Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng chuyên môn cho giáo viên mầm non”....

Tài liệu Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng chuyên môn cho giáo viên mầm non”.

.DOC
28
81
149

Mô tả:

MỤC LỤC TRANG Danh mục các chữ cái viết tắt 2 PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 3 1. Lý do chọn đề tài 3 2. Những hạn chế của đề tài 4 3. Mục đích nghiên cứu 5 4. Bản chất cần được làm rõ 5 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5 6. Giới hạn nghiên cứu 5 7. Đối tượng nghiên cứu 5 8. Phương pháp nghiên cứu 5 9. Phạm vi nghiên cứu 6 PHẦN 2: NỘI DUNG 7 1. Cơ sở lý luận 7 2. Điều tra thực trạng 7 3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy theo chương trình giáo dục mầm non mới. 10 4. Kết quả đạt được sau khi áp dụng đề tài 19 5. Bài học kinh nghiệm 21 PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 22 1. Kết luận 22 2. Kiến nghị đề xuất 22 TÀI LIỆU THAM KHẢO 26 Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 1 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TT Viết tắt Chú thích 1 GDMN Giáo dục mầm non 2 CBQL Cán bộ quản lý 3 GV Giáo viên 4 LQCC Làm quen chữ cái 5 BGH Ban giám hiệu 6 MTXQ Môi trường xung quanh 7 KPKH Khám phá khoa học 8 GDAN Giáo dục âm nhạc 9 SKKN Sáng kiến kinh nghiệm 10 MN Mầm non Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHUYÊN MÔN CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRONG TRƯỜNG MẦM NON”. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài. “Ai nâng cánh ước mơ cho em Là thầy cô không quản ngày đêm Ai dạy dỗ chúng em nên người Là thầy cô em ghi nhớ suốt đời” Nhà giáo vĩ đại Nguyễn Tất Thành lúc sinh thời đã đánh giá cao về công lao của các thầy giáo, cô giáo, người nói: “Thầy giáo, cô giáo chính là những tấm gương tốt, mình vì mọi người dạy con thiên hạ”. Vì vậy, thầy giáo, cô giáo phải là tấm gương sáng và luôn luôn rèn luyện, học tập, trau dồi kiến thức để ngang tầm với trọng trách của mình. Như chúng ta đã biết; trẻ em sinh ra đều có quyền được chăm sóc và giáo dục. Đặc biệt sự chăm sóc giáo dục ở lứa tuổi mầm non là cơ sở đầu tiên giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người. Giáo dục mầm non là một mắt xích, cũng là giai đoạn khởi đầu đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ em. Sự phát triển này đều mang rõ dấu ấn của thời thơ ấu. Những chủ nhân tương lai của đất nước chỉ có thể hình thành và phát triển nếu ngay từ lứa tuổi mầm non chúng ta đều dày công vun đắp cho trẻ thơ đầy đủ tình cảm, trí tuệ. Mục tiêu của giáo dục mầm non là giáo dục và phát triển cho trẻ một cách toàn diện về các mặt: Thể chất, thẩm mĩ, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm và kĩ năng xã hội…, là cơ sở để hình thành nên nhân cách của con người mới xã hội chủ nghĩa, và chuẩn bị những tiền đề tốt nhất cho trẻ bước vào lớp một. Chất lượng chăm sóc - giáo dục trẻ ở trường Mầm non có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục ở bậc học tiếp theo. Chính vì lẽ đó mà mỗi chúng ta, những cô giáo mầm non cần trú trọng hình thành nhân cách cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non, lứa tuổi hứa hẹn biết bao điều tốt đẹp cho tương lai. Trong điều 8 của luật Giáo dục quy định: “Giáo dục mầm non có nhiệm vụ thực hiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng đến 6 tuổi. Nội dung của giáo dục Mầm non là phải đảm bảo hài hòa giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục phù hợp với sự phát triển tâm lý của trẻ em. Phương pháp chủ yếu trong Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 3 giáo dục Mầm non là thông qua việc tổ chức hoạt động vui chơi để trẻ em phát triển toàn diện.” Trong cuộc sống hiện đại như ngày nay, các bậc học nói chung và bậc học mầm non nói riêng đều không ngừng cải tiến nội dung chương trình, phương pháp, thủ thuật, sự sáng tạo trong giảng dạy, để đáp ứng được yêu cầu phát triển đi lên của đất nước. Với bậc học mầm non, từ chương trình cải cách đến chương trình đổi mới... sau nhiều năm vận dụng vào thực tế đều đã bộc lộ những điểm hạn chế nhất định. Trên những điểm hạn chế đã rút ra từ chương trình cũ, trước sự đòi hỏi của xã hội, chương trình giáo dục mầm non đã được ban hành. Với quan điểm hướng đến sự phát triển toàn diện và tạo điều kiện cho trẻ được phát triển một cách liên tục, chương trình giáo dục mầm non mới sẽ phần nào đáp ứng xu thế đổi mới giáo dục ở trong nước, các nước trong khu vực và trên thế giới, đáp ứng giai đoạn đầu chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho công cuộc phát triển của đất nước, phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Hiện nay chương trình Giáo dục mầm non có nhiều điểm mới. Để thực hiện chương trình này có hiệu quả cao đòi hỏi giáo viên phải nắm chắc được mục đích yêu cầu, nội dung của chương trình và phải đổi mới phương pháp dạy học: Chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong tổ chức các hoạt động cho trẻ để phát huy tối đa tính tích cực của trẻ tham gia vào các hoạt động. Đây là điểm then chốt mang tính quyết định chất lượng giáo dục trong nha trường nhưng không phải giáo viên nào cũng có thể đáp ứng được những yêu cầu đó. Vì tất cả lý do trên, là một CBQL rất tâm huyết với nghề dạy trẻ. Tôi nhận thấy trẻ em bây giờ rất thông minh và lanh lợi. Tôi luôn mong muốn đội ngũ giáo viên của tôi truyền đạt thật nhiều những kiến thức bổ ích cho trẻ, tạo mọi cơ hội cho trẻ được trải nghiệm, được tìm tòi, khám phá và chủ động, sáng tạo trong các hoạt động hàng ngày. Là một người hiệu phó phụ trách mảng chuyên môn trong nhà trường, ngày đêm tôi luôn băn khoăn, trăn trở, suy nghĩ làm sao để tìm ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trong trường để thực hiện có hiệu quả chương trình giáo dục mầm non mới, mục tiêu trước mắt là hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học đã đề ra, mục tiêu lâu dài là góp phần vào sự phát triển của đất nước sau này. Với những lý do như vậy, tôi đã mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trong trường Mầm non”. 2. Những hạn chế của đề tài: - Trình độ và kỹ năng sư phạm của giáo viên không đồng đều, một số giáo viên đã lớn tuổi, nhà trường tiếp nhận giáo viên mới tuyển dụng và một số giáo viên hợp Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 4 đồng nên kinh nghiệm giảng dạy, sự nắm bắt, cập nhật về chương trình GDMN mới còn nhiều hạn chế. - Giáo viên chưa thực sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động trong ngày cho trẻ, hình thức tổ chức còn gò bó theo kinh nghiệm, bám theo phương pháp cũ. Chưa phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ. - Cơ sở vật chất của nhà trường phần nào còn chưa đáp ứng được yêu cầu của chương trình GDMN mới. 3. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu một số biện pháp nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trong trường Mầm non Nguyệt Đức – huyện Yên Lạc – tỉnh Vĩnh Phúc. 4. Bản chất cần được làm rõ của đề tài: Nghiên cứu một số biện pháp nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trong trường Mầm non Nguyệt Đức – huyện Yên Lạc – tỉnh Vĩnh Phúc. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc chỉ đạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trong trường. Tìm hiểu, phân tích, nghiên cứu thực trạng đội ngũ giáo viên ở trường mầm non Nguyệt Đức – huyện Yên Lạc – tỉnh Vĩnh Phúc. Phân tích đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp chỉ đạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng chuyên môn trong trường mầm non Nguyệt Đức – huyện Yên Lạc – tỉnh Vĩnh Phúc. 6. Giới hạn nghiên cứu: Do điều kiện thời gian và khuôn khổ của một đề tài, việc nghiên cứu đề tài này chỉ tiến hành ở trường mầm non Nguyệt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc, trong thời gian từ tháng 04 năm 2012 đến tháng 4 năm 2014. Đề tài tập trung chủ yếu vào nghiên cứu các biện pháp xây dựng và nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trong nhà trường. 7. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu việc chỉ đạo, bồi dưỡng chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trường mầm non Nguyệt Đức – huyện Yên Lạc – tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay. 8. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện nhiệm vụ của đề tài tôi đã chọn các phương pháp sau: - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: + Điều lệ trường mầm non Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 5 + Sách hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non các độ tuổi + Tập san giáo dục mầm non + Tạp chí giáo dục mẫu giáo + Các tài liệu bồi dưỡng hè + Các tài liệu khác liên quan đến giáo dục mầm non. - Nhóm phương pháp thực tiễn: + Dự giờ, trao đổi đàm thoại, phỏng vấn, quan sát, nghiên cứu sản phẩm, so sánh kết quả, tổng kết kinh nghiệm chỉ đạo bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trường mầm non Nguyệt Đức – huyện Yên Lạc – tỉnh Vĩnh Phúc. - Nhóm phương pháp nghiên cứu hỗ trợ: + Điều tra, thống kê, bảng biểu. 9. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng đội ngũ giáo viên. Xây dựng, đề xuất và áp dụng những biện pháp nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trường mầm non Nguyệt Đức – huyện Yên Lạc – tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn 2012 - 2014. Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 6 PHẦN II: NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận: “Trẻ em như búp trên cành Biết ăn, ngủ biết học hành là ngoan:” Trẻ mầm non được ví như một tờ giấy trắng. Nếu ta viết lên đó những dòng chữ thẳng hàng với lời hay ý đẹp - trẻ sẽ học cách làm người, còn nếu ta viết những dòng chữ nghệch ngoạc, những điều không hay- trẻ sẽ học cái xấu. Trẻ em dưới 6 tuổi có quyền được đến trường mầm non, được tiếp xúc với cô giáo, bạn bè. Nơi đây, trẻ được yêu thương chăm sóc, được học tập, vui chơi, tìm tòi khám phá, trải nghiệm để thể hiện những sáng tạo của mình. Điều đó có được hay không hoàn toàn phụ thuộc vào sự chăm sóc giáo dục của đội ngũ thầy cô giáo bậc học mầm non. “ Vì lợi ích mười năm trồng cây Vì lợi ích trăm năm trồng người” Câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài, người anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, một danh nhân văn hóa thế giới, đã khắc sâu trong lòng mỗi chúng ta. Dù đi đến đâu chúng ta cũng đều bắt gặp những khẩu hiệu đó của người. Sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức sáng ngời của Người sống mãi trong lòng kính yêu vô hạn của nhân dân Việt Nam. Người mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ chúng ta học tập và noi theo. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII cũng đã nêu: “ Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Hình thành đội ngũ lao động có tri thức, có năng lực thực hành, tự chủ và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội”. Nhà trường đào tạo thế hệ theo hướng toàn diện: “ Đức, Trí, Thể, Mỹ”. Trong chiến lược giáo dục mầm non từ nay đến 2020. Vụ giáo dục mầm non đã nêu: “ Giáo viên là yếu tố quyết định để thực hiện thắng lợi mục tiêu về nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ để đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” Chính vì thế việc nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên Mầm non là biện pháp duy nhất để duy trì và phát triển ngành học. Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 7 2. Điều tra thực trạng. Trường mầm non Nguyệt Đức được thành lập và phát triển trên quê hương giàu truyền thống cách mạng, là một trường có bề dày thành tích, với 49 năm liên tục đạt danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc cấp tỉnh, trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ II, được nhà nước phong tặng Huân chương lao động hạng Nhì, tặng lá Cờ đầu của bậc học MN và là trường trọng điểm chất lượng cao của huyện Yên Lạc. Chính vì lẽ đó mà yêu cầu về trình độ, chất lượng tay nghề của giáo viên phải đồng đều để dạy trẻ ở tất cả các môn học. Việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới đòi hỏi người giáo viên phải nhiệt tình, linh hoạt, tích cực, chủ động sáng tạo trong tổ chức các hoạt động cho trẻ nhằm phát huy được tối đa tính tích cực của trẻ. Muốn thực hiện được điều đó không chỉ đòi hỏi giáo viên phải nắm chắc về nội dung, yêu cầu, phương pháp của chương trình GDMN mới, bên cạnh đó thì đồ dùng, trang thiết bị phục vụ cho việc học tập và vui chơi của trẻ (nhất là trang thiết bị hiện đại) cũng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non. Nếu người quản lý năng động, sáng tạo, tìm ra những biện pháp đúng đắn để tham mưu, bồi dưỡng nâng cao chất lượng chuyên môn cho giáo viên trong trường chắc chắn công tác dạy và học sẽ được cải thiện từng bước, kết quả chăm sóc giáo dục trẻ sẽ được nâng lên. Sau những năm đầu mới triển khai và thực hiện chương trình GDMN mới ở trường, mặc dù tập thể CBQL, GV rất cố gắng trong công tác giảng dạy nhưng kết quả điều tra ban đầu khi chưa áp dụng đề tài cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế: Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 8 - Về giáo viên: Năm học T.S giáo viên 20122013 Kết quả giảng dạy Xây dựng kế hoạch 26 Tổ chức thực hiện T % K % ĐYC % T 15 57,7 9 34,6 2 7,7 13 % K % Hồ sơ sổ sách ĐYC % T % K % ĐYC % 3 11,5 14 53,8 10 38,5 2 7,7 50,0 10 38,5 - Về học sinh: Năm T.S học học Các lĩnh vực phát triển PT thể chất sinh 2012- 431 2013 % PT nhận thức PT ngôn ngữ PT tình cảm - XH PT thẩm mĩ Xếp loại chung T K Đ CĐ T K Đ CĐ T K Đ CĐ T K Đ CĐ T K Đ CĐ T K Đ CĐ 286 81 39 25 257 111 37 26 271 99 38 23 270 102 37 22 272 99 39 21 272 98 38 23 66.4 18.8 9.0 5.8 59.6 8.6 6.0 23.0 8.8 5.3 62.6 23.7 8.6 5.1 63.1 23.0 9.0 4.9 63.1 22.8 8.8 5.3 25. 8 62. 9 Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 9 Nhìn vào kết quả trên, ta có thể thấy chất lượng xây dựng kế hoạch, soạn bài và kết quả tổ chức các hoạt động của giáo viên chưa cao, chưa thực sự đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu của chương trình giáo dục mầm non. Để khắc phục những hạn chế trên đồng thời nâng cao được chất lượng giảng dạy trong nhà trường, tôi đã nghiên cứu, vận dụng và xin mạnh dạn nêu ra đây một số biện pháp để nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên khi thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới. Trong quá trình thực hiện đề tài này tôi gặp một số thuận lợi, khó khăn sau: * Thuận lợi: Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ về diện tích, phòng học, bàn ghế, đồ dùng đồ chơi… Bản thân có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có 12 năm liền đạt CSTĐ cấp huyện – Tỉnh, nắm chắc phương pháp các môn học. Sẵn sàng giải đáp những thắc mắc khi giáo viên cần trao đổi. Vận dụng linh hoạt công nghệ thông tin trong công tác quản lý. Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, say sưa với nghề nghiệp. Được sự ủng hộ nhiệt tình của 2 đồng chí trong BGH, tập thể giáo viên và các bậc phụ huynh trong nhà trường. * Khó khăn: Trình độ và kĩ năng sư phạm của giáo viên không đồng đều, một số giáo viên đã lớn tuổi, nhà trường tiếp nhận giáo viên trẻ mới tuyển dụng, và một số giáo viên hợp đồng nên sự nắm bắt, cập nhật về chương trình giáo dục mầm non mới còn nhiều hạn chế. Giáo viên chưa thực sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động trong ngày cho trẻ, hình thức tổ chức còn gò bó theo kinh nghiệm, bám theo phương pháp cũ. Chưa phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ. Cơ sở vật chất của nhà trường phần nào còn chưa đáp ứng được yêu cầu của chương trình giáo dục Mầm non mới. 3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trong trường Mầm non 3.1. Biện pháp 1: Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, trang bị phương tiện hiện đại phục vụ soạn, giảng, phát động phong trào làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ giảng dạy: 3.1.1. Công tác xã hội hóa giáo dục, trang bị phương tiện hiện đại phục vụ soạn, giảng: Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 10 Để thực hiện đạt kết quả tốt chuyên đề “ Ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục”, tạo điều kiện thuận lợi cho việc soạn bài của giáo viên cũng như tổ chức các hoạt động trong ngày cho trẻ có ứng dụng công nghệ thông tin thì điều kiện trước tiên phải có trang thiết bị hiện đại. Với nội dung đó, tôi đã cùng với Ban giám hiệu nhà trường làm tốt công tác tuyên truyền tới lãnh đạo địa phương, các ban ngành, đoàn thể và các bậc phụ huynh học sinh thông qua các hình thức như: Qua các cuộc họp hội đồng nhân dân, các buổi họp chi bộ thôn xóm, các hội nghị, đặc biệt là qua buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm học. Để chuẩn bị tốt nội dung tuyên truyền và tuyên truyền có hiệu quả tới phụ huynh học sinh, tôi đã chuẩn bị một số nội dung cần tuyên truyền trên Power point và chiếu trên máy chiếu. Trước khi tổ chức cuộc họp, tôi cho phụ huynh xem một số hoạt động của cô và trò trong trường, cho phụ huynh xem một số câu chuyện, hình ảnh dạy trẻ mà tôi đã chuẩn bị trên Powerpoint, sau đó tuyên truyền về ích lợi của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong tổ chức các hoạt động cho trẻ, về kế hoạch, nhiệm vụ của năm học của nhà trường đồng thời vận động phụ huynh cùng các nhà hảo tâm có tấm lòng nhiệt huyết với phong trào của nhà trường mua sắm ti vi, đầu VCD cho các nhóm lớp. Với sự vận động không mệt mỏi của Ban giám hiệu nhà trường, sự quan tâm, ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh, chúng tôi đã trang bị cho mỗi nhóm lớp được một ti vi, đầu VCD ngay từ đầu năm học 2013 – 2014. Không dừng lại ở đó, để tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho giáo viên có thể soạn bài trên máy tính, tôi đã cùng với Hiệu trưởng nhà trường tham mưu với phòng, sở giáo dục đầu tư thêm máy tính phục vụ công tác chuyên môn, khích lệ những chị em có điều kiện mua máy tính cho riêng mình. Kết quả đến nay trong trường đã có tổng số 14 máy bàn, một máy tính xách tay và 3 máy chiếu đa năng phục vụ cho công tác quản lý và chuyên môn của nhà trường, có 21/26 giáo viên trực tiếp đứng lớp đã mua máy tính cho riêng mình. 3.1.2. Phát động phong trào làm đồ dùng đồ chơi phục vụ giảng dạy: Đồ dùng trực quan, đồ chơi là một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả của tiết dạy và các hoạt động vui chơi của trẻ, bởi khi học tập vui chơi trẻ được trực tiếp quan sát giúp trẻ dễ hiểu bài. Trẻ được ngắm nghía, sử dụng, tập làm….từ đó giúp trẻ nhận thức tốt, hiểu biết về thiên nhiên, xã hội, vật nuôi, cây trồng... tạo hứng thú trong hoạt động học, chơi của trẻ. Song song với việc trang bị cho giáo viên và các nhóm/lớp các trang thiết bị hiện đại; để đảm bảo đủ đồ dùng cho cô và trẻ hoạt động theo hướng tích cực đổi mới, tôi đã tham mưu với Hiệu trưởng để tổ chức phát động giáo viên thi đua làm đồ dùng, đồ chơi, tận dụng những nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương như: vỏ chai dầu rửa bát, hộp kẹo, quả cầu lông hỏng, vải vụn… để tạo ra những đồ dùng, đồ chơi phù hợp với lứa tuổi của trẻ theo chủ đề đang thực hiện tại các nhóm/lớp. Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 11 Yêu cầu đặt ra: + Đồ dùng, đồ chơi phải đảm bảo tính sư phạm + Đảm bảo về mặt thẩm mĩ + An toàn khi sử dụng, không sắc nhọn. + Bền và sử dụng được ở nhiều môn học. Thông qua các kế hoạch như: Tổ chức chấm đồ dùng, đồ chơi trang trí lớp vào tháng 9 và tổ chức hội thi đồ dùng đồ chơi vào tháng 2 đã thực sự khích lệ được tinh thần thi đua giữa các giáo viên và nhóm/lớp, tạo thành phong trào thi đua làm đồ dùng, đồ chơi sôi nổi trong nhà trường, đã thu lượm được nhiều kết quả đáng kể: Nhiều đồ dùng, đồ chơi hấp dẫn, sáng tạo được ra đời đã thu hút trẻ ở tất cả các môn học. 3.2. Biện pháp 2: Bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trước khi vào năm học: Mỗi năm học đều phát động các phong trào thi đua khác nhau. Do vậy các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra cho mỗi năm học cũng khác nhau. Kết quả của năm học sau bao giờ cũng được đề ra cao hơn năm học trước. Để đạt được mục tiêu đó thì công tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trước khi vào năm học là một việc cần thiết và quan trọng không thể thiếu được trong các nhà trường. Đã nhiều năm thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới, tuy đã được Sở, Phòng giáo dục mở nhiều lớp tập huấn về cả lý thuyết và thực hành của chương trình GDMN mới, nhưng do trình