SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KĨ NĂNG ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG SOẠN BÀI GIẢNG
A. Phần mở đầu
Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, việc vận dụng công nghệ
thông tin vào các lĩnh vực trong đời sống không còn xa lạ nữa. Ngành giáo dục
nói chung và giáo dục mầm non nói riêng cũng đã từng bước tiếp cận với công
nghệ hiện đại. Trong quyết định số 81/2001/Q- TTg Thủ tướng chính phủ đã
giao nhiệm vụ trọng tâm cho ngành giáo dục là đào tạo nguồn nhân lực công
nghệ thông tin và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giáo
dục và đào tạo.
“Một hình ảnh, một đoạn phim có thể thay thế cho rất nhiều lời giảng”.
Quả đúng như vậy, vai trò của công nghệ thông tin không nhỏ. Công nghệ
thông tin phát triển đã mở ra những hướng đi mới cho ngành giáo dục trong
việc đổi mới hình thức và phương pháp dạy học. Công nghệ thông tin phát triển
mạnh kéo theo sự phát triển của rất nhiều phần mềm giáo dục. Trong đó có
những phần mềm rất hữu ích cho giáo viên mầm non như phần mềm dinh
dưỡng Nutrikis, phần mềm Kismas, phần mềm Photoshop, Flash, Conventer.
Các phần mềm này đã trở thành công cụ đắc lực hỗ trợ cho việc thiết kế giáo án
điện tử và giảng dạy trên máy tính, máy chiếu cũng như trên các thiết bị hỗ trợ
khác (ti vi, đầu đĩa,). Hiệu quả cho thấy rõ nhất khi ứng dụng công nghệ thông
tin là tiết kiệm được thời gian và chi phí đồng thời nâng cao được tính sinh
động, hấp dẫn, phong phú, thẩm mỹ.
Chúng ta đã bước sang thế kỷ 21, thế kỷ nền văn minh trí tuệ, của nền
khoa học hiện đại. Do vậy con người cần phải năng động sáng tạo để phù hợp
với sự phát triển của thời đại. Giáo dục mầm non đã góp phần rất lớn vào việc
giáo dục thế hệ trẻ. Trách nhiệm nặng nề và cao cả ấy thuộc về cô giáo mầm
non tạo nên nền tảng vững chắc, là chặng đường khôn lớn của trẻ. Chính vì
vậy, sự nhảy cảm và có trách nhiệm cao là yêu cầu không thể thiếu trong công
tác chăm sóc giáo dục trẻ, cô giáo phải rất linh hoạt nhạy bén kịp thời, có
năng lực và có tính chủ động sáng tạo.
B. Nội dung
CHƯƠNG i: Cơ sở khoa học
1.1 Cơ sở lý luận
Điều đầu tiên ta nhận thấy việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng
dạy trong ngành mầm non hoàn toàn có ích và mang lại không ít những hiệu
quả thiết thực trong việc phát triển tư duy, kỹ năng sống và nhiều mặt khác ở
trẻ mầm non. Một giáo án tích hợp công nghệ thông tin (sử dụng máy chiếu,
các chương trình hỗ trợ như power point...) có thể cho trẻ có cái nhìn trực quan,
sinh động hơn về bài học. Nó không những giúp cho các hoạt động dạy học trở
nên lôi cuốn hơn mà còn hạn chế việc giáo viên bị cháy giáo án vì thời gian đã
được kiểm soát bằng máy. Nếu như trong các hoạt động thông thường giáo
viên phải dành khá nhiều thời gian để treo tranh ảnh thì trong hoạt động có ứng
dụng công nghệ thông tin chỉ cần một cái nhấp chuột thôi là được.
Để ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy một cách có hiệu quả
thì đòi hỏi phải tuân thủ những quy tắc nhất định, những kiến thức kỹ năng cơ
bản về tin học. Cách sắp xếp các slide, cách lập dàn ý cho bài giảng, lựa chọn
đề tài sao cho phù hợp với nội dung bài học để thuận tiện trong việc sử dụng và
trẻ lại hứng thú tham gia.
Tuy nhiên, trong thực tiễn tại trường cho thấy, mặc dù trường cũng đã
chú ý quan tâm đến phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy
nhưng nhiều giáo viên vẫn chưa phát huy hết vai trò của nó, kỹ năng soạn bài
theo chương trình power point vẫn còn nhiều hạn chế.
2.1. Cơ sở thực tiễn:
Hiện nay, hầu hết các trường mầm non nói chung và các trường mầm
non Lệ Thủy nói riêng đều có điều kiện về trang thiết bị Tivi, đầu video, máy
vi tính có nối mạng internet. Một số trường có máy chiếu đa năng tạo điều kiện
cho giáo viên mầm non có thể ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.
Riêng tại trường mầm non Kim Thủy, năm học 2010-2011 tôi được
trường phân công dạy lớp mẫu giáo lớn với tổng số cháu là 14. Hầu hết các
cháu chưa có ý thức ham học, không chịu đến lớp. Đa số trẻ không tích cực
tham gia vào các hoạt động, khả năng chú ý của trẻ chưa cao. Những hình thức
cho trẻ hoạt động như: quan sát tranh vẽ, các hình ảnh tĩnh, học qua thẻ chữ cái,
cô hát cho trẻ nghe dường như quá quen thuộc đối với trẻ phần nào gây sự
nhàm chán, sao nhãng. Trong lúc đó ở lớp tôi, được sự quan tâm của Ban giám
hiệu Nhà trường, Phòng giáo dục, tổ chức Plan đã trang bị cho lớp tôi các thiết
bị hỗ trợ dạy học (máy vi tính, bộ loa máy). Đặc biệt, bước sang học kỳ II được
bổ sung thêm bộ máy chiếu đa năng.
Với tình hình thực tế như vậy và bản thân cũng có một số kiến thức, kỹ
năng cơ bản về tin học nên đã mạnh dạn thực hiện một số biện pháp nâng cao
kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong soạn bài giảng nhằm kích thích,
gây hứng thú cho trẻ trong các hoạt động.
1. Thuận lợi:
- Bộ giáo dục và đào tạo đã triển khai cuộc vận động “ứng dụng công
nghệ thông tin trong giảng dạy” từ năm học 2008 - 2009 đến nay.
- Sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu Nhà trường, lãnh đạo
Phòng giáo dục, Sở giáo dục và tổ chức Plan.
- Bản thân được học về tin học.
- Bản thân nhiều năm liền phụ trách lớp mẫu giáo lớn, là thành viên Hội
đồng thanh tra, Hội đồng chuyên môn của Phòng giáo dục, tham gia tích cực
vào các đợt sinh hoạt chuyên môn do Sở giáo dục, Phòng giáo dục, Cụm, Nhà
trường tổ chức nên đúc rút được nhiều kinh nghiệm.
- Có tinh thần học hỏi, tìm tòi khám phá về tin học nhất là những gì liên
quan đến trẻ mầm non.
- Gia đình có máy vi tính kết nối mạng nên thuận tiện trong việc tìm tòi
về tư liệu dạy học.
- Lớp học có đầy đủ các thiêt bị hỗ trợ dạy học như máy tính, tivi, loa,
đầu đĩa và bộ máy chiếu đa năng của trường.
2. Khó khăn
- Những trẻ dân tộc thiểu số bất đồng ngôn ngữ nên ít chú ý tham gia
hoạt động.
- Một số trẻ chưa qua lớp mẫu giáo nhỡ, mẫu giáo bé nên chưa có nề
nếp.
- Bản có nhiều khe suối, mưa to nước lớn, lũ quét nên trẻ nghỉ học nhiều
gây gián đoạn chương trình học.
- Trẻ dân tộc thiểu số nhà ở xa nên hay nghỉ nhiều.
- Phụ huynh trẻ chưa quan tâm đến việc học của con em mình.
- Cơ sở vật chất (đồ dùng đồ chơi) vẫn còn nhiều thiếu thốn.
- Diện tích lớp chưa đủ rộng để bố trí máy tính phù hợp.
- Một số tình huống bật lợi có thể xảy ra như mất điện, máy bị treo, viuts
làm cho giáo viên bị động trong tiến trình bài giảng.
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học ở
giáo dục mầm non còn đang ở giai đoạn đầu nên vẫn còn được nghiên cứu,
đánh giá và rút kinh nghiệm vì vậy vẫn chưa phát huy được hiệu quả tối đa của
nó.
- Việc đánh giá một tiết dạy có ứng dụng công nghệ thông tin còn lúng
túng, chưa có sự phân biệt rõ ràng với các tiết dạy không ứng dụng công nghệ
thông tin.
- Việc kết nối và sử dụng khai thác tiện ích của công nghệ mạng máy
tính và mạng internet chưa được nhà trường thực hiện một cách triệt để và có
chiều sâu.
3. Điều tra thực tiễn:
Vào đầu năm học, tôi chủ động khảo sát đánh giá trẻ về một số khả
năng tập trung, chú ý, khả năng ghi nhớ, sự hứng thú tham gia tích cực trong
các hoạt động. Nhìn chung đa số trẻ không hứng thú, ít tập trung chú ý do đồ
dùng trực quan quá quen thuộc, không hấp dẫn, sinh động.
Cụ thể:
Nội dung
Khả năng tập trung,chú
ý
Khả năng ghi nhớ
Tốt
Khá
Đạt yêu cầu
SL
%
SL
%
SL
%
3
21,4
4
28,6
7
50,0
2
14,3
3
21,4
9
64,3
Hứng thú, tích cực tham
gia hoạt động
2
14,3
2
14,3
10
71,4
III. Một số biện pháp nâng cao kỹ năng ứng dụng công nghệ thông
tin trong giảng dạy
1. Sử dụng một số thủ thuật trong soạn bài giảng (hiệu ứng,
phông chữ, kiểu chữ, màu nền):
Nói về công nghệ thông tin, rất nhiều người cho rằng, chỉ cần đưa một
vài hình ảnh trong hoạt động môi trường xung quanh hay hình ảnh trong một
câu chuyện nào đó lên màn hình máy tính cho trẻ xem là đã ứng dụng công
nghệ thông tin vào trong giảng dạy. Hay một số khác lại cho rằng đưa thật
nhiều hiệu ứng cho hình ảnh, những con số, những chữ cái bay lượn sẽ kích
thích trẻ hứng thú tham gia hoạt động. Chính nhầm lẫn này khiến cho các cô
soạn bài giảng một cách quá đơn giản hoặc quá cầu kỳ. không chú ý đến
những thủ thuật hiệu ứng, phong chữ, kiểu chữ, màu nền. Nếu có chú ý thì sử
dụng một cách thái quá và ngẫu nhiên bài soạn có chất lượng kém không phù
hợp và hoạt động không mang lại hiệu quả.
Từ những kinh nghiệm của bản thân, tôi nghĩ rằng, khi soạn bài, phần
hiệu ứng, phông chữ, cỡ chữ rất quan trọng. Làm sao để bài dạy không quá đơn
giản và không bị rườm rà bởi các hiệu ứng gây rối mắt trẻ, phân tán sự tập
trung của trẻ vào bài học. Nếu dùng không phù hợp sẽ gây phản tác dụng. Tôi
thường lựa chọn một nhóm hiệu ứng nhất định gồm plus ( hình ảnh biến mất
ngay giữa màn hình) wheel (hình ảnh xoay tròn), fly in (hình ảnh từ phía dưới
đi vào màn hình), wedge (hình ảnh tách ra) để sử dụng trong một bài soạn.
Ví dụ:
Trong các hoạt động làm quen với toán, các hình ảnh con vật, đồ vật
thường có số lượng nhiều (từ 5 đến 10) lại càng phải sử dụng ít hiệu ứng để
tránh rối mắt trẻ. Hay trong các hoạt động làm quen chữ cái có nhiều hình ảnh,
từ, chữ cái cũng vậy, cần chọn một nhóm hiệu ứng nhất định, tránh trường hợp
sử dụng quá nhiều hiệu ứng hay chọn hiệu ứng quá bay lượn làm phân tán sự
chú ý của trẻ dẫn đến hiệu quả giờ học không cao.
Các phông nền cũng nên lựa chọn đơn giản phù hợp nội dung bài giảng,
tránh dùng nhiều màu sắc hình ảnh lòe loẹt, không cần thiết. Thông thường
phong nền hay sử dụng màu vàng nhạt để làm nổi bật hình ảnh, chữ cái, chữ số
bằng những tông màu đỏ, xanh.
Ngoài ra khi soạn thảo cũng cần lưu ý việc chọn size chữ, màu chữ cho
phù hợp. Size chữ không nên to quá cũng không nên nhỏ quá và màu chữ nên
nổi bật để trẻ dễ dàng nhận biết chữ cái chữ số. Tránh chọn nhiều màu chữ
trong cùng một slide trình diễn. Như vậy trẻ sẽ không chú ý đến nội dung bài
học mà chỉ chú ý đến những hình ảnh, màu sắc sặc sỡ của những con chữ, con
số đang nhảy múa. Từ đó sẽ gây ra việc khó theo kịp nội dung cần tải và rối
mắt đối với trẻ.
2. Lựa chọn đề tài ứng dụng công nghệ thông tin trong bài
giảng:
Không phải bất kỳ một đề tài nào cũng có thể ứng dụng công nghệ thông
tin vào trong bài giảng. Tùy theo mục tiêu đề ra để phát triển cho trẻ mà ta có
thể lựa chọn những phương tiện truyền tải đến trẻ cho phù hợp.
Nắm bắt được điều đó, tôi cho rằng trước tiên ta phải làm rõ rằng, việc
ứng dụng công nghệ thông tin vào trong bài giảng không đơn thuần chỉ là giáo
án điện tử được thiết kế bởi chương trình Power Point mà đó còn bao gồm
nhiều các phương tiện công nghệ thông tin khác như tivi, đầu đĩa, mạng
internet…
Vì thế, việc lựa chọn đề tài và phương tiện ứng dụng công nghệ thông tin
trong giảng dạy cũng vô cùng phong phú đa dạng. Tuy nhiên, lựa chọn đề tài
ứng dụng công nghệ thông tin vào trong bài giảng cũng phải theo một số những
yêu cầu nhất định để tránh việc lựa chọn đề tài không phù hợp và hoạt động
không mang lại hiệu quả. Những yêu cầu cụ thể như sau:
+ Chọn đề tài mang mục đích cho trẻ nhận ra sự thay đổi của sự vật hiện
tượng, nhận biết các hiện tượng trong thiên nhiên.
+ Chọn đề tài mà hoạt động chủ yếu là các bài tập trò chơi nhằm kích
thích hứng thú và ôn luyện kiến thức cho trẻ.
+ Chọn các đề tài cần có nhiều âm thanh đi kèm hình ảnh cho trẻ trực
quan sinh động.
+ Chọn các đề tài mà yêu cầu cần cung cấp cho trẻ các hình ảnh thật,
sống động.
+ Hạn chế các đề tài khó tìm tư liệu hình ảnh, phim nhạc.
+ Không chọn các hoạt động mang tính chất minh họa hình ảnh mà
không mang tính tích hợp các hoạt động khác.
Ví dụ:
Đối với đề tài “Trường mầm non” ta có thể trực tiếp chụp một số hình
ảnh trong máy di động về các hoạt động của trẻ diễn ra ở trường, lớp. Sau đó
chuyển lên slide trình diễn kết hợp lồng ghép những đoạn nhạc hay những bài
hát về trường mầm non cho trẻ vừa xem vừa thưởng thức âm nhạc một cách
nhẹ nhàng. Cách làm này hết sức đơn giản nhưng hiệu quả cho thấy trẻ rất
hứng thú bởi những hình ảnh rất gần gủi với các hoạt động thực tế của trẻ tại
trường, lớp.
Hay cũng từ chủ đề “Trường mầm non” ta có thể quay những video clip
về các hoạt động của trẻ diễn ra ở trường như tập thể dục buổi sáng, vệ sinh rửa
tay, lau mặt, bữa ăn, giấc ngủ của trẻ. Trẻ được nhìn chính mình và các bạn
trong lớp trên màn hình đang chơi, học như vậy sẽ thích thú vô cùng. Những
hình ảnh ấn tượng đó sẽ rất khó quên đối với trẻ và tất nhiên những kiến thức
trẻ nhận được sẽ khắc sâu hơn.
3. Lập dàn ý theo trình tự phương pháp bài dạy:
Khi làm một bài tập làm văn hay viết một câu chuyện theo đề tài nào đó,
công đoạn đầu tiên không thể thiếu đó là lập dàn ý. Từ dàn ý đại cương ta mới
có thể triển khai nội dung cụ thể để không bị sai lệch khỏi nội dung trọng tâm.
Đối với một giáo án điện tử cũng vậy. Đây là giai đoạn quan trọng nhất. ở giai
đoạn này có các nội dung chủ yếu mà người soạn nhất thiết phải hình dung ra
rõ ràng và phải theo trình tự nội dung các bước theo phương pháp của bài dạy.
Ví dụ 1:
Trong hoạt động làm quen chữ cái, cách soạn được tiến hành theo các
bước sau:
+ Đưa hình ảnh có từ chứa chữ cái đã học và chữ cái cần làm quen.
+ Bôi màu những chữ cái khi trẻ lên tìm chữ cái đã học.
+ Xuất hiện chữ cái cần cho trẻ làm quen giữa màn hình cho trẻ phát âm.
+ Bôi màu lần lượt các nét cấu tạo con chữ cho trẻ biết.
Cứ như vậy tiếp tục xuất hiện các chữ cái mới theo các bước trên.
Ví dụ 2:
Trong hoạt động làm quen với toán: Tiết thêm bớt trong phạm vi 8 theo
chủ đề Thế giới thực vật:
+ Đầu tiên xuất hiện các nhóm cây xanh được khoanh tròn có số lượng
là 6, 7, 8 cho trẻ lên tìm nhằm củng cố lại số lượng 8.
+ Cho xuất hiện từng cây xanh có số lượng trong phạm vi 8.
+ Tiếp tục cho xuất hiện 7 cái xô tưới nước.
+ Sau khi hỏi trẻ , tiếp tục cho xuất hiện thêm một cái xô tưới nước.
+ Khi trẻ đếm kiểm tra tiếp tục cho xuất hiện chữ số 8 biểu thị số lượng
hai nhóm.
+ Tiếp tục làm hiệu ứng cho 2 xô nước biến mất.
+ Chọn số biểu thị cho số lượng nhóm xô còn lại. ( số 6)
+ Khi trẻ kiểm tra số lượng hai nhóm xong, tiếp tục làm hiệu ứng xuất
hiện 2 xô nước, cho mất số 6 và xuất hiện số 8 biểu thị hai nhóm. Cứ như vậy
tiến trình soạn theo đúng phương pháp của bài dạy cho đến hết.
Khi sắp xếp các slide theo trình tự phương pháp bài dạy cần sắp xếp đơn
giản, hợp lý và luôn luôn lưu ý đến mối liên kết giữa chúng. Vì đôi khi chỉ cần
một trục trặc nhỏ trong quá trình tiến hành bài giảng cũng có thể gây lúng túng
khi giảng bài. Tốt nhát cứ mỗi một nội dung là một slide trình diễn liên kết bởi
hiệu ứng của Hyperline. Với hệ thống này người sử dụng chỉ việc nhấp chuột
vào bất cứ hoạt động nào hay hình ảnh nào là yêu cầu sẽ được thể hiện ra,
không cần theo thứ tự. Thêm vào đó, các hình ảnh được nằm theo từng slide
riêng biệt nên hình ảnh to, rõ. Cô có thể linh hoạt xử lý các tình huống xãy ra ở
trẻ mà không cần phải thực hiện các thao tác quay lại ban đầu mà chỉ cần nhấp
"chuột" vào biểu tượng để thể hiện hình ảnh cần quay lại.
Ví dụ:
Trong chủ đề "Phương tiện và luật lệ an toàn giao thông. Cô cùng trẻ
xem các hình ảnh của một số phương tiện giao thông. Khi trẻ xem xong, cô cho
trẻ hình dung, nhớ lại mình đã xem những gì và kể lại cho cô, các bạn biết. Sau
khi trẻ kể xong, nếu muốn cho trẻ được xem lại thì giáo viên chỉ cần nhấp
"chuột" vào biểu tượng của file đó để cho trẻ xem luôn chứ không cần phải
"back"(quay lại) từ đầu để tìm lại. Đây là một hình thức rất hay giúp cho giáo
viên tránh được việc gây rất nhiều thời gian và tránh việc làm gây mất hứng thú
của trẻ.
4. Tìm tư liêu văn bản, tư liệu hình ảnh, âm thanh, bài hát phù
hợp:
Tư liệu có thể được tìm ở nhiều nguồn khác nhau: trong sách báo, tạp
chí… đặc biệt là mạng internet với nguồn tài nguyên giáo dục phong phú và đa
dạng. Nhất là có nhiều trong các phần mềm violet, Flash. Các hình ảnh sống
động như những con vật ngộ nghĩnh, những hàng chữ biết đi, những con số biết
nhảy cùng những hiệu ứng âm thanh sẽ thu hút sự chú ý và kích thích sự hứng
thú của trẻ.
Ví dụ: Đối với hoạt động môi trường xung quanh, đây là một hoạt động
với nội dung rộng lớn. Do vậy, khi tìm tư liệu cần phải linh hoạt lựa chọn
những hình ảnh phù hợp với nội dung. Hình ảnh phải rõ nét, màu sắc hài hòa.
Hay chúng ta có thể sử dụng video clip cho trẻ được quan sát các sự vật hiện
tượng đang chuyển động có âm thanh kèm theo, những hình ảnh thật thì trẻ sẽ
rất thích thú, tập trung chú ý và ngẫu nhiên giờ học đạt kết quả cao.
Đối với hoạt động âm nhạc: Dường như tất cả trẻ đều hứng thú khi một
bài hát cất lên có tiếng nhạc đi kèm. Trẻ sẽ sẵn sàng đung đưa theo nhịp điệu
bài hát du dương hay nhún nhảy theo những giai điệu sôi động. Nắm bắt đặc
điểm đó, tôi đã lồng ghép trong các tiết âm nhạc, các ngày lễ hội cho trẻ nghe
băng đĩa các bài hát phù hợp nội dung chủ đề đang thực hiện để thay thế hình
thức hát đơn điệu không có âm thanh, tiếng đàn. Nhìn chung đa số trẻ hưởng
ứng tích cực.
Bên cạnh đó, đối với một số tư liệu hình ảnh gần gũi với trẻ như các hoạt
động của trẻ thì có thể chủ động quay phim, chụp ảnh qua máy ảnh, điện thoại
di động để làm tư liệu cho bài giảng.
IV. Kết quả đạt được:
Qua quá trình thực hiện, bản thân tôi rất phấn khởi khi kết quả đạt được khá
cao.
* Đối với trẻ: Nhiều trẻ rất hứng thú tham gia, khả năng tập trung chú ý
cao và tham gia các hoạt động rất tích cực.
Nội dung
Khả năng tập trung,chú
ý
Khả năng ghi nhớ
Hứng thú, tích cực tham
gia hoạt động
Tốt
Khá
Đạt yêu cầu
SL
%
SL
%
SL
%
11
78,6
03
21,4
0
0
07
50
04
28,6
03
21,4
10
71,4
04
28,6
0
0
Nhiều trẻ tỏ ra mạnh dạn tự tin trong giao tiếp, đa số trẻ thuộc tất cả các
chữ cái và chữ số.
* Đối với giáo viên:
Giáo viên nắm chắc phương pháp, linh hoạt trong các tiết dạy, đúc rút
được nhiều kinh nghiệm cho bản thân.
V. Bài học kinh nghiệm:
Trong quá trình thực hiện, bản thân tôi đã học tập và đúc rút được nhiều
kinh nghiệm:
1. Khi thiết kế bài giảng tuyệt đối không tham lam chọn quá nhiều hiệu
ứng hoặc quá đơn giản chỉ vài hình ảnh mà chỉ nên chọn hợp lý, vừa phải để
tạo hứng thú và bất ngờ cho trẻ để bài giảng mang lại kết quả hữu hiệu nhất.
2. Lựa chọn đề tài phải phù hợp với mục tiêu, nội dung của chương trình
3. Lập dàn ý theo trình tự phương pháp của bài dạy phù hợp.
4. Tích cực sưu tầm các hình ảnh, tư liệu chương trình phục vụ cho việc
thiết kế các bài giảng.
Ngoài ra, bản thân luôn bồi dưỡng, không ngừng học tập kỹ năng thực
hành vi tính để xử lý kỹ thuật tốt hơn.
- Không quá lạm dụng giáo án điện tử để luôn cho trẻ được hoạt động và
phát triển trong nhiều hoạt động khác.
C. kết luận
“Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”. Mỗi trẻ em hôm nay là chủ nhân
tương lai của đất nước. Để trẻ có được một nền móng vững chắc thì giáo viên
phải tích cực tìm tòi, học hỏi để có sự sáng tạo đổi mới trong nội dung, phương
pháp, hình thức, cách thức tổ chức hoạt động. Từ đó tạo cơ hội cho trẻ được
tham gia vào các hoạt động, trẻ tiếp thu kiến thức một cách chủ động, giúp trẻ
được phát triển toàn diện về các mặt thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm và
quan hệ xã hội, thẩm mỹ.
ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy là một phương pháp
mới đa hình thức và đang được mọi người quan tâm. Thực hiện công việc này
giúp tôi học hỏi được nhiều thứ từ các nguồn thông tin khác nhau trong quả
trình tìm hiểu, nghiên cứu. Mặt khác, việc cho trẻ làm quen tiếp cận công nghệ
thông tin sớm là một phương án tốt nhằm giúp hình thành thêm cho trẻ một kỹ
năng sống cần thiết trong thời đại công nghệ mở rộng như ngày nay. Tuy
nhiên, chúng ta cũng không nên lạm dụng nhiều việc ứng dụng công nghệ
thông tin vì trẻ luôn là trung tâm và việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
giảng dạy cũng chỉ là phương tiện giúp cho việc đạt đến mục tiêu chính là phát
triển toàn diện cho trẻ.
Những kiến thức kỹ năng và cách ứng dụng công nghệ thông tin vào
trong giảng dạy của bản thân vẫn chỉ ở mức cơ bản. Bản thân nhận thấy vẫn
còn nhiều vấn đề tiếp tục học hỏi, tìm kiếm giải pháp, đúc rút kinh nghiệm của
các đơn vị bạn để không ngừng nâng cao kỹ năng và cách sử dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động giáo dục trẻ. Rất mong nhận được sự góp ý, trao đổi
ý kiến của hội đồng khoa học các cấp để bản sáng kiến cải tiến kỹ thuật của tôi
hoàn thiện hơn, áp dụng rộng rãi hơn.
Kim Thủy, ngày 25 tháng 05
năm 2011
Hội đồng khoa học nhà trường
Người viết
Võ Thị Ngân
Mục lục
A. Mở đầu
..............................................................................................Trang 1
B. Nội
dung.............................................................................................Trang 2
I. Cơ sở khoa
học..........................................................................Trang 2
II. Cơ sở thực
tiễn.........................................................................Trang 2
1. Thuận
lợi........................................................................Trang 3
2. Khó
khăn........................................................................Trang 4
3. Điều tra thực
tiễn............................................................Trang 5
III. Một số biện pháp nâng cao kỹ năng ứng dụng
công nghệ thông tin trong giảng
dạy........................................Trang 5
1. Sử dụng một số thủ thuật trong bài giảng
(hiệu ứng, phông chữ, kiểu chữ, màu
nền............................Trang 4
2. Lựa chọn đề tài ứng dụng công nghệ thông tin
trong bài
giảng..................................................................Trang 7
3.
Lập
dàn
ý
trình
bày...........................................................Trang 8
4. Tìm tư liệu văn bản, tư liệu hình ảnh, âm
thanh.............Trang 10
IV. Kết quả đạt
được.....................................................................Trang 11
V. Bài học kinh
nghiệm................................................................Trang 11
C. Kết
luận...............................................................................................Trang 12
- Xem thêm -