Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn một số giải pháp và thiết bị kĩ thuật hỗ trợ dạy học theo mô hình trường họ...

Tài liệu Skkn một số giải pháp và thiết bị kĩ thuật hỗ trợ dạy học theo mô hình trường học mới (vnen) đạt hiệu quả

.PDF
19
217
51

Mô tả:

Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu MỤC LỤC I. Mở đầu 2 1. Lí do chọn đề tài 2 2. Điểm mới của sáng kiến 3 II. Nội dung 3 1. Thực trạng……. 7 2. Giải pháp……. 8 a. Xây dựng lớp học thân thiện 8 b. Đổi mới của giáo viên 10 c. Những thay đổi cách học của HS 11 d. Thay đổi cách đánh giá 13 e. Ứng dụng CNTT và thiết bị kĩ thuật ……. 14 III. Kết luận 17 1. Bài học kinh nghiệm 17 2. Kiến nghị đề xuất 17 1 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có trí thức, có sức khỏe, có thẩn mỹ hình thành bồi dưỡng nhân cách phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đất nước ta trong thời kì mở cửa, hội nhập và phát triển, công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ trên khắp đất nước, đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới, có bản lĩnh, có năng lực, chủ động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm thích úng với thực tiễn xã hội luôn thay đổi và phát triển. Nhu cầu này đòi hỏi ngành giáo dục phải có sự thay đổi phù hợp với tình hình đất nước. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, Tiểu học là bậc học nền tảng. Sự thành công của giáo dục Tiểu học có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển và chất lượng của các bậc học tiếp theo. Đây là bậc học cơ sở đặt nền móng cho sự phát triển của một Quốc gia. Với mô hình trường học mới, khoảng cách giữa học sinh và giáo viên được xóa bỏ; thầy, cô giáo như trở thành người bạn của học sinh để cùng khám khá, chiếm lĩnh kiến thức. Đồng thời mô hình trường học mới cũng là động lực để mỗi giáo viên tự thay đổi phương pháp truyền thụ kiến thức đến học sinh và học sinh có phản hồi tích cực. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang tích cực thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học theo mô hình VNEN. Đây là năm thứ hai thực hiện đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, mọi cái vẫn còn bỡ ngỡ vì thế người giáo viên tiểu học có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy và học, hình thành phương pháp tự học, hình thành nhân cách cho học sinh. Nhưng làm được điều đó không phải là dễ. Trong quá trình dạy học, phương tiện - đồ dùng dạy học có một vai trò quan trọng, nó giảm nhẹ công việc của giáo viên và giúp cho học sinh tiếp thu kiến thức một cách thuận lợi. Có được các phương tiện, đồ dùng thích hợp, người giáo viên sẽ phát huy hết năng lực sáng tạo của mình trong công tác giảng dạy, 2 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu làm cho hoạt động nhận thức của học sinh trở nên nhẹ nhàng và hấp dẫn hơn, tạo ra cho học sinh những tình cảm tốt đẹp với môn học. Do đặc điểm của quá trình nhận thức, mức độ tiếp thu kiến thức mới của học sinh tăng dần theo các cấp độ của tri giác: nghe - thấy - làm được (những gì nghe được không bằng những gì nhìn thấy và những gì nhìn thấy thì không bằng những gì tự tay làm), nên khi đưa những phương tiện vào quá trình dạy học, giáo viên có điều kiện để nâng cao tính tích cực, độc lập của học sinh và từ đó nâng cao hiệu quả của quá trình tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và hình thành kỹ năng, kỹ xảo của các em. Xuất phát từ nhận thức trên, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, bản thân tôi luôn nghiên cứu, tìm ra những phương pháp dạy học đạt hiệu quả. Đặc biệt là các phương tiện, thiết bị kĩ thuật góp phần đổi mới sự nghiệp giáo dục. Vì vậy tôi đã chọn sáng kiến “Một số giải pháp và thiết bị kĩ thuật hỗ trợ dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN) đạt hiệu quả” để nghiên cứu. 2. Điểm mới của sáng kiến Giải pháp và phương tiện kĩ thuật giúp làm tăng hiệu quả tiết dạy là đề tài đã có nhiều tác giả nghiên cứu, nhưng sáng kiến của của tôi ngoài việc nghiên cứu, ứng dụng các thiết bị kĩ thuật vào dạy học thì còn có việc sử dụng các đồ dùng dạy học do tôi tự làm. Các đồ dùng này có tính chất kĩ thuật, công nghệ mà chưa có ai làm kể từ khi chương trình VNEN được áp dụng. II. NỘI DUNG Mô hình trường học mới (VNEN) là kiểu mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại, tăng cường tương tác giữa giáo viên và học sinh, tạo bầu không khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện. Giáo viên phải tự trau dồi, nâng cao trình độ. Học sinh