độ nhận thức và năng lực của giáo viên trong trường không đồng đều, môi trường để giáo viên tiếp xúc, học hỏi cái mới còn rất hạn chế, dẫn đến kết quả vận dụng vào thực tế giảng dạy chưa cao. Vì vậy, sau mỗi đợt tổ chức cho giáo viên đi tập huấn, khi về trường tôi đã tổ chức tập huấn lại cho giáo viên trong trường bằng cách giao bài tập cụ thể cho từng giáo viên. Tôi yêu cầu mỗi giáo viên phải tự xây dựng một chủ đề, trong đó bao gồm: xây dựng mục tiêu, mạng nội dung, mạng hoạt động của chủ đề và kế hoạch cụ thể của một tuần. Sau khi kiểm tra lại bài tập mà giáo viên đã xây dựng, tôi thấy phần lớn giáo viên trong trường đã biết cách xác định mục tiêu của chủ đề, song phần xây dựng mạng nội dung và mạng hoạt động vẫn có giáo viên còn nhầm lẫn (sử dụng từ chưa đúng, chưa bám sát vào các tài liệu để xây dựng cho đúng độ tuổi và đảm bảo đủ nội dung). Để khắc phục tình trạng đó, tôi đã tổ chức tập huấn cho giáo viên tại trường, tôi cho chị em tham khảo kế hoạch của một số chủ đề mà tôi đã xây dựng và cùng xem lại những chủ đề mà giáo viên xây dựng còn nhầm lẫn, sau đó cho giáo viên cùng nhau thảo luận về những bài tập đó, tìm ra những điểm còn hạn chế trong chính bài tập của mình. Về phía tôi, tôi nắm bắt ý kiến của giáo viên, sau đó phân tích, giảng giải giúp chị em hiểu rõ. Có thể xây dựng một số tiết dạy mẫu để Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 12 giáo viên học tập. Được thảo luận, tự mình tìm tòi những điểm đúng, sai, được hướng dẫn cách vận dụng một số tài liệu vào việc xây dựng kế hoạch, và được dự tiết dạy thực hành giáo viên đã hiểu rõ vấn đề và có thể tự mình xây dựng được kế hoạch và thực hiện trên nhóm/lớp của mình một cách đầy đủ, phù hợp và dễ dàng nhất. Thực hiện nhiệm vụ trọng tâm năm học: "Đổi mới công tác quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục", việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong soạn giảng là yếu tố rất quan trọng. Cuối năm học trước, tổng số giáo viên trong trường soạn bài trên máy tính mới chưa đến 70%, có rất nhiều lý do dẫn đến việc giáo viên không thể thực hiện việc soạn bài trên máy tính được: Không có máy, không biết sử dụng máy, ngại và sợ không làm được... Nắm bắt được điều đó, tôi đã tham mưu với hiệu trưởng nhà trường mua thêm máy phục vụ tổ chuyên môn, khích lệ những chị em có điều kiện mua máy tính cho riêng mình, đồng thời tổ chức hướng dẫn giáo viên soạn bài trên máy tính. Khi giáo viên nắm được lý thuyết, vận dụng vào thực hành còn có điều gì khúc mắc tôi sẵn sàng giải đáp và đôi khi còn đến tận nhà để chỉnh sửa giúp chị em. Với sự nhiệt tình của bản thân, sự chăm chỉ, tận tình học hỏi và ý thức vươn lên của giáo viên trong trường, năm học 2013-2014 đã có 100% giáo viên trong trường trực tiếp đứng lớp soạn bài trên máy tính. Ngoài việc soạn bài trên máy tính, tôi còn tổ chức cho giáo viên đứng lớp tham dự chuyên đề “thiết kế giáo án điện tử” trong nhà trường và đến nay 80% giáo viên có thể tự mình thiết kế những giáo án điện tử đơn giản, phù hợp với đề tài của nhóm lớp, một số giáo viên trẻ còn tích cực khai thác các thông tin trên mạng internet để đưa vào trong tổ chức các hoạt động cho trẻ. 3.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn giáo viên xây dựng kế hoạch giảng dạy phù hợp với từng nhóm, lớp. Chương trình là căn cứ để giáo viên dựa vào đó lên kế hoạch tổ chức các hoạt động hàng ngày theo đúng kế hoạch. Việc xây dựng kế hoạch giảng dạy theo chương trình giáo dục mầm non mới không hề đơn giản, không chỉ đòi hỏi đảm bảo những nội dung, kiến thức theo độ tuổi trẻ phải đạt được, mà trong khi xây dựng kế hoạch cần phải chú ý đến điều kiện thực tế của địa phương, của nhóm/lớp và dựa vào nhận thức của trẻ lớp mình. Nhận thấy giáo viên thực sự lúng túng khi lên kế hoạch cho nhóm/lớp mình, tôi đã tổ chức cho chị em một buổi chuyên đề với nội dung xây dựng kế hoạch phù hợp với từng nhóm, lớp. Trước khi buổi chuyên đề diễn ra, tôi yêu cầu giáo viên chuẩn bị đầy đủ sách hướng dẫn và yêu cầu giáo viên đọc những cuốn sách này. Trong buổi chuyên đề, tôi cùng giáo viên thảo luận về cách lên các chủ đề cho năm học, cách sắp xếp cho phù hợp các lĩnh vực trong ngày xen kẽ nhau cho phù hợp, đảm bảo kế hoạch một tuần hoạt động học có đủ cả năm lĩnh vực (đối với mẫu giáo) và đủ bốn lĩnh vực (đối với nhà trẻ), hai ngày gần Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 13 nhau không bị trùng lặp về lĩnh vực phát triển, chủ đề.. Sau đó, tôi cho giáo viên của từng độ tuổi tập trung theo các nhóm để cùng lên kế hoạch cho độ tuổi mình chủ nhiệm. Giáo viên sôi nổi thảo luận, tìm tòi trong sách hướng dẫn, cẩn thận lên kế hoạch cho từng chủ đề (yêu cầu các nhóm xây dựng các chủ đề cho cả năm học, chú ý phù hợp với điều kiện thực tế, thời gian phù hợp: ví dụ: chủ đề "Nghề nghiệp" có thể xây dựng vào tháng 11- có ngày nhà giáo việt nam, hoặc tháng 12 có ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, chủ đề "Tết - mùa xuân" phải xây dựng vào thời điểm trước tết, trong tết và có thể sau tết một tuần....), sau đó mỗi chủ đề phải xác định rõ các mạng chủ đề sao cho không bị trùng lặp..., xây dựng các đề tài cần bám sát vào hứng thú, kiến thức, kĩ năng và khả năng của trẻ... Sau khi các khối lớp xây dựng xong, tôi cùng các đồng chí tổ trưởng chuyên môn kiểm tra lại và đi đến thống nhất. Một điểm mở trong thực hiện kế hoạch đã xây dựng là trong quá trình tổ chức thực hiện các chủ đề, nếu giáo viên khai thác, tìm tòi được những đề tài mới, đề nghị nhà trường cho vận dụng, tôi sẽ xem xét nếu đề tài đó phù hợp với độ tuổi và chủ đề giáo viên đang thực hiện thì đồng ý và duyệt cho giáo viên vận dụng vào tổ chức. Không chỉ có vậy tôi còn bồi dưỡng cho giáo viên các nội dung sau: + Bồi dưỡng về cách trình bày giáo án khoa học + Bồi dưỡng cách xác định nội dung, mục đích yêu cầu, kiến thức, kỹ năng truyền thụ cho trẻ ở bài dạy, tiết dạy. + Bồi dưỡng về phương pháp, nghệ thuật lên lớp, cách chuyển tiếp. + Bồi dưỡng cách tổ chức trò chơi động – tĩnh + Bồi dưỡng cách xử lý tình huống sư phạm. + Cách bố trí, sắp xếp đồ dùng khoa học, sử dụng các loại đồ dùng, đồ chơi có hiệu quả đảm bảo tính giáo dục. + Xây dựng tiết dạy mẫu, dự giờ, thăm lớp, rút kinh nghiệm, nhân điển hình sau khi hoàn chỉnh triển khai toàn thể giáo viên trong trường. 3.4. Biện pháp 4: Nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chuyên môn. Nếu ví nhà trường là một xã hội thu nhỏ thì tổ chuyên môn chính là gia đình - tế bào của xã hội đó. Nếu tế bào đó khoẻ mạnh, phát triển thì sẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Trong tổ chuyên môn thì người tổ trưởng giữ vai trò quan trọng. Một người tổ trưởng năng động, sáng tạo, nhiệt tình, vững chuyên môn là yếu tố cần thiết thúc đẩy sự phát triển và bền vững của tổ mình. Nhận thức được điều đó, tôi luôn chú ý lựa chọn, bồi dưỡng cho đội ngũ tổ trưởng chuyên môn từng khối, để Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 14 họ trở thành cánh tay đắc lực hỗ trợ tôi trong việc quản lý, nâng cao chất lượng cho đội ngũ giáo viên. Để làm được việc đó, tôi thường xuyên trao đổi với tổ trưởng chuyên môn các khối về chương trình giáo dục mầm non mới, giải đáp những thắc mắc của tổ trưởng đồng thời cung cấp thêm những kinh nghiệm của bản thân để tổ trưởng nắm chắc hơn về chuyên môn, có một số kĩ năng tổ chức hoạt động của tổ đạt kết quả cao. Tổ chức cho tổ trưởng đi kiểm tra, dự giờ giáo viên để tổ trưởng nắm bắt được năng lực của từng giáo viên, từng nhóm/lớp trong tổ của mình, từ đó qua hoạt động sinh hoạt chuyên môn sẽ có những biện pháp để giúp đỡ chị em nâng cao tay nghề làm tốt hơn nhiệm vụ của mình. Chỉ đạo cho tổ trưởng thực hiện nghiêm túc việc tổ chức sinh hoạt chuyên môn của tổ theo định kỳ mỗi tháng 2 lần vào tuần 2 và tuần 4, tôi hướng dẫn tổ trưởng cách tổ chức cuộc họp có chất lượng: Đánh giá thật cụ thể, sát thực những công việc nổi bật hay còn hạn chế trong tổ, thảo luận về chủ đề đang hoặc sắp thực hiện xem phù hợp chưa? Cần điều chỉnh những gì? Tổ chức cho chị em làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ giảng dạy, học hát những bài hát mới trong chương trình. Tổ chức thảo luận về chủ đề, cách xây dựng mục tiêu, mạng nội dung, mạng hoạt động của từng chủ đề. Thống nhất chung phương pháp tổ chức các đề tài mới không có hướng dẫn cụ thể trong tài liệu, thảo luận, bàn bạc để tìm những hình thức tổ chức phong phú, mới lạ, hấp dẫn trẻ để vận dụng trong tổ chức các hoạt động trong ngày đạt hiệu quả cao. Thường xuyên tham dự các buổi sinh hoạt chuyên môn ở các tổ, cùng với tổ trưởng giải đáp những vướng mắc trong thực hiện chương trình, cùng xây dựng hoạt động cho những đề tài mà chị em còn cảm thấy vướng mắc. Tổ chức cho giáo viên bình bầu thi đua hàng tháng và gửi kết quả về nhà trường, BGH nhà trường và hội đồng trường sẽ xét duyệt lại kết quả đó. Để các tổ bình bầu được sát thực với những cố gắng của chị em, hàng tháng, trước khi các tổ bình bầu, tôi gửi về các tổ kết quả đánh giá theo biểu mẫu quy định của ngành, đồng thời bám vào chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non để đưa ra các mặt: Kết quả hồ sơ sổ sách, giờ dạy, các chuyên đề, trang trí lớp, đồ dùng đồ chơi, thực hiện thời gian biểu, bài kiểm tra lý thuyết (tháng nào có thì gửi kèm theo)... Các tổ sẽ dựa trên kết quả đó, cùng với kết quả kiểm tra của tổ trưởng và dựa vào 5 tiêu chí thi đua trong quy chế hoạt động của nhà trường để bình bầu cho kết quả sát thực nhất. Nhờ thực hiện tốt quy chế chuyên môn, phát huy được khả năng của cá nhân và tập thể mà trong hội thi giáo viên dạy giỏi các cấp, giáo viên đã có thể tự mình vận dụng vào giảng dạy và đạt kết quả tương đối cao. Trong hội thi giáo viên giỏi Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 15 cấp huyện đã có giáo viên đạt giải nhất, cấp tỉnh có 1 giáo viên đạt giải nhì. Cuộc thi “Bé ngoan – Bé thông minh” cấp huyện có 1 học sinh đạt giải Nhất. Tất cả các cuộc thi đã mang lại thành tích cao cho tập thể nhà trường. 3.5. Bồi dưỡng chuyên môn giáo viên qua tổ chức hội thi, các chuyên đề, và thi viết sáng kiến kinh nghiệm: 3.5.1. Tổ chức hội thi: Ý nghĩa của việc tổ chức hội thi nhằm cọ sát, khích lệ sự thi đua giữa các giáo viên trong trường. Thông qua hội thi, giáo viên được thể hiện mình trước tập thể, được học hỏi những điều mới, những sáng tạo của chị em trong, ngoài trường. Với sự đánh giá kết quả công bằng, chính xác đối với từng giáo viên, nhóm/ lớp sẽ là động lực thúc đẩy, kích cầu chị em cố gắng hơn nữa để "bằng chị, bằng em" trong trường. Mỗi năm học tôi tham mưu với Hiệu trưởng để xây dựng kế hoạch tổ chức 2 đến 3 hội thi lấy thành tích chào mừng các ngày lễ lớn trong năm như: ngày 20/11, ngày 8/3, ngày 30/4 và 1/5…Thi chủ yếu về giảng dạy, và thi làm đồ dùng đồ chơi, văn nghệ... Với hội thi giảng dạy, để đạt kết quả cao, tôi ra đề và tổ chức cho chị em bốc đề tài trước 3 ngày, yêu cầu tổ chuyên môn họp và cùng giáo viên trong tổ xây dựng bài dạy, khuyến khích giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới hình thức tổ chức, có nhiều sáng tạo trong tiết dạy đạt kết quả cao nhất. Khi giáo viên có đề tài và xây dựng khung bài dạy, tôi cũng đã dự giờ tập dạy của chị em, góp ý để chị em soạn, giảng có hiệu quả hơn. Kết quả qua hội thi GVG cấp trường, với sự cố gắng của toàn thể đội ngũ giáo viên trong trường, đã có 23/26 giáo viên tham dự hội thi được công nhận là giáo viên dạy giỏi cấp trường, hội thi giáo viên dạy giỏi cấp huyện, hai năm liền đều có giáo viên đạt giải Nhất, giải Nhì, cấp tỉnh có 1 giáo viên đạt giải Nhì, kỳ thi học sinh cấp huyện có 1 học sinh đạt giải Nhất. Với hội thi “đồ dùng, đồ chơi”, khích lệ giáo viên thi đua làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo có chất lượng mà an toàn, giá thành rẻ, phù hợp với chủ đề và nhóm/lớp. 100% giáo viên trong trường tích cực, hưởng ứng tham gia, toàn trường đã dấy lên một phong trào thi đua thật sôi động. Kết quả, các nhóm/lớp có thêm rất nhiều đồ dùng, đồ chơi để phục vụ cho việc học tập và vui chơi của cô và trẻ. Hội thi cũng đã lựa chọn được các lớp xứng đáng đạt giải và được trao thưởng. Phần thưởng tuy không nhiều nhưng đã khích lệ, động viên chị em, và sau mỗi hội thi như vậy giáo viên sẽ cố gắng để đạt kết quả cao hơn ở những lần thi sau. Ngoài ra, để nâng cao ý thức tự học, tự bồi dưỡng và phát triển nhận thức, kĩ năng của giáo viên, tôi đã tham mưu với Hiệu trưởng nhà trường, với lãnh đạo địa phương tạo cơ hội, điều kiện để giáo viên đi dự giờ, tham quan học hỏi kinh nghiệm nâng cao ở trường bạn như: tham quan trường mầm non Đông Ngạc A – Hà Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 16 Nội, dự các chuyên đề: Toán, âm nhạc, văn học…ở các trường bạn trong huyện. Nhờ việc thường xuyên được giao lưu, học hỏi mà tôi thấy kiến thức, kinh nghiệm và khả năng tổ chức các hoạt động của giáo viên trường tôi có sự cải biến đáng kể. 3.5.2. Tổ chức xây dựng và bồi dưỡng các chuyên đề: Bên cạnh công tác bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên nhà trường thì công tác chỉ đạo, bồi dưỡng các chuyên đề cho các giáo viên cũng rất được coi trọng. Qua tiếp thu các chuyên đề tại phòng, sở, khi về trường tôi xin ý kiến hiệu trưởng và đã trực tiếp tổ chức bồi dưỡng các chuyên đề đến các giáo viên. Mỗi chuyên đề được triển khai cụ thể theo một quy trình như sau: - Bước 1: Triển khai toàn bộ nội dung chuyên đề( về lý thuyết) cần bồi dưỡng đến tất cả giáo viên trong trường. - Bước 2: Tổ chức thực hành, xây dựng tiết dạy mẫu để tất cả giáo viên được trực tiếp quan sát, theo dõi và học tập. - Bước 3: Tổ chức rút kinh nghiệm, so sánh giữa lý thuyết và thực hành, có điều gì cần bổ sung, ưu điểm, tồn tại, hoàn hiện tiết mẫu và đưa ra những biện pháp thực hiện trong toàn trường. - Bước 4: Chỉ đạo thực hiện - Bước 5: Kiểm tra thực hiện chuyên đề, điều chỉnh, bổ sung những mặt ưu điểm, khắc phục mặt tồn tại. - Bước 6: Tổng kết, bài học kinh nghiệm, hướng khắc phục thực hiện sau chuyên đề. Cụ thể: Để giải quyết những khúc mắc và nâng cao năng lực chuyên môn của giáo viên về nội dung chương trình giáo dục mầm non mới, cũng như những hình thức tổ chức hoạt động cho trẻ sáng tạo thì biện pháp tích cực nhất là tổ chức chuyên đề hàng tháng. Trước hết cần tổ chức kịp thời, có hiệu quả các chuyên đề trong năm học: Chuyên đề phát triển vận động, chuyên đề Môi tường thân thiện – học sinh tích cực và giáo dục bảo vệ môi trường, chuyên đề giáo dục sử dung năng lượng tiết kiệm hiệu quả.... Mặt khác, qua kiểm tra đánh giá thấy giáo viên còn hạn chế mặt nào hay sau cuộc họp chuyên môn của các tổ, giáo viên thấy cần bổ sung, thống nhất và lĩnh vực gì thì tổ trưởng sẽ đề nghị lên BGH nhà trường, nhà trường sẽ chỉ đạo tổ chức chuyên đề về lĩnh vực đó mỗi tháng một lần. Để chuyên đề đạt kết quả tốt, tôi giao cho tổ trưởng cùng giáo viên trong tổ có nhiệm vụ phải giúp đỡ người được giao dạy chuyên đề những thứ cần thiết như: chuẩn bị đồ dùng, lựa chọn địa điểm... Sau khi cho chị em được dự chuyên đề thì tiến hành rút kinh nghiệm thật cụ thể những mặt ưu điểm, những hạn chế của tiết dạy để đi đến thống nhất chung cho các giờ dạy tiếp theo. Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 17 3.5.3. Bồi dưỡng giáo viên xác định những kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ ở lứa tuổi mầm non: Đối với trẻ lứa tuổi mầm non thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi bước vào lớp 1. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải được học ngay từ thời gian đầu của ngưỡng cửa mầm non như: Sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ. Bồi dưỡng giáo viên nội dung những kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ: - Kỹ năng sống tự tin: Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi. - Kỹ năng sống hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát, giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông, chia sẻ cùng làm việc với các bạn. - Kỹ năng kích thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ trong giai đoạn này là sự khát khao được học. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò, tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được. - Kỹ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết, làm toán,….Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó , trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẵn sàng học hỏi, khám phá, trải nghiệm mọi thứ. Ngoài ra, ở trường Mầm non, giáo viên cần dạy trẻ ý thức văn hóa trong ăn uống, đồng thời dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính độc lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh hoặc khi tay bẩn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, thìa, cốc….hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết xuất, không làm ảnh hưởng đến người xung quanh. Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 18 3.5.4. Tổ chức thi viết sáng kiến kinh nghiệm: Tổ chức phong trào viết sáng kiến kinh nghiệm giúp cho giáo viên củng cố lại lý thuyết, nắm vững lý luận và tổng hợp lại những việc đã làm trong một năm công tác, nhằm tích lũy được nhiều kinh nghiệm cho bản thân. Mặt khác bản sáng kiến kinh nghiệm của những giáo viên thực sự có nhiều sáng tạo, đề tài hay, mới lạ sẽ được áp dụng và nhân rộng cho toàn bộ đội ngũ giáo viên trong trường học tập. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. 3.6. Biện pháp 6: Đổi mới công tác kiểm tra - dự giờ: Kiểm tra, dự giờ giáo viên là một việc làm cần thiết. Đầu năm học ta cần xây dựng cụ thể kế hoạch kiểm tra. Mỗi lần kiểm tra, ta có thể đánh giá giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non thông qua rất nhiều mặt: Thực hiện quy chế chuyên môn, trang trí lớp, tổ chức các hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh... Đối với việc dự giờ giáo viên, dù dưới hình thức báo trước hay đột xuất thì qua mỗi giờ dạy ta có thể đánh giá được trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kĩ năng sư phạm của giáo viên được thể hiện qua giảng dạy, khả năng vận dụng phương pháp giảng dạy và giáo dục từ đó có biện pháp hỗ trợ chuyên môn kịp thời tới mỗi giáo viên. Trong mỗi giờ dự, ta có thể đánh giá giáo viên tập trung ở các nội dung như: Chuẩn bị của giáo viên trước khi lên lớp (giáo án, đồ dùng), chất lượng giảng dạy của giáo viên qua việc tổ chức các hoạt động, chú ý ở tính sáng tạo, linh hoạt của cô và tính tích cực của trẻ. Sau khi dự giờ người kiểm tra cần nhận xét, góp ý khích lệ những ưu điểm nổi bật đồng thời chỉ ra những hạn chế cần khắc phục của giáo viên và đánh giá vào sổ kiến tập dự giờ có ký tên người kiểm tra và người được kiểm tra. Việc dự giờ giáo viên được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng tôi chú trọng hơn đến việc dự giờ đột xuất. Nếu giáo viên vững chuyên môn, có ý thức chấp hành tốt nội quy, quy chế của nhà trường, quy chế chuyên môn thì chất lượng sẽ tốt, còn giáo viên nào chuyên môn chưa vững, cùng với sự qua loa đại khái khi tổ chức các hoạt động giáo dục thì sẽ thể hiện ngay trên chất lượng giáo dục của lớp mình. Đánh giá giáo viên qua dự giờ cần chính xác, kết quả dự giờ sẽ là một trong những tiêu chí đánh giá thi đua hàng tháng để giáo viên cố gắng hơn, phấn đấu để đạt kết quả cao hơn trong những hoạt động tiếp theo. Ngoài ra kết quả của các tiết dạy, tổ chức hoạt động, bài kiểm tra lý thuyết… còn được sử dụng để các tổ bình bầu thi đua hàng tháng. Sau khi dự giờ, với những tiết dạy có hình thức tổ chức hoạt động phong phú, mới lạ, thu hút và phát huy tối đa được tính tích cực, sáng tạo của trẻ, tôi tổ chức cho giáo viên trong tổ học tập, có thể tổ chức thành chuyên đề để nhân rộng các tiết dạy có hình thức tổ chức hay đó ra toàn trường. Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 19 4. Kết quả đạt được sau khi áp dụng đề tài: Qua một thời gian áp dụng một số biện pháp trên để nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trong trường, đến nay trường tôi đã đạt được những kết quả đáng khích lệ: 100% giáo viên soạn giảng đúng phương pháp mới, có nhiều sáng tạo trong tổ chức hoạt động cho trẻ, so với năm học trước số giáo viên soạn bài trên máy tính tăng 30% số hoạt động có ứng dụng công nghệ thông tin tăng đáng kể; trẻ nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin và chất lượng trên trẻ được nâng lên rõ rệt thông qua bảng thống kê dưới đây: Tạ Thị Tơ MN Nguyê êt Đức – Yên Lạc – Vĩnh Phúc 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng