể sử dụng các sơ đồ, bảng biểu, tranh ảnh, phim tài liệu,…
* Kết thúc bài giảng bằng phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi, bài tập
Phương pháp này đánh giá việc học của HS, rèn cho học sinh khả năng diễn
đạt. Nhưng sẽ tạo áp lực cho các HS tiếp thu chậm và không hiểu bài ngay tại lớp.
Phương pháp này thường áp dụng đối với những bài học lý thuyết.
* Kết thúc bài giảng bằng phương pháp cho học sinh tự tổng hợp kiến thức
Phương pháp củng cố này rèn cho học sinh kĩ năng trình bày vấn đề trước
đám đông và kĩ năng tóm lược vấn đề. Phương pháp này áp dụng với những bài
nội dung đơn giản, dễ tổng hợp lại kiến thức.
Để khắc phục những hạn chế đã nêu ở trên tôi mạnh dạn đề xuất một số
phương pháp kết thúc bài giảng mà bản thân tôi đã tìm tòi, vận dụng có hiệu quả
như sau:
3.1. Kết thúc bài giảng bằng phương pháp hệ thống câu hỏi trắc nghiệm
khách quan.
Phương pháp này giúp kiểm tra đánh giá nhận thức của HS, khảo sát được
số lượng lớn HS, kết quả khảo sát nhanh. Qua đó cũng giúp HS nắm lại những nội
dung kiến thức trọng tâm của bài một cách cô đọng, tạo sự hứng thú cho HS và sự
sinh động của tiết học. Phương pháp này cũng phù hợp với yêu cầu đổi mới kiểm
tra, đánh giá hiện nay.
-8-
Hạn chế của phương pháp này là đòi hỏi GV phải có sự chuẩn bị, tốn công
sức. HS có thể đoán mò đáp án. Hạn chế sự phát triển tư duy, khả năng diễn đạt
bằng ngôn ngữ của HS.
* Công tác chuẩn bị: GV căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng để biên soạn hệ
thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo các dạng: câu trắc nghiệm đúng-sai,
câu trắc nghiệm có nhiều lựa chọn, câu trắc nghiệm ghép hợp, điền vào chỗ
trống,… GV có thể biên soạn trên giấy khổ lớn A0 hoặc soạn trên Powerpiont để
tăng tính sinh động.
Thời gian cho phần củng cố thường từ 5 đến 7 phút vì vậy khi soạn câu hỏi
trắc nghiệm, GV nên chọn những nội dung trọng tâm, có hệ thống, đầy đủ các dạng
câu trắc nghiệm, số lượng câu hỏi phù hợp từ 8 đến 10 câu. Làm phiếu trả lời nếu
muốn kiểm tra nhận thức của cả lớp.
* Công tác tổ chức: GV nêu hoặc trình chiếu trên màn hình hệ thống các câu
hỏi, giành thời gian cho HS suy nghĩ, động viên khuyến khích HS xung phong trả
lời. Đối với những HS thụ động, thiếu tích cực, GV có thể chỉ định. HS trả lời bằng
cách giơ tay hoặc điền vào phiếu trả lời.
Để tạo sự sinh động, thi đua và rèn luyện kĩ năng làm việc tập thể, GV nên
tổ chức lớp thành các nhóm. Thời gian suy nghĩ và trả lời cho mỗi câu khoảng 15
giây, các nhóm trả lời bằng cách viết ra giấy A4, bảng, hoặc điền vào phiếu trả lời.
Cuối phần củng cố, GV công bố đáp án, tổng kết, đánh giá, sửa sai (có thể đánh
giá, sửa sai từng câu) và phát thưởng động viên nếu có.
Kinh nghiệm của bản thân tôi để tăng sự hứng khởi cho HS và dễ dàng tiến
hành, tôi soạn các câu trắc nghiệm này trên Powerpiont, và chia lớp thành các
nhóm.
3.2. Kết thúc bài giảng bằng phương pháp trò chơi tổ chức trong phòng học
Phương pháp này tạo sự hứng thú, huy động sự tham gia của nhiều HS, tạo
bầu không khí tích cực, tươi vui, đoàn kết cho lớp học, giải tỏa áp lực của tiết học,
giúp HS khắc sâu kiến thức theo phương châm “Chơi mà học, học mà chơi”. Qua
đó GV cũng có thể kiểm tra được mức độ nhận thức của HS để bổ sung những
-9-
khiếm khuyết, hệ thống được nội dung trọng tâm của bài, góp phần hình thành, rèn
luyện, bồi dưỡng kĩ năng cho HS.
Hạn chế của phương pháp: Công tác chuẩn bị của GV đòi hỏi nhiều trí tuệ,
thời gian, mất nhiều công sức. Mất nhiều thời gian khi tổ chức cho HS tham gia trò
chơi. Do vậy khi thiết kế các trò chơi GV cần đảm bảo được sự cô đọng, đơn giản,
dễ chơi nhưng vẫn đảm bảo nội dung trọng tâm của tiết học. Chủ yếu tiến hành
trong các kiểu bài lý thuyết.
Dưới đây là là một số kiểu trò chơi mà bản thân tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và
áp dụng:
3.2.1. Trò chơi ô chữ
Áp dụng cho các bài lý thuyết.
* Công tác chuẩn bị: GV căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài để
biên soạn các câu hỏi trong trò chơi ô chữ. GV thiết kế ô chữ trên giấy khổ A0
hoặc thiết kế trên Powerpiont (có thể tham khảo tài liệu về cách thiết kế ô chữ trên
Internet). Do thời gian củng cố có hạn nên ô chữ chỉ nên có từ 7-9 hàng ngang.
Mỗi hàng ngang sẽ có một từ khóa hoặc là một gợi ý để tìm ra ô chữ đặc biệt. Ô
chữ đặc biệt sẽ là một nội dung trọng tâm nhất, kiến thức căn bản nhất của bài.
Biên soạn luật chơi, chuẩn bị các phần thưởng, mẫu ô chữ và các công tác chuẩn bị
khác. HS chuẩn bị giấy trắng, bút hoặc bảng đen, phấn để trả lời. Để tăng thêm tính
sinh động GV nên thiết kế ô chữ trên Powerpiont kết hợp âm thanh, hình ảnh,
video, flash…
* Công tác tổ chức:
Đối với GV: Chia lớp từ 4 đến 6 nhóm (đội) tùy vào số lượng HS từng lớp.
GV nêu ngắn gọn luật chơi, phần thưởng cho đội thắng cuộc nếu có (đối với tiết
đầu tiên áp dụng trò chơi này). Chọn một số thành viên ban cán sự lớp để hỗ trợ
cho GV. Cho đại diện các nhóm lựa chọn các ô hàng ngang. Đọc câu hỏi, nêu gợi ý
nếu cần. Công bố đáp án sau khi hết thời gian qui định. Tổng kết, đánh giá, phát
thưởng.
- 10 -
Đối với HS: HS các nhóm cử ra nhóm trưởng (đội trưởng) để đại diện nhóm
(đội) lựa chọn câu hỏi và công bố câu trả lời bằng lời hoặc viết vào mẫu ô chữ.
Tích cực thảo luận đóng góp, tìm đáp án.
3.2.2. Thi hát ca khúc
Thường áp dụng cho một số bài lý thuyết mang tính giáo dục cho về lịch sử,
truyền thống, trách nhiệm của HS như: Lịch sử đánh giặc giữ nước của dân tộc
Việt Nam; Lịch sử, truyền thống của Quân đội và CAND Việt Nam; Thường thức
phòng tránh một số loại bom đạn, thiên tai; Luật nghĩa vụ quân sự và trách nhiệm
của HS; Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia; Một số hiểu biết về nền
QPTD, ANND; Tổ chức QĐ và CAND Việt Nam, Luật sĩ quan QĐ và Luật
CADN; Công tác phòng không nhân dân; Trách nhiệm của HS với nhiệm vụ bảo
vệ an ninh quốc gia,….
* Công tác chuẩn bị:
Đối với GV: GV căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng, nội dung trọng tâm
của tiết học hoặc của toàn bài để lựa chọn chủ đề và các bài hát có liên quan đến
chủ đề. Hướng dẫn HS sưu tầm, tập dượt các bài hát. Chuẩn bị âm thanh và các
công tác chuẩn bị khác.
Đối với HS: Sưu tầm, tìm hiểu, tập dượt các bài hát theo chủ đề đã được GV
định hướng.
* Công tác tổ chức:
Đối với GV: GV nêu chủ đề, khuyến khích, động viên HS trình bày các ca
khúc phù hợp với chủ đề hoặc chính GV sẽ là người trình bày bài hát. Yêu cầu HS
nêu ý nghĩa của bài hát. GV bổ sung, phân tích các ca từ có ý nghĩa, có liên quan
đến chủ đề.
Đối với học sinh: Mạnh dạn, tự tin trình bày ca khúc theo chủ đề đã chuẩn
bị. Nêu ý nghĩa của bài hát, tự liên hệ đến nội dung bài.
3.3.3. Kết thúc bài giảng bằng phương pháp trò chơi quân sự
Đây là phương pháp đặc thù của bộ môn. Áp dụng cho các nội dung thực
hành như: Đội ngũ từng người không có súng; Đội ngũ đơn vị; Cấp cứu ban đầu tai
nạn thông thường và băng bó vết thương; Kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK và súng
- 11 -
trường CKC; Kỹ thuật sử dụng lựu đạn; Kỹ thuật cấp cứu và chuyển thương; Các
tư thế, động tác cơ bản vận động trên chiến trường; Lợi dụng địa hình, địa vật.
Thường dùng để củng cố kĩ năng cho từng tiết nhưng chủ yếu là cho toàn bài.
Phương pháp này đặc biệt tạo ra sự hứng thú, phấn khích của HS trong tiết
học, là một phương pháp củng cố bài nhẹ nhàng nhưng hiệu quả, rèn luyện cho HS
các kĩ năng quân sự và kĩ năng sinh hoạt tập thể.
Tuy nhiên để thực hiện được phương pháp này đòi hỏi GV phải nắm vững
mục tiêu, kiến thức trọng tâm của bài. GV cũng cần có một số kĩ năng như: Kĩ
năng thiết kế trò chơi, kĩ năng quản trò, kĩ năng sinh hoạt tập thể,… GV phải mất
thời gian, công sức để thiết kế, tổ chức.
* Công tác chuẩn bị:
Đối với GV: GV căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài để thiết kế trò
chơi. Đảm bảo nguyên tắc đơn giản, dễ chơi, phù hợp với thời gian, đúng trọng
tâm của bài (có thể liên hệ với các kĩ năng quân sự HS đã được trang bị ở các tiết
trước, bài trước, lớp trước), phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của HS. Biên soạn
luật chơi, chuẩn bị vật chất, thiết kế sân chơi, bãi tập, tập huấn đội mẫu (nếu cần),
chuẩn bị phần thưởng (nếu có) và các công tác chuẩn bị khác.
Đối với HS: Nghiên cứu trước nội dung, tự rèn luyện các kĩ năng đã được
GV hướng dẫn, chuẩn bị những vật chất do GV qui định. Tham gia thảo luận đóng
góp ý kiến.
* Công tác tổ chức: Thường củng cố vào cuối tiết học hoặc cuối bài. GV phổ
biến ngắn gọn luật chơi, giới thiệu điều kiện sân chơi bãi tập. Chọn một số thành
viên ban cán sự lớp để hỗ trợ GV. Sử dụng đội mẫu nếu cần. Tiến hành theo kế
hoạch. Cuối trò chơi GV đánh giá, sửa sai, tổng kết, phát thưởng.
4. Áp dụng một số phương pháp cụ thể vào bài giảng
Ví dụ 1: Bài 3 - Bảo vệ chủ quyền và biên giới quốc gia
Để củng cố nội dung trọng tâm của bài “Một số quan điểm của Đảng và
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bảo vệ biên giới quốc gia”,
Tôi sử dụng phương pháp củng cố bài bằng “Trò chơi ô chữ”. Cách thức tiến
hành cụ thể như sau:
- 12 -
* Công tác chuẩn bị: Dựa vào chuẩn kiến thức, kĩ năng của toàn bài và nội
dung trọng tâm của bài học, tôi thiết kế bài giảng trên Powerpiont. Phần củng cố
bài tôi thiết kế Trò chơi ô chữ với 7 ô hàng ngang, ô chữ đặc biệt có 7 chữ cái
(Mẫu 1b). Biên soạn câu hỏi, gợi ý cho mỗi ô hàng ngang . Chuẩn bị khung Trò
chơi ô chữ biên soạn trên Word, in thành một số bảng (Mẫu 1a) để phát cho HS.
* Công tác tổ chức: Tôi chia lớp thành 4 đội, chọn đội trưởng. Chọn lớp
trưởng, Bí thư chi đoàn trợ giúp. Phát mẫu ô chữ cho các đội. Phổ biến luật chơi:
Mỗi đội được quyền lựa chọn một ô chữ bất kì. GV đọc câu hỏi và gợi ý, trong thời
gian 15 giây toàn đội suy nghĩ. HS trả lời bằng giấy hoặc giành quyền trả lời bằng
cách giơ tay (có thể sử dùng cờ), mỗi câu trả lời đúng sẽ có một từ khóa in đậm
xuất hiện. Các từ khóa xuất hiện không theo thứ tự. Đội trả lời đúng được 10 điểm.
Trả lời sai mất quyền ưu tiên cho các đội còn lại. Trả lời xong 7 ô hàng ngang mới
được giải ô chữ đặc biệt. Ô chữ đặc biệt có 7 chữ cái (viết hoa không dấu). Phần
thưởng có giá trị về tinh thần.
* Tiến hành trò chơi trong 5-7 phút. Kết thúc trò chơi GV tổng kết, nhận xét,
qua đó hệ thống lại các nội dung trọng tâm.
Mẫu 1a. Khung Trò chơi ô chữ
- 13 -
Câu hỏi gợi ý cho các ô hàng ngang như sau:
1. Hàng ngang số 1 có 7 chữ cái : Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện biện
pháp này trong giải quyết phân định biên giới?
2. Hàng ngang số 2 có 5 chữ cái: “……xây Trường Sa” là tên một phong trào do
Báo Tuổi trẻ và Trung ương Đoàn phát động”.
3. Hàng ngang số 3 có 9 chữ cái: “Bộ đội ……là lực lượng nòng cốt trong quản lí,
bảo vệ biên giới quốc gia”
4. Hàng ngang số 4 có 8 chữ cái: “Sẵn sàng……” là yêu cầu xây dựng lực lượng
vũ trang chuyên trách trong quản lí bảo vệ biên giới quốc gia. Đây còn là biện
pháp bất khả kháng để bảo vệ biên giới quốc gia.
5. Hàng ngang số 5 có 7 chữ cái : Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta: “ Xây
dựng, quản lí, bảo vệ biên giới quốc gia là trách nhiệm của…”
6. Hàng ngang số 6 có 7 chữ cái : Đây là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ biển đảo
của Tổ quốc.
7. Hàng ngang số 7 có 7 chữ cái: Đây là quan điểm của Đảng, Nhà nước và là
mong muốn của nhân dân ta trong xây dựng biên giới với các nước láng giềng?
Cũng là tên của một của khẩu Quốc tế giữa Việt Nam và Trung Quốc, trước đây
còn có tên gọi là Ải Nam Quan?
* Ô chữ đặc biệt có 7 chữ cái (không dấu)
Đây là quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong xây dựng biên giới, giải
quyết các vấn đề về biên giới?
Mẫu 1b. Khung Trò chơi ô chữ thiết kế trên Powerpiont
- 14 -
Đ À
G
B I
C H
T O
H Ả
H Ữ
1
2
3
4
5
6
7
H
O
M
Ó
Ê
I
À
I
U
P
P
N
Ế
N
Q
N
A
H
Đ
P
N
D
U
G
B
Á
Á
H
Đ
Â
Â
H
N
Ò N G
Ấ U
N
N
Ị
I
N
H
Ví dụ 2: Bài 7 - Kĩ thuật cấp cứu và chuyển thương
Để củng cố các kĩ năng cầm máu tạm thời, cố định tạm thời xương gãy,
chuyển thương, ôn luyện kĩ năng thực hiện tư thế động tác bắn súng tiểu liên AK,
tư thế động tác đứng ném lựu đạn, tôi vận dụng phương pháp kết thúc bài giảng
bằng “Trò chơi quân sự”. Cách thức tiến hành như sau:
* Công tác chuẩn bị:
+ Thiết kế trò chơi: Căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài, liên bài, nội dung
trọng tâm của tiết học (tiết luyện tập) tôi thiết kế trò chơi như sau:
. Tên trò chơi: “Đồng đội”
. Số đội chơi: 4 đội. HS trên vai trò chiến sĩ.
. Số thành viên mỗi đội 6.
. Thời gian: 7 phút.
. Điểm xuất phát: CS số 1 được trang bị sử dụng súng tiểu liên AK, vận động vượt
qua chướng ngại vật đến vị trí qui định (ụ cát), dùng súng tiêu diệt mục tiêu ở tư
thế nằm bắn có bệ tì. Sau loạt đạn đầu tiên CS số 1 bị trúng hỏa lực của địch, gãy
- 15 -
xương cánh tay. Tiếp theo CS số 2 được trang bị súng tiểu liên AK và 1 quả lựu
đạn, vận động vượt qua chướng ngại vật, tiếp cận vị trí CS số 1 đang bị thương,
dùng lựu đạn ném tiêu diệt mục tiêu địch, tạo điều kiện cho các CS số 3 và CS số
4 vận chuyển CS số 1 về trạm quân y. Khi thấy CS số 2 ném lựu đạn, ra tín hiệu
đã tiêu diệt được mục tiêu thì CS số 3 và CS số 4, mang cán thương (võng và gậy
dài) vận động lên tiếp cận và chuyển CS số 1 về vị trí trạm quân y.
Tại vị trí trạm quân y, CS số 5 và CS số 6 sẽ thực hiện cầm máu tạm thời và
cố định gãy xương cánh tay cho CS số 1.
Cách tính thành tích: Đội hoàn thành sớm nhất, đúng kĩ thuật nhất sẽ được
tuyên dương khen thưởng
+ Thiết kế sân chơi: Chọn vị trí sân rộng, bố trí các chướng ngại vật, bia số 4a
tượng trưng cho mục tiêu địch.
+ Chuẩn bị vật chất: Súng tiểu liên AK, lựu đạn, âm thanh mô phỏng chiến trường,
dây văng, trụ gỗ, bao cát, bia số 4a, băng , bộ nẹp gỗ.
* Công tác tổ chức: GV cho tập trung lớp, giới thiệu sơ đồ sân chơi, giới thiệu
ngắn gọn luật chơi, qui ước kí tín hiệu, mục tiêu. Lập các đội chơi (từng tiểu đội).
Tiến hành theo kế hoạch. Tổng kết, đánh giá, trao đổi với HS, rút kinh nghiệm.
5. Kết quả của đề tài:
Qua thực tiễn giảng dạy tôi nhận thấy kết quả học tập môn GDQP-AN lớp
do tôi phụ trách có sự cải thiện rõ rệt. Đa phần HS học tập với thái độ, tinh thần
học tập tự giác, tích cực và chủ động. Hăng say học tập và luyện tập các nội dung
thực hành,...
Kết quả cụ thể khi áp dụng SKKN
BẢNG 1: Kết quả môn GDQP-AN qua các năm
NĂM HỌC
KẾT QUẢ
YẾU
TB
KHÁ
GIỎI
2012-2013
3/42= 7.1%
19/42=45,2%
12/42=28,5%
8/42=19,2%
2013-2014
0/42= 0%
11/42=26,2%
16/42=39,0%
15/42=35,7%
- 16 -
BẢNG 2: So sánh kết quả áp dụng SKKN
Bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và BGQG – Lớp 11
Nội dung chủ yếu trong phần kết thúc bài giảng:
- Những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng, quản lí và bảo vệ biên
giới quốc gia
Phương pháp
Kết thúc bài bằng hệ thống
Số lượt HS tham
Nhận xét của HS
gia trả lời
qua tiết học
Thích
Không
42/42
9/42
33/42
42/42
33/42
33/42
câu hỏi
Kết thúc bài bằng trò chơi ô
chữ
Bài 7: Kĩ thuật cấp cứu và chuyển thương – Lớp 11
Nội dung chủ yếu trong phần kết thúc bài giảng:
+ Các loại chảy máu
+ Các nguyên tắc, biện pháp cầm máu tạm thời)
Phương pháp
Kết thúc bài bằng hệ thống
Số lượt HS tham
Nhận xét của HS
gia trả lời
qua tiết học
Thích
Không
42/42
9/42
33/42
42/42
33/42
33/42
câu hỏi trắc nghiệm
Kết thúc bài bằng bảng so
sánh
III. KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của SKKN
Phần kết thúc bài giảng là khâu hết sức quan trọng trong một tiết dạy. Tiết
dạy sẽ thực sự thành công nếu GV có phương pháp kết thúc bài giảng hợp lí với
- 17 -
từng bài, từng lớp và từng đối tượng HS. Qua đề tài tôi đã đề xuất các phương
pháp kết thúc bài giảng theo hướng phát huy tích tích cực, chủ động của HS là:
+ Kết thúc bài giảng bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
+ Kết thúc bài giảng bằng các trò chơi tổ chức trong phòng học: Trò chơi ô chữ;
Thi hát các ca khúc theo chủ đề.
+ Kết thúc bài giảng bằng trò chơi quân sự.
2. Bài học kinh nghiệm
Qua thực tiễn dạy học áp dụng các phương pháp kết thúc bài giảng trên đã
góp phần thu hút HS tham gia vào tiết học, HS tích cực hơn trong nhận thức, quan
tâm, hứng thú hơn đối với môn học. Đương nhiên GV sẽ phải mất nhiều thời gian
tốn nhiều tâm lực, sức lực để đạt được kết quả mong muốn. Trong phần kết thúc
bài giảng, GV cần căn cứ vào nội dung, mức độ cần đạt về mục tiêu dạy học, thời
gian thực hiện và đối tượng HS để có thể lựa chọn phương pháp sao cho phù hợp.
GV cần vận dụng tổng hợp và sáng tạo các phương pháp dạy học mới lạ, hấp dẫn,
đồng thời ứng dụng CNTT vào soạn giảng sẽ tăng hiệu quả của các phương pháp,
lôi cuốn sự tham gia tích cực của HS. Ví dụ: đối với phương pháp kết thúc bài
giảng bằng hệ thông câu hỏi trắc nghiệm khách quan GV có thể thiết kế thành trò
chơi phỏng theo trò chơi Rung chuông vàng của VTV3,...
3. Khả năng áp dụng của SKKN
Qua quá trìnnh áp dụng SKKN vào thực tiễn tôi được Lãnh đạo, Hội đồng
giáo dục nhà trường và tổ, nhóm chuyên môn đều đánh giá rất cao tính khả thi của
đề tài. Khi áp dụng đề tài vào giảng dạy, SKKN giúp học sinh hứng thú học tập,
tích cực, chủ động xây dựng bài học. Đồng thời hăng say nghiên cứu, tìm tòi tài
liệu phục vụ môn học,... Do vậy kết quả học tập của các em trong năm học 20132014 đạt kết quả rất cao. Không có học sinh nào đạt kết quả yếu, kém.
4. Một số kiến nghị
Để nâng cao hiệu quả dạy học môn GDQP-AN nói chung cũng như đẩy
mạnh việc đổi mới phương pháp dạy học tích cực trong đội ngũ GV tôi mạnh dạn
kiến nghị một số vấn đề sau:
- 18 -
Thứ nhất: Cần quán triệt sâu rộng, nhất quán đến tất các GV về mục đích,
yêu cầu, nguyên tắc của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực.
Thứ hai: Tổ chức thường xuyên và nâng cao chất lượng các lớp bồi dưỡng
chuyên môn về đổi mới PPDH, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá.
Thứ ba: Định kì tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề về đổi mới phương
pháp, báo cáo SKKN, hội giảng cấp tỉnh để GV bộ môn có dịp gặp gỡ, học tập,
trao đổi kinh nghiệm nhất là những kinh nghiệm tốt về các PPDH tích cực.
Thứ tư: Nâng cao hơn nữa số lượng cũng như chất lượng của các trang thiết
bị, đồ dùng dạy học.
Để đề tài hoàn chỉnh hơn, tôi rất mong nhận được sự nhận xét, đánh giá, góp
ý của Hội đồng khoa học giáo dục nhà trường; Tổ, nhóm chuyên môn cùng các
đồng nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
“Đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi viết, không sao chép nội
dung của người khác”
Phù Cừ, ngày 28/3/2014
Người viết
Nguyễn Mạnh Hùng
- 19 -
- Xem thêm -