sẽ không học thụ động mà bắt buộc phải có sự trao đổi, tư duy với giáo viên và các bạn cùng lớp, từ đó nâng cao hiệu quả tiếp nhận đối với học sinh. Điểm nổi bật của mô hình là đổi mới về các hoạt động sư phạm, trong đó có đổi mới về cách thức tổ chức lớp học. Theo mô hình của trường học mới, quản lý lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh”, các “Ban” trong lớp, do học sinh tự nguyện xung phong và được các bạn tín nhiệm bầu lên. Việc bầu ra “Hội đồng tự quản học sinh” là biện pháp giúp học sinh được phát huy quyền làm chủ trong quá trình học tập, giáo dục. Theo mô hình này, học sinh được tổ chức 3 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu ngồi học theo nhóm, ngồi quay mặt vào nhau để cùng trao đổi và tự học. Quản lý lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh”. Đây là một biện pháp giúp học sinh được phát huy tính tự tin, phát huy quyền làm chủ quá trình học tập. Học sinh còn có điều kiện hiểu rõ quyền và trách nhiệm trong môi trường giáo dục, được rèn luyện các kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng tham gia, hợp tác trong các hoạt động, bổ sung và dần hoàn thiện kỹ năng sống cho học sinh. Điều đặc biệt hơn cả ở mô hình này là trong lớp học cũng đã hình thành những hoạt động gần gũi với học sinh như: “Hộp thư bè bạn, Góc khoa học, Góc chia sẻ, góc tự nhiên xã hội, góc sinh nhật, góc điều em muốn nói… Thông qua những góc hoạt động này, tạo ra môi trường giáo dục thân thiện, an toàn cho học sinh. Đồng thời, xây dựng không gian lớp học với “Góc học tập”,“Thư viện lớp học”,cây nội quy, hội đồng tự quản, bản đánh giá tiến độ, ngày em đến lớp..., tạo không gian mở, sáng tạo, hấp dẫn HS..còn giáo viên có thể dễ dàng nắm bắt được tâm lý của các em để có sự can thiệp, giúp đỡ kịp thời. Từ không gian bài trí lớp học cho đến cách tổ chức tiết học đều có sự khác biệt rõ nét so với trước đây. HS được xếp bàn ngồi đối diện nhau thành nhóm và có tên gọi cho mỗi nhóm: Chích chòe, họa mi, sơn ca, vành khuyên... Trong suốt tiết học, HS phải thảo luận nhóm và làm việc tập thể. GV chỉ giới thiệu phần học, mục tiêu của bài học, đưa ra các câu hỏi để các nhóm HS tự thảo luận tìm ra những kiến thức cần lĩnh hội ở bài học mới. Nhóm nào thống nhất được cách giải sẽ đưa ra thẻ hình gương mặt cười, nhóm nào cần sự trợ giúp thì giơ thẻ hình gương mặt mếu để được GV trợ giúp. Các nhóm cũng tự đưa ra đánh giá, nhận xét và bổ sung ý kiến cho nhóm bạn. GV chốt lại nội dung và đánh giá hiệu quả làm việc của từng nhóm... Mô hình VNEN giúp cán bộ quản lý, giáo viên trong nhà trường có sự đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách toàn diện; giáo viên, cộng đồng đánh giá mô hình có nhiều ưu điểm và tính khả thi cao. Ngoài việc học tập đạt yêu cầu về chuẩn kiến thức, kỹ năng, các em học sinh có thêm năng lực tự phục vụ, tự quản; giao tiếp, hợp tác; tự học và giải quyết vấn đề và những phẩm chất của người lao động mới như tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm; trung thực, kỷ luật, đoàn kết. 4 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu Mô hình VNEN kế thừa những mặt tích cực của dạy học truyền thống, kết hợp với sự đổi mới về mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình, tài liệu học tập, phương pháp dạy - học, cách đánh giá, cách tổ chức quản lý lớp học, cơ sở vật chất phục vụ dạy và học. Bên cạnh đó, giáo viên tích cực tổ chức dạy học theo nhóm, tổ chức đa dạng các hoạt động trải nghiệm sáng tạo như vẽ tranh tiếng nói tuổi thơ, ngày hội đọc, trải nghiệm làm nông dân, hành quân theo bước chân anh bộ đội, các câu lạc bộ yêu thích trong trường học, hội chợ quê, ngày hội ẩm thực... Một bài học được thiết kế bao gồm những hoạt động như: hoạt động cơ bản, hoạt động thực hành và hoạt động ứng dụng. Tùy từng môn học mà tài liệu sẽ có sự thiết kế phù hợp với hoạt động cá nhân, cặp đôi và nhóm từ 4 đến 6 học sinh. Điểm nổi bật ở mô hình là sự đổi mới của quá trình sư phạm với việc học sinh tự tìm hiểu, tiếp cận kiến thức trong mỗi giờ học tại lớp. Mỗi tiết học không tạo áp lực đối với các em. Học sinh được hình thành thói quen làm việc trong môi trường tương tác, nhận thấy ưu điểm của bạn, được học hỏi bạn để tự hoàn thiện mình. Mô hình VNEN có khá nhiều ưu điểm. Đó là phương pháp dạy đề cao tính tự học, chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo nên sự hứng thú khi học tập. Thứ hai, cách học mới sẽ nâng cao tính hợp tác, tập thể trong cách làm việc nhóm hoặc nhóm tự quản, giúp gắn kết các học sinh với nhau”. Với mô hình mới này, học sinh phải tự hoạt động, tự rút ra kiến thức cho mình, giáo viên chỉ tổ chức các hoạt động, hướng dẫn thu nhận, chứ không trực tiếp truyền thụ kiến thức trong sách vở như trước. Bên cạnh đó, kiến thức mà học sinh thu nhận được qua các tiết học phải gắn liền với kinh nghiệm đã có của học sinh, từ đó kiến thức sẽ thực sự biến thành cuộc sống, chứ không chỉ khô khan trên sách vở”. “Cách đánh giá mới này có nhiều ưu điểm. Về phía giáo viên, quá trình đánh giá đúc kết được những ưu và khuyết điểm của học sinh để kịp thời động viên, khích lệ các em phấn đấu. Về phụ huynh; khi cùng tham gia đánh giá, họ cũng nắm được thông tin từ phía nhà trường, biết được con em của mình mức độ đến đâu. Các em học sinh thì vừa được tham gia đánh giá cho bạn vừa tự đánh giá mình”. 5 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu Sự phân công công việc trong một nhóm rất rõ ràng, mỗi người một nhiệm vụ, những học sinh yếu cũng được tham gia và bình đẳng như các bạn khác trong nhóm. Từ đó học sinh có điều kiện hiểu rõ quyền và trách nhiệm trong môi trường giáo dục, được rèn các kĩ năng lãnh đạo, kĩ năng tham gia, hợp tác trong mọi hoạt động. Điều dễ nhận thấy ở một tiết học của mô hình trường tiểu học mới đó là không khí học tập rất sôi nổi. Việc trao đổi giữa học sinh và giáo viên dễ dàng và thường xuyên. Đặc biệt, trong quá trình học tập, nếu vấn đề nào không hiểu, các em sẽ yêu cầu được sự trợ giúp từ giáo viên bằng cách sử dụng “thẻ đỏ cứu trợ”. Với các em học sinh thì đây là một trò chơi vui vô cùng hứng thú, hiệu quả, các em không ngại ngần khi tìm hiểu nội dung trong bài học của mình. Các hoạt động sư phạm đã từng bước đổi mới. Học sinh hoàn toàn chủ động trong tiết học để khám phá và tìm ra tri thức. Các em rất tự nhiên, mạnh dạn điều khiển nhóm học tập, tranh luận, nêu vấn đề và biết cách giải quyết vấn đề, biết nêu yêu cầu đề xuất với giáo viên, biết tự đánh giá mình, đánh giá bạn. Giáo viên không còn đóng vai trò là người truyền thụ kiến thức mà là người giao việc, tổ chức hoạt động học tập, tư vấn, giám sát. Vì thế, giáo viên phải có năng lực thật sự để khi giao việc mỗi học sinh phải hiểu được mình phải làm gì và làm như thế nào để đạt được mục tiêu đề ra. Giáo viên phải chuẩn bị kĩ các phương án lên lớp sao cho hiệu quả, đưa ra một số tình huống giả định để giải thích, giúp đỡ khi học sinh thắc mắc. Giáo viên có quyền thay đổi hình thức, phương pháp giảng dạy miễn học sinh làm tốt mục tiêu hoạt động đó. Để tiết học thực sự đạt hiệu quả, giáo viên phải làm đồ dùng dạy học nhiều hơn. Về cách đánh giá học sinh nhẹ nhàng hơn, có sự tham gia của cha mẹ học sinh và cộng đồng theo dõi, đánh giá. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi thì việc thực hiện dạy học theo mô hình VNEN cũng có nhiều bất cập. Đó là: không gian lớp học thêm chật chội bởi phải nhường chỗ cho các “Góc”, “Nhóm”. Những học sinh rụt rè, nhút nhát thường thiếu chủ động trong học tập, ngôn ngữ địa phương ảnh hưởng quá nhiều vào quá trình thảo luận, làm việc trong nhóm. Hơn nữa việc đánh giá bằng lời có phần ảnh hưởng dến hứng thú học tập của học sinh, đặc biệt là 6 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu những em học tốt, nếu như người giáo viên không có sự phong phú trong ngôn ngữ và biểu đạt. 1. Thực trạng việc giảng dạy theo mô hình VNEN tại đơn vị nghiên cứu Qua hơn 2 năm triển khai và thực hiện Dự án dạy theo mô hình VNEN, đến nay giáo viên và học sinh nhà trường đã thích nghi với môi trường học tập này đã đạt hiệu quả cao trong dạy – học. Học sinh cơ bản đã thay đổi thói quen học tập, các em tự nghiên cứu tìm hiểu kiến thức trong bài và qua tài liệu. Những kiến thức khó, các em trao đổi với bạn trong nhóm và mạnh dạn trao đổi vướng mắc với giáo viên. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để các em phát huy tính độc lập, chủ động tiếp thu kiến thức và hiểu sâu sắc các kiến thức trong bài học; rèn luyện cho các em được nhiều kỹ năng sống, kỹ năng tập thể trong cách hoạt động học theo nhóm. Môi trường học thoải mái, các em rất hào hứng tham gia các bài học. Vui nhất là mỗi khi lớp học chuẩn bị có sự thay đổi về nhân sự, các em đều tỏ rõ trách nhiệm và sự quan tâm đến những thay đổi trong lớp mình. Có em thực sự lo lắng vì không biết tới đây các bạn có tín nhiệm mình không? Thậm chí có cả những trường hợp tổ chức tuyên truyền và “tranh thủ sự ủng hộ” của các thành viên trong lớp trước giờ “bầu cử”. Các em học sinh khối 2, 3, tuy còn nhỏ nhưng cũng biết chỉ đạo hoạt động của nhóm đâu ra đấy, các tiết học diễn ra sôi nổi, nhịp nhàng và thành thục còn khối lớp 4-5 các em càng thành thục, năng động và sáng tạo hơn. Được sự hỗ trợ của cha mẹ, của người thân và cộng đồng nên các tiết học diễn ra “an toàn và chu đáo”, học sinh nắm bài một cách tự tin, nhớ lâu…tất cả đã phá tan những lo lắng ban đầu về mô hình trường học mới. Nhưng phải nói rằng, thành công không thể có được một cách dễ dàng. Đó là sự vất vả của giáo viên, đặc biệt là trong thời gian đầu năm học. Thành công đã rất rõ nhưng bất cập, hạn chế cũng còn rất nhiều, đó là: Trường…... có …. lớp nhưng số lượng học sinh lại quá ít và không đồng đều. Có lớp chỉ có 4 HS và có lớp phải ghép hai độ tuổi dẫn đến sự khó khăn trong chia nhóm, hơn nữa Bộ máy HĐTQ đã chiếm hết lớp. 7 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu Một bộ phận HS là dân tộc và 100% các em đều có tiếng địa phương, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hoạt động trong nhóm. Các em không dám mạnh dạn đưa ra ý kiến vì phải “sợ nói tiếng phổ thông”. Nhận thức, năng lực và ý thức của giáo viên không đồng đều. Nhiều giáo viên còn nặng về phương pháp cũ để “bắt HS phải nắm được” kiến thức do “mình đưa ra” mà không hướng dẫn cho học sinh khám phá. Đa số giáo viên có tuổi đời khá cao, kinh nghiệm thì có nhưng sự nhạy bén và linh động thì có phần hạn chế. Đặc biệt trong tiếp cận các tiến bộ khoa học kĩ thuật để áp dụng vào dạy học. Trang thiết bị phục vụ cho dạy học còn nhiều hạn chế, thiếu thốn, giáo viên chay lười trong sử dụng thiết bị, không dám dành thời gian và tiền bạc để làm các thiết bị phục vụ dạy học. Vì thế nhiều tiết dạy trở nên nhàm chán, học sinh không hứng thú, không khơi gợi được sự hứng thú và tự giác từ học sinh. 2. Các giải pháp nâng cao chất lượng dạy học theo mô hình VNEN a. Xây dựng lớp học thân thiện. Tăng cường công tác trang trí lớp học : Mỗi ngày đến trường, đến lớp là một ngày vui, bản thân các em thêm yêu trường yêu lớp, gắn bó với ngôi nhà chung đó. Việc trang trí lớp học thân thiện là một sự sáng tạo phù hợp với đặc điểm tâm lý học sinh nó tạo cho các em nhận thức về cái đẹp và có ý thức gìn giữ trường lớp của mình sạch đẹp, góp thêm cho lớp học một luồng không khí thân thiện, thoải mái, sinh động, hăng say trong giờ học, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Vì vậy, tôi đã kết hợp với phụ huynh và học sinh để tổ chức trang trí lớp học đảm bảo được các yêu cầu về thẩm mỹ, khoa học và tiết kiệm. Đồng thời các nội dung trang trí có tính khơi gợi cho học sinh. Thư viện lớp học: Là tủ sách thân thiện. Trường nằm trong danh sách hỗ trợ của dự án PLAN nên tủ sách thân thiện của lớp có một số lượng đầu sách khá phong phú, trong đó có một phần sách được tài trợ bởi PLAN, một phần của dự án cho học sinh dân tộc và một phần là sự đóng góp của giáo viên và học sinh. 8 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu Thành lập ban hội đồng tự quản làm việc có hiệu quả. Giáo viên phải xây dựng được Hội đồng tự quản học sinh, tìm hiểu kĩ về từng học sinh của lớp mình. Coi trọng công tác tổ chức lớp ngay từ đầu năm học. Xây dựng được Hội đồng tự quản học sinh nhiệt tình có năng lực chỉ đạo lớp. Đây là mô hình không những đổi mới về tổ chức lớp học, về trang trí lớp mà quá trình dạy học cũng được đổi mới từ dạy - học cả lớp sang dạy - học theo nhóm. Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, tăng cường phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Lấy học sinh làm trung tâm trong các hoạt động dạy học giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức và tạo mọi điều kiện tốt nhất để mọi học sinh được tham gia vào quá trình học tập. Phát huy vai trò của một nhóm trưởng: Học theo mô hình VNEN, bàn ghế sẽ được sắp xếp cho học sinh ngồi đối diện nhau. HS tự thảo luận, tự tìm vướng mắc và tự đưa ra phương án giải quyết. Ưu điểm của phương pháp học nhóm được phát huy rất rõ nét trong học nhóm theo mô hình VNEN, tất cả học sinh trong nhóm đều được luân phiên nhau làm nhóm trưởng, hướng dẫn các bạn trong nhóm để điều hành các hoạt động do giáo viên yêu cầu và không có một bất cứ học sinh nào ngoài cuộc, không một học sinh nào ngồi chơi. Tuy nhiên để tiết học dạy theo mô hình VNEN thành công hay không thì phụ thuộc rất nhiều vào các nhóm trưởng. Và công việc chính của nhóm trưởng đó là: thay giáo viên điều hành các bạn hoạt động nhóm. Xác định được mục tiêu của hoạt động nhóm. Phân công nhiệm vụ cho công bằng giữa các thành viên trong nhóm. Một điều quan trọng nữa đó là nhóm trưởng phải biết tự mình làm thế nào để huy động được sự tham gia của mọi thành viên vào giải quyết nhiệm vụ nhóm và phải tạo ra những tương tác đa chiều giữa các thành viên trong nhóm. Hướng dẫn các bạn biết cách tìm kiếm hỗ trợ và giải quyết được một số khó khăn gặp phải. Biết quản lí và sử dụng thời gian hiệu quả, biết sử dụng và bảo quản tài liệu học tập. Biết tổ chức và quản lí công việc. Biết giơ thẻ khi đã hoàn thành công việc và biết giơ thẻ cứu trợ khi không tự giải quyết được công việc. 9 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu b. Đổi mới phương pháp dạy của giáo viên Nhận thức của giáo viên Phương pháp dạy học theo mô hình VNEN là cách dạy hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. “Tích cực” trong phương pháp đựơc dùng với nghĩa chủ động hoạt động, trái nghĩa với bị động, chứ không dùng theo trái nghĩa với tiêu cực. Mô hình VNEN đòi hỏi phát huy tính tích cực của cả người dạy và người học. Thực chất phương pháp này đòi hỏi người dạy phải phát huy tính tích cực, chủ động của người học. Kiểu cấu trúc bài học được khuyến khích sử dụng trong mô hình VNEN, đó là tổ chức dạy học sử dụng quy trình thông qua các hoạt động trải nghiệm, khám phá, phát hiện của HS, quy trình gồm 5 bước chủ yếu sau: Gợi động cơ, tạo hứng thú ra bài học Thực hành Trải nghiệm Phân tích, khám phá,rút Vận dụng. Để làm tốt 5 bước này, đòi hỏi bản thân người giáo viên phải tự thiết kế, đạo diễn các hoạt động học tập để giúp học sinh tự phát hiện kiến thức, phân tích kiến thức và sử dụng kiến thức. Đổi mới phương pháp dạy của giáo viên: - Tăng cường việc sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học, các kỹ thuật dạy học để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh, gắn nội dung dạy học với các tình huống thực tiễn cũng như để giải quyết các chủ đề phức hợp của thực tiễn. Trước tiên mỗi giáo viên phải nắm chắc các phương pháp dạy học tích cực và các kỹ thuật dạy học tích cực được áp dụng rộng rãi ở nhiều vùng miền và đã mang lại kết quả cao đó là : - Các phương pháp dạy học tích cực : + Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề + Phương pháp hợp tác theo nhóm nhỏ. + Phương pháp trò chơi + Phương pháp đóng vai - Các kỹ thuật dạy học tích cực + Kĩ thuật hỏi và trả lời + Kĩ thuật khăn trải bàn 10 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu + Kĩ thuật mảnh ghép + Kỹ thuật KWL + Kỹ thuật trình bày một phút Trao đổi với đồng nghiệp, chuyên môn để tuỳ theo theo từng môn, từng bài, từng lớp tuỳ theo từng hoạt động để vận dụng phương pháp dạy học nào, kỹ thuật dạy học nào cho phù hợp đặc biệt gắn bài học với thực tế cuộc sống để học sinh nhớ lâu, không bị gò ép. Và “Thầy giáo không phải chủ yếu là người truyền thụ tất cả kiến thức của mình có cho người học mà chỉ nên giới thiệu những giá trị cốt lõi, còn lại chủ yếu là gợi mở, giúp cách học, cách tiếp cận, cách phân tích và tổng hợp, giải quyết vấn đề, nhằm phát triển năng lực. Thầy giáo bây giờ không phải là thầy dạy mà là thầy về cách học, cách tiếp cận vấn đề, là người giúp các em biết cách học mới, cách tự học, tổ chức việc học cho các em..." (tác giả Vũ Ngọc Hoàng - Phó Trưởng Ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương) c. Những thay đổi về cách học của học sinh. Trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình thành bằng những hoạt động thuần tuý cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầytrò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường đi tới những tri thức mới. Trong phương pháp học tập hợp tác vẫn có giao tiếp thầy trò nhưng nổi lên mối quan hệ trò - trò. Thông qua sự hợp tác tìm tòi nghiên cứu, thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến của mỗi cá nhân được bộc lộ, được điều chỉnh khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới, bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi cá nhân và cả lớp. Nhóm học tập là đặc trưng của lớp học VNEN. Mọi hoạt động học hầu như diễn ra ở nhóm. Mỗi nhóm học tập có từ 4 đến 6 học sinh, chia thành 2 hoặc 3 cặp đôi. Nhóm trưởng là người nhận nhiệm vụ từ giáo viên, điều hành hoạt động của nhóm và báo cáo kết quả học tập của nhóm với giáo viên. Nói là hoạt động nhóm nhưng: Trước hết học sinh phải tự học, thông qua tự trải nghiệm, khám phá, nghiên cứu tài liệu để có được những hiểu biết cá nhân về việc học tập; Sau nghiên cứu cá nhân là chia sẻ trong cặp đôi. Học sinh có thể đổi vở để 11 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu kiểm tra bài làm của bạn; nói cách nghĩ, cách làm bài cho bạn nghe; tiếp thu góp ý của bạn; điều chỉnh ý kiến, kết quả của mình. Chia sẻ trong cặp đôi giúp học sinh kiểm tra hiểu biết của bản thân, tiếp thu góp ý của bạn, bảo vệ chính kiến của mình giúp học sinh tiếp cận vấn đề theo những góc độ khác nhau. Trao đổi nhóm là cơ hội để mỗi cá nhân hoặc mỗi cặp báo cáo kết quả học tập. Sau khi chia sẻ trong cặp đôi, học sinh tự tin hơn khi báo cáo trước nhóm. Các thành viên trong nhóm nhận xét trình bày của bạn cũng là dịp thể hiện hiểu biết và ý kiến của mình về vấn đề học tập. Nguyên tắc hoạt động nhóm trong lớp học VNEN là tất cả mọi người được báo cáo, ai cũng được nhận xét, ai cũng tham gia vào công việc chung; không có người đứng ngoài, không có người làm thay việc của người khác. Học nhóm trong lớp học VNEN đòi hỏi tự giác của mỗi cá nhân, tự quản của tập thể nhóm. Tự học - chia sẻ cặp đôi - trao đổi nhóm là quy trình hoạt động nhóm trong lớp VNEN.Nhóm trưởng điều hành hoạt động nhóm theo hướng dẫn của giáo viên và sách hướng dẫn, lấy đồ dùng học tập, phổ biến yêu cầu học tập cho nhóm. Nhìn chung nhóm trưởng điều hành nhóm theo quy trình học nhóm: Cho từng cá nhân đọc nhẩm mục tiêu bài học; Mời một bạn đọc to mục tiêu bài học cho cả nhóm; Cho nhóm thực hiện hoạt động cơ bản. Như vậy, trong hoạt động hợp tác, mục tiêu hoạt động là chung của toàn nhóm nhưng mỗi cá nhân được phân công một nhiệm vụ cụ thể. Trong nhóm nhỏ, mỗi cá nhân đều phải nỗ lực, không thể ỷ lại vào người khác, toàn nhóm phải phối hợp với nhau để cuối cùng đạt mục tiêu chung. Kết quả làm việc của từng nhóm được trình bày thảo luận trước lớp sẽ tạo một không khí thi đua giữa các nhóm, đóng góp tích cực vào kết quả chung của bài học. Hoạt động trong tập thể nhóm làm cho từng thành viên được bộc lộ suy nghĩ, hiểu biết thái độ của mình, qua đó đựơc tập thể uốn nắn, điều chỉnh, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức kỉ luật, tinh thần tương trợ, ý thức cộng đồng. Hoạt động trong tập thể nhóm, tập thể lớp sẽ làm cho từng thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội, hiệu quả học tập sẽ tăng lên nhất là phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành một nhiệm vụ xác định. Mô hình trường học mới Việt 12 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu Nam đưa vào đời sống học đường có tác dụng chuẩn bị cho học sinh thích ứng với đời sống xã hội, trong đó mỗi người sống và làm việc theo sự phân công hợp tác với tập thể cộng đồng. Trong xu hướng toàn cầu hoá, xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên quốc gia thì năng lực hợp tác thực sự trở thành một mục tiêu đào tạo của giáo dục nhà trường. Để làm được điều đó, trước hết giáo viên phải rèn cho học sinh các kĩ năng làm việc có hiệu quả ngay từ đầu năm học, đặc biệt là kĩ năng tự học theo nhóm. d. Thay đổi hình thức đánh giá Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng học tập để điều chỉnh họat động học của học trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng dạy để điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trong mô hình VNEN, việc rèn luyện phương pháp học để chuẩn bị cho học sinh khả năng học tập liên tục, suốt đời được xem như một mục tiêu giáo dục thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển khả năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan tới điều này, giáo viên phải tạo điều kiện để học sinh tham gia đánh giá lẫn nhau. Việc học sinh tham gia đánh giá lẫn nhau sẽ có tác dụng tích cực để học sinh tự học và điều chỉnh bản thân. Theo hướng phát triển của mô hình VNEN là để đào tạo ra những con người năng động, sớm thích ứng với đời sống xã hội, hoà nhập và góp phần phát triển cộng đồng thì việc kiểm tra phải khuyến khích trí thông minh, sáng tạo, phát hiện sự chuyển biến thái độ và xu hướng hành vi của học sinh trước những vấn đề của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng; rèn luyện cho các em khả năng phát hiện và vận dụng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong các tình huống thực tế. Việc đổi mới kiểm tra đánh giá: Thầy đánh giá trò, trò tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau, đánh giá của nhà trường kết hợp với đánh giá của gia đình và của xã hội sẽ có tác dụng thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học. Tóm lại, trong phương pháp dạy học theo mô hình VNEN, người được giáo dục trở thành người tự giáo dục, là nhân vật tự giác, chủ động có ý thức về sự giáo dục bản thân mình. 13 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh phải được xem như là một bộ phận không chỉ của cả quá trình dạy học mà là một bộ phận của mỗi hoạt động học tập. Kiểm tra đánh giá phải được tiến hành thường xuyên, liên tục ngay trong quá trình thực hiện mỗi hoạt động học tập để kịp thời khuyến khích, động viên và nhất là giúp các em điều chỉnh những sai sót để hoạt động học tập có hiệu quả. e. Áp dụng CNTT và thiết bị kĩ thuật vào dạy học Ứng dụng CNTT Ngày nay, việc đổi mới phương pháp dạy học trong trường học đang rất được ngành giáo dục và xã hội quan tâm. Với mục tiêu dạy học tích cực – lấy học sinh làm trung tâm của hoạt động dạy và học để có thể phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo cho học sinh hứng thú trong học tập. Người giáo viên cần phải bồi dưỡng cho học sinh kĩ năng nhận biết bản chất vấn đề, có năng lực tư duy độc lập và vận dụng sáng tạo kiến thức đã học vào thực tiễn. Để đạt mục tiêu trên, giáo viên phải vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực. Một trong những công cụ hữu ích hỗ trợ cho giáo viên, đó chính là ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình dạy học bởi những lí do sau: - Trong thời đại ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì việc ứng dụng CNTT vào dạy học là phù hợp với quy luật và là một việc làm cần thiết, đem lại hiệu quả thiết thực. - Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Công nghệ thông tin đã góp phần hiện đại hóa các phương tiện dạy học, các phần mềm dạy học đã giúp giáo viên tạo bài giảng phù hợp nhu cầu của học sinh, giúp học sinh có nhiều phương pháp tiếp thu kiến thức. Đặc biệt, nó sẽ giúp cho giáo viên tạo ra một lớp học mang tính tương tác hai chiều: giáo viên – học sinh. Do đó, ứng dụng công nghệ thông tin sẽ giúp học sinh tiếp nhận thông tin bài học hiệu quả hơn và sẽ biến những thông tin đó thành kiến thức của mình. Đồng thời, nó cũng phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, khai thác nhiều giác quan của người học để lĩnh hội tri thức. 14 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu - Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học cũng giúp giáo viên bố trí thời gian giảng dạy hợp lý, có thời gian đầu tư cho quá trình dẫn dắt, tạo tình huống có vấn đề để kích thích tư duy sáng tạo và kiểm tra đánh giá học sinh. Học sinh có thể dễ dàng hình dung và có khái niệm chính xác về các hình ảnh, sự vật, hiện tượng khi tiếp xúc với chúng bằng những hình ảnh trực quan (hình ảnh, đoạn phim…) Thế nhưng, với phương pháp và mô hình trường học mới này, nhiều giáo viên cho rằng việc ứng dụng CNTT là không cần thiết, vì họ cho rằng học sinh đã không cần nhìn lên bảng…Đó là cách hiểu tiêu cực. Việc ứng dụng CNTT đúng sẽ làm tăng hiệu quả của giờ dạy, kích thích được hứng thú và thôi thúc HS hoàn thành công việc nhanh hơn. Việc kết hợp hình ảnh và âm thanh phù hợp sẽ tác động mạnh mẽ đến sự tự tin, mạnh dạn và tính thi đua trong học sinh, cũng như thu hút được sự chú ý tập trung của học sinh vào vấn đề đang thực hiện. Chẳng hạn: Việc bố trí đồng hồ đếm ngược trong khi các em thảo luận sẽ thúc giục các em làm việc khẩn trương hơn, tạo tính thi đua cao hơn… Sử dụng Camera hay Webcam để “truyền hình trực tiếp” câu trả lời của các em sẽ thu hút được sự chú ý hơn từ các nhóm khác cũng như kích thích những em nhút nhát vì em nào cũng muốn được “lên phim”. Để làm được điều này đòi hỏi người giáo viên phải có một trình độ và kĩ năng sử dụng máy tính nhất định. Tuy nhiên không phải là khó nếu người giáo viên chịu khó học hỏi. Việc sử dụng máy tính và máy chiếu sẽ giúp cho người giáo viên đỡ được phần nào thời gian làm đồ dùng dạy học như in ảnh, vẽ tranh, mô hình. Và tính thẫm mỹ cũng cao hơn. Các thiết bị kĩ thuật hỗ trợ Trong phương pháp dạy học VNEN, có 4 hoạt động được người giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện thường xuyên trong một tiết học. Đó là: Hoạt động cá nhân ; Hoạt động nhóm đôi ; Hoạt động nhóm và Hoạt động có sự hỗ trợ của giáo viên. Mỗi hoạt động này đều có hình ảnh logo đi kèm. Vậy thì hình ảnh đó 15 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu có tác dụng gì, khi mà giáo viên vẫn phải sử dụng lời nói: “Bây giờ các em thảo luận…” Học sinh đều biết đượcphải làm việc gì khi nhìn hình logo đó trong SGK. Thế nhưng ở trường tôi và rất nhiều trường học sinh chỉ mới làm quen với mô hình còn SGK vẫn là sách cũ và người giáo viên vẫn phải dùng lời. Việc dùng lời có thể sẽ nhàm chán khi mà mỗi ngày các em phải nghe đến hàng mấy chục làn từ ngữ như nhau, lập đi lập lại. Để khắc phục điều này, tôi đã làm một thiết bị tín hiệu. thiết bị bao gồm một bảng có đèn và in hình logo được gắn cố định trên bảng. Khi yêu cầu HS thực hiện một hoạt động nào đó giáo viên chỉ cần ấn nút công tắc (đặt ở cạnh bảng gần bàn GV) thì hình logo đó sẽ bật lên cùng với một tiếng chuông nhỏ (Lấy từ đồ chơi trẻ em). Điều này sẽ gây được sự chú ý nhất định từ học sinh cũng như học sinh thấy hứng thú hơn khi có một nội dung mới. Cùng với thiết bị tín hiệu này là đồng hồ đếm ngược để định lượng thời gian cho một hoạt động. Thiết bị đồng hồ đếm ngược, tôi tận dụng từ cái đồng hồ hẹn giờ của quạt điện cũ. Ưu diểm của đồng hồ này là chỉ có chạy ngược và khi chạy hết thời gian đã hẹn thì nó sẽ cắt mạch điện. Tôi đã nối ngược để tạo nên tín hiệu, khi đồng hồ dừng, mạch điện cắt, thì đèn “Hết giờ” bật sáng cùng tín hiệu chuông. Tôi nhận thấy rằng khi sử dụng các thiết bị này học sinh học hào hứng và thi đua hơn, bởi thời gian cho một hoạt động là không thể thêm bớt… Ngoài hai thiết bị của giáo viên (Dùng điện 220V). thì HS cũng có thiết bị tương tự. Đó là các mặt cười, mặt mếu có chuông và đèn. Nhưng để an toàn thì các thiến bị của học sinh đều dùng đèn Led và pin. Thong thường xong mỗi mỗi hoạt động thì học sinh giơ mặt cười, hoặc mặt mếu nếu cần giúp đở. Nếu một lớp mà có nhiều nhóm thì việc giơ mặt cười, mặt mếu của HS sẽ khó phát hiện hơn. Nhưng với mặt cười, mặt mếu có đèn và chuông giáo viên sẽ dẽ dàng phát hiện ra nhóm nào đã xong, nhóm nào cần giúp đỡ. Học sinh cũng thích thú hơn, em nào cũng hăng say hơn, tích cực hơn trong hoạt động để được bấm chuông và bấm chuông trước nhóm bạn. 16 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu III. PHẦN KẾT LUẬN 1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm: Giáo dục Tiểu học là vấn đề chính trị - xã hội quan trọng, có giá trị cơ bản và lâu dài, có tính quyết định đối với cuộc đời cá nhân mỗi người. Vì vậy, người giáo viên Tiểu học có một vị trí đặc biệt quan trọng. Lao động của một giáo viên là lao động sáng tạo không ngừng, sự sáng tạo đó đòi hỏi phải toàn diện: sáng tạo trong soạn giảng, trong tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi, trong sinh hoạt tập thể, trong các biện pháp giáo dục đạo đức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Vì vậy chỉ có những giáo viên thực sự tâm huyết với nghề, thực sự thương yêu học sinh của mình thì mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ. Qua gần 2 năm vận dụng các giải pháp đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình trường học kiểu mới nói trên bản thân tôi nhận thấy việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường Tiểu học nói chung và các khối lớp dạy theo mô hình trường học kiểu mới nói riêng là rất cần thiết. Qua quá trình thực hiện đã mang lại những kết quả tốt đẹp. Giáo viên sử dụng linh hoạt các phương pháp và kỹ thuật dạy học nên đã phát huy được tính tích cực, chủ động, tinh thần hợp tác, chia sẻ để cùng nhau tìm tòi, khám phá kiến thức trong học sinh. HS luôn tự lập, tự khám phá, tự chiếm lĩnh tri thức, hình thành năng lực tự học, năng lực sáng tạo. Các em phát triển tốt các kỹ năng sống như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử...Tạo được một môi trường học tập thân thiện, vui vẻ, thoải mái. Chất lượng học tập ngày càng cao. 2. Kiến nghị, đề xuất: Đối với giáo viên: Hiểu và thấy được tầm quan trọng của việc đổi mới PPDH cũng như ứng dụng CNTT và các thiết bị phục vụ dạy học. Tìm tòi nghiên cứu làm ra các sản phẩm, các thiết bị để hỗ trợ cho việc dạy học đạt hiệu quả. Đối với nhà trường: Khuyến khích giáo viên ứng dụng CNTT trong dạy học cũng như làm việc, đưa nội dung sử dụng máy vi tính vào tiêu chí đánh giá thi đua giáo viên hàng năm. Tổ chức cho GV thi làm đồ dùng dạy học hàng năm. Mỗi cuộc thi có đánh giá và khen thưởng và là một nội dung của tiêu chí thi đua của giáo viên trong năm học. 17 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu Đối với các cấp quản lí: Tổ chức nhiều hơn nữa các buổi sinh hoạt chuyên môn cụm trường để giáo viên được giao lưu và chia sẻ kinh nghiệm, sáng kiến trong dạy học. Tổ chức các nội dung thi ngoài dạy học để GV có thể phát huy được năng lực của bản thân. Khuyến khích nhân rộng các mô hình, sáng kiến được áp dụng vào dạy học có hiệu quả. 18 Đinh Ngọc Tú – Th Phú Nhiêu NHẬN XÉT XẾP LOẠI CỦA HĐKH NHÀ TRƯỜNG Phú nhiêu, ngày tháng năm 2015 Chủ tịch 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng