Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn một số kỹ thuật dạy đọc hiểu giúp học sinh phát triển kỹ năng đọc tiếng anh...

Tài liệu Skkn một số kỹ thuật dạy đọc hiểu giúp học sinh phát triển kỹ năng đọc tiếng anh trong trường phổ thông

.DOC
28
191
146

Mô tả:

Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai Trường THPT Tân Phú 1 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI TRƯỜNG THPT TÂN PHÚ Mã số: …………………….. (Do HĐKH Sở GDĐT ghi) SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ KỸ THUẬT DẠY ĐỌC HIỂU GIÚP HỌC SINH PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG ĐỌC TIẾNG ANH TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG Người thực hiện: Đỗ Duy Dương Lĩnh vực nghiên cứu: - Quản lý giáo dục  - Phương pháp dạy học bộ môn: Tiếng Anh - Lĩnh vực khác:   Có đính kèm:  Mô hình  Đĩa CD (DVD)  Phim ảnh  Hiện vật khác Năm học: 2015-2016 Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai 2 Trường THPT Tân Phú “MỘT SỐ KỸ THUẬT DẠY ĐỌC HIỂU GIÚP HỌC SINH PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG ĐỌC TIẾNG ANH TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG” I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Ngày nay, tiếng Anh là ngôn ngữ phổ biến nhất trên thế giới. Với vai trò là một phương tiện hiệu quả trong truyền thông quốc tế, tiếng Anh được sử dụng như ngôn ngữ chính thức trong nhiều lĩnh vực cuộc sống như: kinh tế, chính trị, khoa học, công nghệ, thể thao và nhiều lĩnh vực khác. Điều này dẫn đến một nhu cầu ngày càng tăng trong việc học tiếng Anh. Ngày càng có nhiều người học tiếng Anh và coi đó là thứ ngôn ngữ cần thiết trong công việc và cuộc sống . Ở Việt Nam, tiếng Anh đã được đưa vào chương trình giảng dạy như một môn học bắt buộc, và việc dạy và học ngoại ngữ gần đây đã được nhà nước cũng như ngành Giáo dục và Đào tạo quan tâm đến. Trong quá trình giảng dạy tiếng Anh, giáo viên không chỉ dạy học sinh của mình ngoại ngữ mà còn dạy các em cách sử dụng của ngôn ngữ đó. Và dưới sự hướng dẫn của giáo viên , học sinh phải cố gắng hết sức mình để làm chủ bốn kỹ năng ngôn ngữ: đọc, viết, nghe và nói để có thể giao tiếp bằng tiếng Anh thành thạo. Trong số bốn kỹ năng, kỹ năng đọc đóng một vai trò quan trọng trong việc làm phong phú thêm kiến thức tổng quát của học sinh và giúp học sinh tiếp tục việc học ngôn ngữ sau này. Có thể nói rằng việc dạy kỹ năng đọc cho học sinh ngày càng được chú ý nhiều hơn đến từng khía cạnh của nó. Nhiều học giả và nhà nghiên cứu cho rằng đọc hiểu là kỹ năng quan trọng không chỉ ở trường học mà còn về sau này, đó là giúp học sinh phát triển khả năng ngôn ngữ nói chung và kỹ năng đọc hiểu nói riêng ở trường học, cũng như cung cấp cho các em những hiểu biết khác để tránh thiên vị về văn hóa và ngôn ngữ,..... trong giao tiếp hàng ngày. Nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng đọc, tôi quyết định lựa chọn đề tài: “ Một số kỹ thuật dạy đọc hiểu giúp học sinh phát triển khả năng đọc trong trường phổ thông” Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai Trường THPT Tân Phú 3 II.THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI. * Đối với Giáo viên: Nhìn một cách tổng thể chúng ta có thể thấy rằng khối lượng kiến thức ngôn ngữ trong chương trình sách giáo khoa (SGK) tiếng Anh khá nặng, đặc biệt là ở kĩ năng đọc hiểu. Có thể nói các chủ đề, chủ điểm của các bài học trong SGK khá đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, chính điều đó lại là nguyên nhân gây không ít khó khăn trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy và học sao cho hiệu quả nhất đối với các đối tượng học sinh (HS). Cụ thể: - Có quá nhiều HS trong lớp, vì thế giáo viên rất khó bao quát tất cả các đối tượng HS. - Sự chênh lệch về năng lực giữa các HS. - Có nhiều bài đọc nội dung quá dài nên GV thường phải dạy lướt ở một số phần, không giúp đỡ được HS trong quá trình rèn luyện kĩ năng đọc. - Việc cung cấp và luyện cấu trúc và từ mới cho các bị hạn chế, đặc biệt là HS yếu. - Không có nhiều thời gian để sử dụng những câu hỏi gợi mở, không khai thác được năng lực và khả năng tư duy của HS. * Đối với học sinh: Trong việc đổi mới phương pháp dạy học thì HS đóng vai trò trung tâm của các hoạt động dạy - học trên lớp, chất lượng giờ học phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, tính chủ động, tích cực của các em. Trong quá trình dạy kĩ năng đọc hiểu tôi nhận thấy được một số hạn chế của các em như sau: - Đọc và cố gắng dịch từng từ một. - Chú ý quá nhiều đến những chi tiết nhỏ dẫn đến các em thường bị mất các ý chính. - Khối lượng tích lũy từ vựng ít ỏi nên các em luôn gặp khó khăn trong việc năm bắt ý chính của bài. - Kiến thức nền và sự hiểu biết của các em còn hạn chế do hoàn cảnh khách quan và chủ quan. Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai 4 Trường THPT Tân Phú - Đa số các em còn chưa chủ động, tích cực trong học tập. Ý thức tự học, tự bồi dưỡng , rèn luyện còn thấp. - Học sinh thường không thích các giờ đọc hiểu do có nhiều thời gian trầm hơn các tiết khác. Trong học kỳ vừa qua, tôi đã mạnh dạn thay đổi một số thủ thuật điều chỉnh một số nội dung hạn chế của một số bài đọc hiểu trong SGK cho phù hợp với năng lực và trình độ HS nhằm khai thác những điểm mạnh của sách để rèn luyện cho HS. 1. Mục đích của nghiên cứu. Các mục tiêu cụ thể của nghiên cứu như sau: - Làm rõ bản chất của kỹ năng đọc hiểu theo một số điểm quan trọng trong việc giảng dạy kỹ năng này. - Điều tra hiện trạng dạy và học đọc hiểu của học sinh lớp 11 để tìm ra lợi thế cũng như những khó khăn mà cả giáo viên và học sinh gặp phải . - Đề xuất những kỹ thuật hữu ích để phát triển các kỹ năng đọc hiểu trong phần “while you read” dành cho học sinh lớp 11 ở trường THPT Tân Phú. 2. Phạm vi nghiên cứu. Các kỹ thuật dạy đọc hiểu được sử dụng trong phần “while you read” . Đối tượng nghiên cứu này là học sinh lớp 11 tại THPT Tân Phú năm học 2015-2016. 1. Phương pháp nghiên cứu. Để thực hiện nghiên cứu này, các phương pháp sau đây đã được tôi sử dụng: - Đọc tài liệu liên quan: Để có thêm kiến thức và những ý tưởng hữu ích, tôi đọc rất nhiều sách, tài liệu nghiên cứu trước đó về việc đọc và giảng dạy đọc hiểu . - Dự giờ: Tôi đã dự giờ một số tiết dạy đọc của đồng nghiệp trong trường để tìm ra các phương pháp giảng dạy được áp dụng trong tiết dạy đọc . 4. Ý nghĩa và đóng góp của đề tài: Dựa trên những kết quả thu được, kết hợp với việc tham khảo các nguồn tài liệu, tôi đề xuất một số kỹ thuật hữu ích để dạy phần “while you read”. Tôi hy vọng những kỹ thuật này có thể giúp cho giáo viên dạy bài đọc hiệu quả hơn và học sinh có thể nâng cao kỹ năng đọc của mình . Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai Trường THPT Tân Phú 5 - Khảo sát thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp áp dụng của đề tài . Chất lượng bộ môn tiếng Anh Sau đây là kết quả khảo sát về mức độ đọc hiểu của học sinh lớp 10 trong tiết học hiểu chưa được áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào giảng dạy: Điểm kiểm tra kĩ năng đọc (Reading skill) SĨ LỚP 11 Đầu năm học 2015-2016 SỐ 12 0-2 3-4 5-6 SL % SL % 42 35% 60 50% SL 7-8 % 14 11,7% 9-10 SL % SL % 4 3,3% 0 0% 0 III) NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾN HÀNH CỦA ĐỀ TÀI. 1. Định nghĩa của việc đọc. Thuật ngữ "đọc" được sử dụng rộng rãi trong thực tế. Tuy nhiên, việc đọc được định nghĩa khác nhau tùy theo lĩnh vực, mục đích...... Đó là lý do tại sao không có định nghĩa nào có thể bao quát tất cả các tính năng và quan điểm của việc đọc. Hơn nữa, định nghĩa của mỗi người chỉ phản ánh những gì mà họ cho rằng việc đọc có ý nghĩa với họ. Ở đây, tôi muốn đề cập đến một số định nghĩa về đọc: * Đọc như trò chơi đoán ngôn ngữ tâm lý. Bởi vì nó giả quyết vấn đề ngôn ngữ và tư tưởng tương tác với nhau như thế nào, nhưng nó lại hoạt động trong một bối cảnh xã hội học. * Đọc có liên quan đến giải thích, làm cho ý nghĩa của tất cả các sự kiện diễn ra xung quanh chúng, là một quá trình làm tạo ra ý tưởng tiềm năng cho đọc giả. * Đọc là một quá trình đa cấp trong đó bao gồm các bước sau: • Nhận diện • Đồng hóa • Tích hợp nội Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai 6 Trường THPT Tân Phú • Tích hợp thêm • Duy trì • Nhớ lại • Truyền thông Mặc dù những định nghĩa đọc là thái độ khác nhau để đọc, tất cả dường như có một số đặc điểm chung. Đó là bởi vì tất cả họ đều tập trung vào bản chất của việc đọc. 2. Định nghĩa về đọc hiểu. Trong quá trình giảng dạy bài đọc, giáo viên cần hiểu rõ bản chất của việc đọc hiểu. Những gì giáo viên hiểu về việc đọc sẽ có một ảnh hưởng lớn đến những gì họ dạy trong lớp. Giáo viên sẽ biết mình cần phải làm những gì và làm thế nào cho việc dạy bài đọc của mình một cách hiệu quả. Trong thực tế, các nhà nghiên cứu về phương pháp đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về đọc hiểu. Đọc hiểu hoặc hiểu một văn bản viết có nghĩa là giải nén các thông tin cần thiết từ nó một cách hiệu quả nhất có thể, đọc hiểu là hoạt động nhằm mục đích giải mã ý nghĩa của sự kết hợp từ trong văn bản một cách hiệu quả nhất. Đọc hiểu được mô tả như một sự hiểu biết giữa tác giả và người đọc. Trọng tâm là về sự hiểu biết của đọc giả về bài đọc dựa trên nền tảng kinh nghiệm cá nhân của họ. Đọc không chỉ đơn thuần là phát âm từ một cách chính xác hoặc chỉ đơn giản là những gì mà tác giả dự định. Nó là quá trình mà bài viết kích thích ý tưởng, kinh nghiệm và phản ứng của một cá nhân. Đọc hiểu không chỉ đơn giản là sự hiểu biết những gì được viết, mà còn là yếu tố kích thích học sinh viện nhớ ra từ kinh nghiệm của họ. Kiến thức từ bài đọc sau đó được sử dụng, nhưng trong tâm trí của người đọc trong đó bao gồm không chỉ các sự kiện hoặc chi tiết mà còn là cảm xúc, niềm tin và những đánh giá sâu sắc. Từ những quan điểm trên, có thể kết luận rằng đọc hiểu là một quá trình tìm hiểu những gì được truyền đạt trong văn bản. Đọc không có nghĩa là người đọc cần phải hiểu từng từ trong văn bản mà phải tích cực nghiên cứu văn bản và lấy được các thông tin cần thiết một cách hiệu quả. 3. Tầm quan trọng của đọc. Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai Trường THPT Tân Phú 7 Xuất phát từ một số định nghĩa đọc ở trên, chúng ta thấy rằng đọc là một yếu tố rất quan trọng trong ngôn ngữ. Điều quan trọng là bởi vì nó được coi là một kỹ năng cần thiết cả ở khi còn ngồi trên ghế nhà trường và sau này. Đọc cũng tạo ra cho chúng ta rất nhiều cơ hội để liên hệ với ngữ cảnh khác nhau trong cuộc sống hàng ngày. Ba lý do cho tầm quan trọng của việc đọc như sau: * Đọc cung cấp người học ngôn ngữ những lĩnh vực khác của sự thành công. Chúng ta nên chấp nhận rằng không phải tất cả học sinh sẽ nói tốt và cơ bản nhất là phải tạo cơ hội cho họ trở thành người đọc tốt. * Đọc cung cấp cho học sinh một kỹ năng mà họ có thể sử dụng riêng của họ. * Đọc có thể là một trong những kỹ năng mà hầu hết học sinh sẽ cần trong thời gian dài. Chắc chắn, nó là một trong những gì mà họ sẽ luôn luôn có thể đưa vào sử dụng. Có nghĩa là, họ có thể đọc ngay cả khi họ không có được cơ hội để nói. Nói chung, không ai có thể phủ nhận rằng việc đọc mang lại cho đọc giả một đại dương của kiến thức về các lĩnh vực khác nhau. Họ có thể học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống. Hơn nữa, họ có thể có được những hiểu biết cần thiết để tránh những khó khăn trong sự hiểu biết lẫn nhau trong giao tiếp như: sốc văn hóa, sốc ngôn ngữ do các nền văn hóa, thói quen, và ngôn ngữ khác nhau. Hơn nữa, đọc cũng là một cách quan trọng của việc mở rộng kiến thức tiếp thu của học sinh về ngôn ngữ và kích thích học sinh nói và viết . Tuy nhiên, tất cả các lý do đã nói ở trên cho thấy rằng xét về phương diện hoạt động trong lớp thì việc đọc đối với học sinh là cần thiết, chúng ta không thể khẳng định rằng tất cả học sinh đều là người đọc hiệu quả. Khả năng đọc của học sinh phần lớn phụ thuộc vào họ đã được dạy đọc tiếng mẹ đẻ của họ như thế nào. 4. Các hình thức của việc đọc . Mỗi người có một cách đọc văn bản khác nhau. Phân loại theo cách đọc, có đọc lớn tiếng và đọc thầm. Tùy thuộc vào mục đích của việc đọc, có thể phân loại ra các hình thức như: đọc lướt, đọc quét, đọc chuyên sâu và đọc mở rộng. 4.1. Phân loại theo cách đọc. 4.1.1. Đọc lớn tiếng. Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai 8 Trường THPT Tân Phú Việc đọc lớn tiếng là một hoạt động tự nhiên bởi vì hầu hết mọi người không đọc lớn tiếng trong cuộc sống thực, và người nói sẽ thấy khó khăn khi phải chú ý đến ý nghĩa của văn bản khi đọc lớn tiếng. Việc đọc lớn tiếng liên quan đến việc quan sát một văn bản, hiểu và phát âm ra văn bản đó. Mục đích của việc đọc lớn tiếng không phải là chỉ để hiểu một văn bản mà để truyền đạt ý nghĩa của văn bản cho người khác. Đây là hoạt động phổ biến trong lớp học ngôn ngữ vì nó tập trung vào cách phát âm của từ trong văn bản chứ không phải là sự hiểu biết. Trong khi đọc văn bản, học sinh gặp phải nhiều từ và cụm từ mới mà họ không biết cách phát âm. Trong trường hợp này giáo viên có thể giúp học sinh của mình phát âm từ bằng cách đọc văn bản bằng cách đọc to đoạn văn. Việc đọc lớn tiếng thường được áp dụng cho người mới học ngôn ngữ và ít được sử dụng cho đối tượng học sinh ở trình độ cao hơn vì một số lý do. Thứ nhất, vì học sinh thường đọc chậm do phải tập trung vào phát âm nên việc đọc lớn tiếng chiếm một lượng thời gian dài. Vì vậy, học sinh không có đủ thời gian để hiểu được ý nghĩa của văn bản hoặc làm các bài tập đọc hiểu. Thứ hai, bởi vì học sinh chỉ quan tâm đến việc phát âm, nên các em khó có thể hiểu được ý nghĩa của văn bản. Yêu cầu một học sinh đọc lớn tiếng cũng có nghĩa là học sinh đó có thể quan tâm đến ý nghĩa của bài đọc. Học sinh đó có thể đọc một cách chính xác nhưng sau đó sẽ không thể hiểu được những gì đã đọc. Đó là lý do tại sao, chỉ trong giai đoạn đầu của việc học ngoại ngữ, đọc lớn tiếng là một phần thiết yếu của một bài học để giúp người mới học đọc từ, cụm từ đúng với trọng âm và ngữ điệu trong câu. 4.1.2 Đọc thầm. Đọc thầm là phương pháp gần nhất với bản chất của việc đọc. Bởi vì chỉ bằng cách đọc âm thầm mà người ta có thể đọc và hiểu các tài liệu bằng văn bản trong thời gian ngắn nhất, bản chất của kỹ năng đọc thầm là không giống nhau về hình thức. Nó có thể được thay đổi theo mục đích, có thể liệt kê như sau: • Khảo sát các tài liệu mà là để được nghiên cứu, xem xét thông qua các chỉ số, tiêu đề và phác thảo chương. • Xem lướt để tìm thông tin cần thiết. Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai Trường THPT Tân Phú 9 • Đọc để giải trí hoặc chuẩn bị để đọc lớn tiếng. • Nghiên cứu nội dung trong một số chi tiết. • Nghiên cứu ngôn ngữ mà các tài liệu được viết. Thông qua các cách đọc này, việc hiểu sâu và chi tiết về văn bản của người đọc sẽ được cải thiện một cách hiệu quả. 4.2. Theo mục đích của việc đọc. 4.2.1 Đọc lướt. * Đọc lướt thường được sử dụng trong việc đọc hiểu. Đây là một trong những kỹ thuật đọc cần thiết cho việc đọc nhanh và hiệu quả. Người đọc, đọc qua một đoạn báo cụ thể nào đó chỉ đơn thuần là để có được các ý chính. * Đọc lướt là xem nhanh chóng toàn bộ văn bản để lấy ý chính. Đọc lướt giúp cho đọc giả có thể đoán được mục đích, chủ đề chính, hoặc có thể một số ý tưởng của đoạn văn. Xem xét hai ý trên, ta có thể kết luận rằng đọc lướt là một kỹ năng cho phép đọc giả hiểu được những điểm chính của văn bản mà không quan tâm tới chi tiết. Người đọc chỉ cần lướt qua các văn bản rất nhanh chóng để có thể đưa ra nhận định chung hoặc các ý chính của trong văn bản. Tóm lại, đọc lướt là một kỹ thuật nghiên cứu rất hữu ích để giúp người học tổng hợp tư duy của mình và xác định những thông tin họ đọc được từ một cuốn sách, do vậy mà việc đọc sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Do đó, đọc lướt nên được áp dụng trong việc dạy đọc để giúp học sinh có cái nhìn tổng quan về những gì mà các em đọc. 4.2.2 Đọc quét. Tương tự như đọc lướt, đọc quét là một kỹ thuật cần thiết trong việc đọc hiểu, đọc quét là nhanh chóng tìm kiếm một phần thông tin cụ thể trong một văn bản, việc đọc quét diễn ra khi người đọc xem lướt một văn bản nhanh chóng để tìm một thông tin cụ thể. Điều này thể hiện chìa khóa của việc đọc quét là quyết định chính xác loại thông tin cần tìm kiếm và chỗ nào để tìm thấy thông tin đó. Trong khi đọc quét không cần phải đọc văn bản từ đầu đến cuối, mà chỉ tìm kiếm thông tin cần thiết bằng cách đọc lướt qua các dòng trong văn bản. Việc đọc quét có thể Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai Trường THPT Tân Phú 10 được thực hiện trong các văn bản có phạm vi lớn như từ điển, bản đồ, quảng cáo, ...... Đây là hình thức đọc hữu ích trong việc đọc có chọn lọc. Nói chung, cả đọc lướt và đọc quét là những kỹ thuật có thể áp dụng cho việc đọc nhanh và hiệu quả. Cả hai hình thức này cần được khai thác và sử dụng để phát triển khả năng đọc hiểu cho học sinh. 4.2.3 Đọc chuyên sâu. Đọc chuyên sâu cũng là hình thức được sử dụng rộng rãi trong giờ dạy đọc. Đây là một cách hiệu quả để khám phá, đi sâu vào ý nghĩa và cấu trúc của văn bản. Đọc chuyên sâu có nghĩa là đọc văn bản ngắn để trích xuất thông tin cụ thể. Đây chính là hoạt động liên quan đến việc đọc để nắm bắt được chi tiết của văn bản. Ngoài ra đọc chuyên sâu liên quan đến việc tiếp cận các văn bản dưới sự hướng dẫn của giáo viên ... , hoặc theo hướng dẫn của một nhiệm vụ mà bắt buộc học sinh phải quan tâm đến đoạn bài đọc. Mục đích của việc đọc chuyên sâu là để đi đến một sự hiểu biết sâu sắc và chi tiết về văn bản. Tóm lại, đọc chuyên sâu là một hoạt động cơ bản trong lớp học. Sẽ thực sự là hiệu quả nếu giáo viên và học sinh của mình biết làm thế nào để khai thác triệt để các hoạt động này trong lớp học với sự giúp đỡ của các bài tập đọc hiểu. 4.2.4 Đọc mở rộng. Đọc mở rộng hay còn được gọi là "đọc trôi chảy". Học sinh đọc những văn bản dài để hiểu một cách khái quát, để phát triển sự trôi chảy trong việc đọc hoặc để thư giãn, bên cạnh việc thực hành đọc trôi chảy, đọc mở rộng làm phong phú thêm các yếu tố ngôn ngữ của học sinh, đây là một trong những chìa khóa để đạt được khả năng đọc sách, năng lực ngôn ngữ, từ vựng, chính tả và kỹ năng viết. Nhìn chung, đọc mở rộng là một trong những cách tốt nhất để cải thiện kiến thức về một ngôn ngữ nước ngoài vì mục đích của nó là để bao quát nội dung của văn bản trong thời gian ngắn nhất có thể. Trong lớp học ngôn ngữ, giáo viên phải giới thiệu một số tài liệu đọc phù hợp với học sinh, vì những tài liệu này rất hữu ích cho học để tạo lập một thói quen tốt trong việc đọc. 5. Mối quan hệ giữa kỹ năng đọc và các kỹ năng khác. Trong quá trình dạy và học tiếng Anh, việc người học nhận ra sự thống nhất của ngôn ngữ là rất quan trọng. Vì vậy, kỹ năng đọc liên quan chặt chẽ với kỹ năng Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai 11 Trường THPT Tân Phú viết, kỹ năng nghe và nói. Sự hiểu biết các mối quan hệ sẽ giúp học sinh thành công trong việc học ngôn ngữ, kỹ năng đọc không phải là một kỹ năng duy nhất mà là một kỹ năng tích hợp ngôn ngữ. Thứ nhất, đọc có liên quan đến văn bản. Đó là khi học sinh được yêu cầu tóm tắt hoặc đọc các tài liệu như sơ yếu lý lịch, kết thúc của một câu chuyện, mô tả ngắn về các nhân vật, ..... Thứ hai là, đọc có liên quan với nghe hiểu. Học sinh có thể nghe một câu chuyện, một vở kịch ... ". Thứ ba là, sự thống nhất giữa đọc và nói. Đọc tài liệu được xem như là một nguồn cơ bản cho bài một bài thuyết trình khi người đọc có thể dựa vào những ý tưởng mà họ đã đọc để thảo luận hay tranh luận cho các mục đích riêng của họ. Đây là cách tốt nhất để họ có thể chia sẻ những gì họ đã được đọc với những người khác . Tóm lại, việc kết hợp giữa các kỹ năng đọc, viết, nghe và nói nên được đưa vào xem xét nghiêm túc khi dạy và học tiếng Anh. MỘT SỐ KỸ THUẬT SỬ DỤNG TRONG “WHILE YOU READ” NHẰM PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH Trong chương trình SGK dành cho bậc THPT phần “While you read” được coi là phần chính của một bài học đọc. Phần này thường chiếm hầu hết thời gian trong một tiết học, và chiếm phần lớn trong việc cải thiện kỹ năng đọc hiểu của học sinh. Học sinh phải chủ động và thực hành càng nhiều càng tốt. Để giúp học sinh hiểu các bài đọc và đồng thời phát triển kỹ năng đọc, giáo viên phải đóng vai trò như một người hướng dẫn. Giáo viên cần nêu mục đích của phần “While you read” cho học sinh của mình (ví dụ: đọc lấy thông tin chung, đọc lấy thông tin cụ thể, và đọc để hiểu biết và suy luận) với các hướng dẫn rõ ràng cho từng loại hoạt động theo từng mục đích. Căn cứ vào bản chất của việc dạy và học kỹ năng đọc cùng với những điều mà tôi thu thập được qua các nguồn tài liệu tham khảo, tôi xin trình bày một số kỹ thuật hữu ích để giúp học sinh tiếp thu bài đọc tốt hơn trong phần “While you read”. I. Đọc lấy thông tin chung. 1. Kỹ thuật đọc lướt. Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai 12 Trường THPT Tân Phú Sau khi giảng dạy từ mới hoặc giới thiệu các đoạn văn, giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm các đoạn văn một lần. Hoạt động này giúp học sinh có được hiểu biết tổng thể về bài đọc, xác định được ý chính trước khi đi vào các chi tiết của đoạn văn. Trong khi đọc lướt các đoạn văn, học sinh không cần phải chú ý đến từng chữ trong văn bản mà xem qua đoạn văn, đọc một vài câu quan trọng và nhận ra các từ hoặc cụm từ đầu mối. Giáo viên nên khuyến khích học sinh chú ý đến các tiêu đề, đoạn mở đầu, đoạn cuối cùng cũng như các câu chủ đề của mỗi đoạn văn mà thường truyền tải những ý chính của văn bản. Để cho hoạt động này có hiệu quả và có thể nắm bắt được liệu học sinh có thực sự hiểu được bài, giáo viên nên khuyến khích học sinh tham gia vào một số hoạt động trong khi các em đang đọc lướt. 1.1. Một số loại câu hỏi được sử dụng. 1.1.1. Câu hỏi thông tin. Trong khi học sinh đang đọc, giáo viên đưa ra một số câu hỏi nhằm giúp các em định hướng mình được yêu cầu đọc cái gì. Các câu hỏi thông tin được sử dụng trong khi học sinh đang đọc lướt hướng các em tới việc nắm được ý khái quát của bài đọc. Giáo viên có thể sử dụng các câu hỏi trong SGK, thay đổi hoặc thay thế những câu không phù hợp, hoặc có thể thiết kế thêm một số câu hỏi. Nên sử dụng câu hỏi “Wh” để thu hút sự chú ý của học sinh đến toàn bộ đoạn văn. Nếu là câu hỏi Yes/No , giáo viên phải yêu cầu học sinh giải thích câu trả lời của mình. Ví dụ, trong Unit 4: “Volunteer work ” (English 11: 46), học sinh sẽ phải trả lời các câu hỏi sau khi đọc lướt đoạn văn: 1. What is the main idea of this passage? 1. What do young volunteers work in the homes of sick or old people? 2. Is there a voluntary organization called Big Brothers? 1.1.2. Câu hỏi trắc nghiệm. Đây là một trong những loại câu hỏi phổ biến nhất trong các bài tập đọc hiểu. Loại câu hỏi này có thể tập trung được vào toàn bộ đoạn văn và cho phép học sinh hiểu được đoạn văn qua những đầu mối mà các em tìm được. Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai Trường THPT Tân Phú 13 Ví dụ, trong bài đọc “Friendship” (English 11: 13), học sinh sẽ phải trả lời các câu hỏi sau: Which of the choices A, B, C or D most adequately sums up the ideas of the whole passage? A. A friend in need is a friend indeed B. Conditions of true friendship. C. Features of a good friend. D. Friends and acquaintances. Khi làm bài tập trắc nghiệm, học sinh cần phải hiểu được nguồn gốc của các đáp án đưa ra cũng như các các lựa chọn. Giáo viên cần phải giúp đỡ học sinh khi thấy các em gặp khó khăn trong việc tìm ra đáp án. 1.1.3. Câu hỏi True / False. Câu hỏi True / False có thể được sử dụng để hút sự chú ý của học sinh đến những ý chính của đoạn văn. Các em được cung cấp một số thông tin về đoạn văn phải quyết định xem những thông tin đó là đúng hay sai theo những gì mà các em đọc. Có một số khả năng của loại câu hỏi. Trong tất cả các thông tin được cung cấp, một số trong số đó là thông tin đúng, một số khác là thông tin sai, và một số thông tin không được đề cập trong đoạn văn. Học sinh phải viết đúng (T) hoặc sai (F) hoặc không có thông tin (NG) bên cạnh mỗi câu theo những gì mà các em tiếp nhận được từ các đoạn văn. Ví dụ: Trong đoạn bài đọc “Celebrations” (English 11: 90), Học sinh quyết định các thông tin đúng (T) hoặc sai (F) hoặc không có thông tin (NG) sau khi đọc đoạn văn. Decide whether the statements are true (T), (F) or (NG) 1. Tet is always on 20th February on the Western calendar. 2. According to the text, for people anywhere in the world the beginning of spring is the start of a new year. 3. Tet used to be longer than it is nowadays. 4. According to the text, “lucky money” is given to everyone at Tet. 5. Kimquat trees are popular both in the North and in the South of Vietnam. Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai Trường THPT Tân Phú 14 6. People try to be nice and polite to each other because they want to have good luck on New Year’s Day. Khi yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi nhiều lựa chọn và câu hỏi False/True, giáo viên cần phải nhận thức rằng học sinh có thể đoán câu trả lời chứ không phải căn cứ vào đoạn văn. Để khai thác có hiệu quả đoạn văn, việc yêu cầu học sinh thảo luận câu trả lời theo cặp hoặc theo nhóm, và đưa ra lý do cho sự lựa chọn của mình là cần thiết. 1.1.4 Tìm câu chủ đề Một trong những hoạt động hữu ích giúp học sinh hiểu được những ý chính của đoạn văn là tìm câu chủ đề cho mỗi đoạn văn trong bài đọc. Đó thường là các câu ở đầu mỗi đoạn. Ví dụ như, trong bài đọc “Hobbies” (English 11: 146), giáo viên có thể yêu cầu học sinh đọc lướt các đoạn văn bản và gạch chân câu chủ đề trong mỗi đoạn. Paragraph 2: The hobby I like most is playing my guitar. My uncle, who is an accomplished guitarist, taught me how to play. Now I can play a few simple tunes. I have even begun to sing while playing the guitar, but I have not been very successful at this. My uncle tells me that all I need is to practise regularly and I should be able to do it. He is very good at accompanying people singing with his guitar and I admire him very much. Paragraph 3: Another hobby of mine is keeping fish. I have a modest little glass fish tank where I keep a variety of little fish. Some of them were bought from the shop while some others were collected from the rice field near my house. They look so beautiful swimming about in the tank. I love watching them and my mother loves watching them, too. 1.1.5. Ghép tiêu đề phù hợp với đoạn bài đọc Trong hoạt động này, học sinh được cung cấp một danh sách các tiêu đề tóm tắt của mỗi đoạn văn trong bài đọc. Nhiệm vụ của các em là xem lướt vào toàn bộ các đoạn trong bài đọc và chọn tiêu đề tương ứng. Khi các em có thể tìm ra tiêu đề thích hợp cho mỗi đoạn, các em có thể hiểu tất cả các ý chính được truyền đạt trong văn bản một cách hiệu quả. Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai Trường THPT Tân Phú 15 Ví dụ, trong đoạn bài đọc “Space conquest” (English 11: 166), học sinh được yêu cầu đọc bài đọc và nối ú chính của mỗi đoạn cho phù hợp. Paragraph 1 A. The tragic accident Paragraph 2 B. The lift- off Paragraph 3 C. Congratulations Paragraph 4 D. A view on Earth Paragraph 5 E. Uncertainties Đây không phải là một bài tập đọc lướt bởi vì học sinh đôi khi cần phải đọc các đoạn văn một cách cẩn thận để lựa chọn một tiêu đề thích hợp. Tuy nhiên, học sinh nên được khuyến khích làm bài tập này càng nhanh càng tốt để đánh giá xem các em có hiểu được ý chính của bài đọc hay không. Với dạng bài tập này giáo viên nên cung cấp nhiều tiêu đề hơn để học sinh phải đọc kỹ hơn để tìm ra các tiêu đề chính xác cho từng đoạn. 1.1.6. Tìm chủ đề của đoạn bài đọc. Việc tìm chủ đề của đoạn bài đọc là dạng bài tập khó. Thay vì tìm kiếm các câu chủ đề và gạch chân hoặc nhìn vào một danh mục các tiêu đề và ghép với đoạn phù hợp, học sinh viên phải đọc toàn bộ bài đọc và tìm ra các chủ đề cho thấy trong mỗi đoạn. Ví dụ, trong bài đọc “Nature in danger” (English 11: 115), giáo viên có thể yêu cầu học sinh đọc lướt qua các bài đọc và viết ra một câu chủ đề của mỗi đoạn. Paragraph 1:....................................... Paragraph 2:....................................... Paragraph 3:....................................... Paragraph 4:....................................... 1.1.7. Hoàn thành bản tóm tắt bài đọc. Hoạt động này hướng học sinh vào việc hiểu biết những ý chính của văn một cách đầy đủ. Nhiệm vụ của học sinh là đọc bài đọc và sử dụng thông tin tìm được để hoàn thành việc tóm tắt bằng cách điền vào chỗ trống một từ hoặc cụm từ phù hợp. Giáo viên có thể cung cấp cho họ một danh sách các từ để lựa chọn. Ví dụ, giáo viên yêu cầu học sinh điền vào mỗi chỗ trống với một từ thích hợp từ danh sách sau khi đọc đoạn văn “World population” (English 11: 80) Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai 16 Trường THPT Tân Phú 1. Does the Earth have enough......... to support this many people? 2. Others say that we must ......... population growth because our resources are limited. 3. Research has shown that the ......... Third World woman has more children than she wants. 4. Safe ......... control methods for family planning are not available to them. Giáo viên cần phải lưu ý cho học sinh khi làm dạng bài tập cần phải căn cứ vào các bài đọc và tập trung vào thông tin chung của bài đọc, do đó học sinh có thể sử dụng tất cả những gì các em đọc được. Nói chung, kỹ năng đọc lướt là một kỹ thuật quan trọng trong đọc hiểu giúp học sinh hiểu được toàn bộ bài đọc. Tùy thuộc vào các bài đọc, điều kiện dạy và học hay trình độ ngôn ngữ của học sinh, mà giáo viên có thể yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi thông tin, câu hỏi trắc nghiệm hoặc câu hỏi True / False, tìm câu chủ đề, ghép câu chủ đề với đoạn bài đọc... 3.2 Đọc thông tin cụ thể. 3.2.1 Kỹ thuật: quét Sau khi các học sinh cạnh tranh một số bài tập tập trung vào những điểm chính hoặc hiểu biết chung về các văn bản, các em đọc văn bản một lần nữa và tìm kiếm hoặc xác định vị trí một số phần cụ thể của thông tin trong văn bản. Giáo viên cần nhắc nhở học sinh của mình khi họ đang cố gắng xác định vị trí thông tin đặc biệt cần thiết, học sinh không cần phải đọc toàn bộ văn bản một cách cẩn thận nhưng chú ý hơn đến đoạn mà trong đó thông tin mà học sinh cần là khả năng được nhúng. Đó là khuyến khích để hạn chế thời gian quét vì điều này có thể tiết kiệm thời gian và làm cho các học sinh cố gắng hết sức mình để phát triển các kỹ năng quét. II. Đọc thông lấy thông tin cụ thể. 1. Kỹ thuật đọc quét Sau khi học sinh hoàn thành các bài tập lấy ý chính hoặc hiểu biết chung về bài đọc, các em sẽ phải đọc bài đọc một lần nữa và tìm kiếm hoặc xác định vị trí một số thông tin cụ thể của trong văn bản. Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai Trường THPT Tân Phú 17 Giáo viên nên chú ý cho học sinh khi tìm cần thiết thông tin trong bài đọc, các em không cần phải đọc toàn bộ văn bản một cách kỹ lưỡng mà phải chú ý đến đoạn bài đọc mà trong đó có thông tin cần tìm. Việc này giúp các em đỡ mất thời gian và làm phát triển kỹ năng đọc của các em. 1.1. Một số loại câu hỏi được sử dụng. 1.1.1. Câu hỏi thông tin. Câu hỏi thông tin được sử dụng để hướng học sinh vào các thông tin cụ thể của bài đọc. Ví dụ, trong bài đọc “World Population”, giáo viên yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi 1. What was the population of the world in 10,000 B.C., 1750, 1850, 1950, 1985, and 2000? 2. How many people is the world expected to have by the year 2015? 3. Can the Earth have enough resources to support its population? 4. Do most Third World women want to have a lot of children? 5. Why can’t women in the world limit the size of their families? 1.1.2. Câu hỏi trắc nghiệm. Dạng câu hỏi này được sử dụng để hướng học sinh tới một từ hoặc một thông tin cụ thể trong bài đọc. Ví dụ, trong bài đọc “Volunteer work”, Volunteers usually help those who are sick or old in their homes by.......... A. mowing the lawns, doing shopping and cleaning up their houses B. cooking, sewing or washing their clothes C. telling them stories, and singing and dancing for them D. taking to the baseball games 1. Big Brothers is .......... A. the name of the club B. a home for children C. the name of a film D. on organization for boys who no longer have fathers. Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai Trường THPT Tân Phú 18 1. Most of the boys’ and girls’ club use many high school and college students as volunteers because they.......... A. have a lot of free time B. can understand the problems of younger boys and girls C. know how to do the work D. are good at playing games 2. Volunteers believe that .......... A. in order to make others happy, they have to be unhappy B. the happiest people are those who make themselves happy C. the happiest people are those who are young and healthy D. bringing happiest to others makes them the happiest people. 1.1.3 Câu hỏi T/F. Tương tự như bài đọc để tìm ra ý chính, các câu hỏi dạng T/F nên được đưa ra khi yêu cầu học sinh đọc quét đoạn văn. Ví dụ, trong bài đọc “A party” 1. Lisa’s family and friends are at her eighth birthday party. 2. Everyone makes cake and ice cream at the birthday party. 3. Lisa opens birthday cards and food from her family and friends. 4. Many Americans over the age of 30 don not like to talk about their anniversaries. 5. Fifty months ago, Rosa and Luis got married. 6. People call the 5th wedding anniversary the “golden anniversary” 7. Rosa and Luis are happy to be together for their silver anniversary. 1.1.4. Điền vào chỗ trống The teacher uses this kind of activity to focus his students on specific information in the text. The students have to use information in the text to fill in the provided blanks by inserting a single word or a group of words. Dạng bài tập này nhằm giúp học sinh chú ý đến những thông tin cụ thể trong bài đọc. Kỹ thuật đọc quét thường được áp dụng khi làm bài tập này. Ví dụ, trong bài đọc “Sources of energy” (English 11: 124) One environment Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương alternative limited Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai Unlimited 19 sources energy Trường THPT Tân Phú fuels We need energy to live and work. Our major source of (1)........ is oil. Oil is (2)........ kind of fossil fuel. The amount of fossil (3)........ in the world is (4)........ Therefore, we must save it, and at the same time, we must find new sources of energy. Geothermal heat and nuclear power are (5)........ sources of energy. They can give us electricity. Other alternative (6)........ are the sun, waves and water. These sources are not only (7)........ and available but also clean and safe for the (8)........ People should develop and use them more and more in the future. 1.1.5 Hoàn thành thông tin trong bảng. Ví dụ, trong bài đọc “The Asian Games” (English 11:136), học sinh được yêu cầu đọc nhanh bài đọc và hoàn thành thông tin trong bảng. Year (1)............ 1954 (3) ............ 1998 (5) ............ Events The 1 Asian Games began in New Delhi, India. Boxing, shooting and wrestling were added at st (2) ............ Tennis, volleyball, table tennis and hockey were added at the 3rd Asian Games held in Tokyo, Japan. (4) ............ were introduced at the 13 th Asian Games in Bangkok, Thailand. The 14th Asian Games were held in Busan, Korean. Tóm lại, kỹ thuật đọc quét giúp học sinh khai thác thông tin của bài đọc trong một khoảng thời gian ngắn. Để học sinh có thể thực hiện được kỹ thuật này, giáo viên cần hướng học sinh thực hiện các hoạt động nêu trên và khống chế thời gian thực hiện hoạt động. III. Đọc để hiểu kỹ hơn bài đọc. Đây là hình thức đọc để hiểu biết chi tiết về bài đọc, giáo viên có thể yêu cầu học sinh chú ý đến cách tổ chức của bài đọc. Có thể áp dụng việc đọc lướt hoặc đọc để hiểu biết chung cho dạng thức bài tập của hình thức này. Nếu học sinh nắm bắt được phương pháp sử dụng trình bày thông tin của bài đọc, các em có thể áp dụng chiến lược đọc của mình để khai thác các bài đọc và dự đoán những gì diễn ra tiếp theo. Hơn nữa, xem xét cẩn thận cách tổ chức bài giúp các em có thể hiểu được mối quan hệ giữa các ý tưởng hoặc cảm nhận được mối quan hệ trong Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai Trường THPT Tân Phú 20 một nhóm câu lại nhau. Điều này cho phép các em đoán được ý tưởng của bài đọc và cảm nhận được suy nghĩ của người viết. 1. Kỹ thuật nhận dạng mối quan hệ giữa các câu. Để hiểu rõ tổ chức của văn bản, học sinh cần phải chú ý đến mối quan hệ giữa các câu. Trong trường hợp này, giáo viên cần giúp học sinh xác định các loại hình tổ chức của đoạn văn. Có một số hình thức bài đọc phổ biến mà giáo viên cần hướng dẫn học sinh của mình nhận ra. Đoạn văn trong một bài đọc thông thường được tổ chức bởi các ý chính và ý bổ sung . 1.1. Dạng bài đọc theo ý chính và ý bổ sung. Đây là dạng bài đọc phổ biến. Người viết đưa ra ý chính cho cả bài hoặc ở mỗi đoạn, sau đó phát triển đoạn bài đọc từ ý chính. Ví dụ, trong bài đọc “Hobbies” (English 11: 146) “I keep stamps, too. However, I would not call myself an avid stamp collector. Actually, I just collect the stamps from discarded envelopes that my relatives and friends give me. Mostly, I get local stamps. Once in a while, I get stamps from places like Russian, the USA, Britain, Australia, China and others. I keep the less common ones inside a small album. The common ones I usually give away to others or if no one wants them I simply throw them away.” In the above paragraph, the writer stated the main idea first i.e. “I keep stamps” 1.2. Dạng bài đọc theo trình tự thời gian. Bài đọc được viết theo trình tự thời gian mà các sự kiện diễn ra là dạng bài đọc dễ cho học sinh có thể theo dõi. Ví dụ, bìa đọc: “World Population” (English 11:81).Giáo viên yêu cầu học sinh liệt kê thời gian, con số về dân số của thế giới theo mốc thời gian. “The population of the world has been increasing faster and faster. In 10,000 B.C there were probably only 10 million people. In A.D. 1, there were 300 million. It took, 1,750 years for the world population to reach 625 million. In 1850, only one hundred years later, the population reached the figure of 1,300 million. In 1950, the figure had more than doubled to reach 2,510 million. In 1985, only 35 Giáo viên thực hiện: Đỗ Duy Dương Tổ Ngoại ngữ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng