Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo lớn tích cực tham gia vào hoạt động khám...

Tài liệu Skkn một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo lớn tích cực tham gia vào hoạt động khám phá khoa học

.DOC
43
1193
141

Mô tả:

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO HUYỆN THANH OAI TRƯỜNG MẦM NON TÂN ƯỚC MÃ SKKN  SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN SÁNG KIẾN: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ MẪU GIÁO LỚN 5 - 6 TUỔI TÍCH CỰC THAM GIA VÀO HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ KHOA HỌC TRONG TRƯỜNG MẦM NON” Lĩnh vực : Phát triển nhận thức Tên tác giả : Vũ Thị Thu Hà Chức vụ : Giáo viên Đơn vị công tác : Trường mầm non Tân Ước Năm học: 2014 – 2015 1 MỤC LỤC STT NỘI DUNG Phần I: Phần mở đầu 1 Tên đề tài 2 Lý do chọn đề tài a Cơ sở lý luận b Cơ thực tiễn 3 Mục đích của đề tài 4 Đối tượng nghiên cứu: 5 Đối tượng khảo sát và phương pháp nghiên cứu 6 Phạm vi thực hiện đề tài Phần II: Nội dung của đề tài I Đánh giá thực trạng của đề tài 1 Đặc điểm chung a Thuận lợi b Khó khăn 2 Thực trạng trước khi thực hiện đề tài II Những biện pháp thực hiện 1 Biện pháp 1: Tự học hỏi, trau dồi kiến thức để nâng cao kỹ năng chuyển tải về hoạt động khám phá khoa học. 2 Biện pháp 2: Sưu tầm một số thí nghiệm giúp trẻ tích cực tham gia khám phá khoa học. 3 Biện pháp 3: Gây hứng thú cho trẻ “ khám phá khoa học” Thông qua hình thức tổ chức tiết học. 4 Biện pháp 4: Nâng cao kiến thức khám phá khoa học cho trẻ thông qua hoạt động ngoài trời. 5 Biện pháp 5: Phối kết hợp với phụ huynh để nâng cao nhận thức khám phá khoa học cho trẻ. III Kết quả thực hiện có so sánh đối chứng: 2 TRANG STT NỘI DUNG 1 Giáo viên 2 Phụ huynh 3 Đối với trẻ 3 Bảng so sánh có đối chứng Phần III: Kết luận và kiến nghị I Kết luận II Bài học kinh nghiệm III Ý kiến đề xuất: Phần IV: Tài liệu tham khảo I Tài liệu tham khảo 3 TRANG SƠ YẾU LÝ LỊCH Họ và tên Sinh ngày Chức vụ Đơn vị công tác Trình độ chuyên môn Hệ đào tạo Khen thưởng cao nhất : Vũ Thị Thu Hà : 12/ 08/ 1979 : Giáo viên : Trường Mầm Non Tân Ước : Trung cấp : Chính quy : Giáo viên giỏi cấp trường 4 PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài: 1. Cơ sở lí luận: Giáo dục Mầm Non là ngành học mở đầu trong hệ thống giáo dục quốc dân, chiếm vị trí quan trọng trong ngành giáo dục, Giáo dục Mầm non có nhiệm vụ xây dựng những cơ sở ban đầu, đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách con người. Trẻ em là hạnh phúc của mọi gia đình, là tương lai của cả dân tộc, việc bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ không phải chỉ là trách nhiệm mỗi gia đình mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Giáo dục mầm non là thời điểm mấu chốt và quan trọng nhất, tất cả mọi việc đều bắt đầu: Bắt đầu ăn, bắt đầu nói, bắt đầu nghe, nhìn và vận động bằng đôi chân, đôi tay của mình.... Tất cả những cử chỉ đó đều làm nên những thói quen, kể cả thói xấu. Như vậy ngay từ tuổi ấu thơ trẻ Mầm Non đặc biệt là trẻ 56 tuổi đang ở những bước phát triển mạnh về nhận thức, tư duy, ngôn ngữ, tình cảm ..... Thế giới khách quan xung quanh thật bao la rộng lớn, có biết bao điều mới lạ hấp dẫn, và còn có bao lạ lẫm khó hiểu, trẻ tò mò muốn biết, muốn được khám phá ... và việc đưa hoạt động “Khám phá khoc học" vào trong trường mầm non đã góp phần không nhỏ vào việc giáo dục thế hệ trẻ phát triển toàn diện hơn. Trước tốc độ phát triển của khoa học công nghệ, giáo dục trẻ nói chung và giáo dục mầm non nói riêng cũng không ngừng nghiên cứu đổi mới phương pháp, nội dung dạy học để đáp ứng nhu cầu dân trí của thời đại. Chương trình đổi mới cho phép người giáo viên phát huy hết khả năng linh hoạt và sáng tạo của mình trong công việc vận dụng những hiểu biết, những tri thức khoa học vào việc giáo dục trẻ. Từ những tính chất vật lí, hóa học của những sự vật hiện tượng quen thuộc trong tự nhiên mà chúng ta có thể tiến hành những thí nghiệm nhỏ, những trò chơi khoa học vui... Qua đó, trẻ mầm non bắt đầu được tìm hiểu những điều kì thú trong thế giới xung quanh, được tận mắt nhìn thấy những biến hóa của sự vật hiện tượng mà có lẽ trẻ tưởng chừng chỉ có trong những câu chuyện cổ tích. Hơn thế, nhờ vào những thí nghiệm có tính minh chứng này, chúng ta có thể áp dụng vào trong giảng dạy để giải thích cho trẻ một cách rõ ràng và thuyết phục nhu cầu khám phá của trẻ, vừa kích thích khả năng tư duy tiềm ẩn trong mỗi cá nhân trẻ. Từ đó giáo dục trẻ phát triển toàn diện hơn. 2. Cơ sở thực tiễn: Khám phá khoa học là quá trình trẻ tích cực tham gia hoạt động thăm dò, tìm hiểu thế giới tự nhiên. Đó là quá trình quan sát, so sánh , phân loại thử nghiệm, dự đoán, suy luận, thảo luận giải quyết vấn đề , đưa ra quyết định ... Khám phá khoa học nhằm giúp trẻ, nuôi dưỡng, phát triển trí tò mò tự nhiên của trẻ về thế giới. Mở rộng trau dồi các kỹ năng quan sát, so sánh, phân loại ... Nâng cao hiểu biết của trẻ về thế giới tự nhiên. 5 Việc cho trẻ tham gia hoạt động khám phá khoa học .Giúp trẻ phát triển tư duy kích thích tính tò mò và mong muốn khám phá mọi sự vật hiện tượng xung quanh.Là cơ hội để trẻ bộc lộ nhu cầu và khả năng nhận thức của bản thân. Khám phá còn giúp trẻ được thực hành các kỹ năng quan sát, so sánh, phân tích tổng hợp ... Hình thành ở trẻ nền tảng kiến thức phong phú. Trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ tôi nhận thấy một số trẻ lớp tôi còn rụt rè, nhút nhát trong việc tham gia vào hoạt động khám phá, chưa biết cách diễn đạt ý nghĩ của mình, chưa biết tham gia thực hành một số thí nghiệm, kỹ năng diễn đạt những vốn tri thức qua giao tiếp với cô và các bạn khi tham gia làm những thí nghiệm về hoạt động khám phá trong lớp còn hạn chế, chưa hứng thú và chủ động tham gia tìm hiểu và khám phá. Hơn thế nữa hoạt động “khám phá khoa học” còn là một hoạt động khó đòi hỏi phải có kiến thức chính xác, cách truyền đạt khoa học, để hướng dẫn giúp trẻ hiểu những kiến thức về khám phá khoa học là vấn đề rất khó khăn, đặc biệt có một số bộ phận phụ huynh còn coi nhẹ việc học tập của con em mình làm ảnh hưởng đến kết quả học tập của trẻ. Chính vì vậy, là một giáo viên dạy lớp 5-6 tuổi, tôi luôn băn khoăn trăn trở. Làm thế nào để giúp trẻ tích cực tham gia vào hoạt động “khám phá khoa học” một cách tốt nhất, để tạo tâm thế cho trẻ khi bước vào bậc tiểu học và đón nhận những tri thức mới. Do vậy tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo lớn 5-6 tuổi tích cực tham gia vào hoạt động khám phá khoa học trong trường mầm non” 3. Mục đích của đề tài: - Giúp trẻ 5- 6 tuổi tích cực tham gia vào hoạt động " Khám phá khoa học", mạnh dạn, tự tin có và có khả năng nắm vững được những kiến thức sơ đẳng, ban đầu về khám phá. - Giúp các đồng nghiệp, các bậc phụ huynh có thêm kiến thức và kinh nghiệm để giáo dục trẻ đạt hiệu quả cao 4.Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo lớn 5-6 tuổi tích cực tham gia vào hoạt động khám phá khoa học trong trường mầm non. 5. Đối tượng khảo sát, phương pháp nghiên cứu: * Đối tượng khảo sát: - 100% trẻ 5-6 tuổi trong lớp A2- Trường Mầm Non Tân Ước * Phương pháp nghiên cứu: - Khi tiến hành nghiên cứu đề tài tôi đã sử dụng những phương pháp sau: + Phương pháp quan sát: Quan sát thực hành của trẻ để đánh giá thực trạng 6 + Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích nguyên nhân của những tồn tại để có biện pháp khắc phục. + Phương pháp dùng lời nói: Sử dụng lời nói để giải thích cho trẻ hiểu một số khái niệm đơn giản phám phá khoa học. + Phương pháp sử dụng toán thống kê: Sử dụng phương pháp để tính tỷ lệ % cháu đạt và chưa đạt theo các tiêu chí đánh giá. 6. Phạm vi của đề tài: - Đề tài được tiến hành từ tháng 9/2014 -> 4/2015 tại lớp A2 - Trường Mầm non Tân Ước. PHẦN II. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI 1.Nội dung lý luận nghiên cứu. Khám phá khoa học là một môn học khó. Khoa học không chỉ là kiến thức mà còn là quá trình hay con đường tìm hiểu, khám phá thế giới vật chất, khám phá thế giới tự nhiên. Khám phá khoa học với trẻ nhỏ là quá trình tích cực tham gia hoạt động thăm dò, tìm hiểu thế giới tự nhiên. Do trẻ lứa tuổi mầm non là nhanh nhớ mau quên, thích tham gia vào hoạt động nhưng cũng chóng chán. Nhiều trẻ trong lớp còn nhút nhát, chưa mạnh dạn tham gia vào giờ học. Nên nhiệm vụ của giáo viên phải làm thế nào để giúp trẻ tiếp cận và tích cực khám phá, làm thế nào để trẻ hiểu rằng xung quanh chúng còn rất nhiều điều mới lạ mà chúng chưa khám phá hết được, làm thế nào để thế hệ trẻ thơ hiểu được những điều lớn lao mà thiên nhiên mang lại cho con người. Để có sự phát triển và hướng tới một nền giáo dục toàn diện như Bác Hồ đã từng nói: “ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây Vì lợi ích trăm năm phải trồng người ” Ngay từ nhỏ trẻ đã được tiếp xúc với ông, bà, cha mẹ.....Và các sự vật hiện tượng đến nhận thức xung quanh. Tất cả những cái trẻ nhìn thấy đều ảnh hưởng đến nhận thức của trẻ, dần dần trẻ có được những khái niệm giản đơn nhất về thế giới xung quanh có nhu cầu muốn tìm tòi, khám phá về tính chất, đặc điểm của sự vật hiện tượng. Xuất phát từ nhu cầu đó mà việc cho trẻ tham gia vào hoạt động khám phá khoa học là nhu cầu cần thiết và làm sao để những giờ học đó trở nên thú vị, không khô khan với trẻ. Khám phá khoa học mang lại nguồn biểu tượng vô cùng phong phú, đa dạng, đầy sinh động với trẻ thơ, từ môi trường tự nhiên ( cỏ cây, hoa lá, chim muông..) đến môi trường xã hội ( công việc của mỗi người trong xã hội, mối quan hệ của con người với nhau…) và trẻ hiểu biết về chính bản thân mình. Khám phá khoa học đòi hỏi trẻ sử dụng tích cực các giác quan chính vì vậy sẽ phát triển ở trẻ năng lực quan sát, khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp.. Nhờ vậy khả năng cảm nhận của trẻ sẽ nhanh nhạy, chính xác, những biểu tượng, kết quả trẻ thu nhận được trở nên cụ thể, sinh động và hấp dẫn hơn. Qua những thí nghiệm nhỏ trẻ được tự mình thực 7 hiện và trong độ tuổi mầm non sẽ hình thành ở trẻ những biểu tượng về thiên nhiên chính là cơ sở khoa học sau này của trẻ. 2. Đánh giá thực trạng của đề tài : a. Đặc điểm chung: Năm học 2014- 2015 được sự phân công của ban giám hiệu nhà trường tôi dạy lớp 5- 6 tuổi. Học theo chương trình đổi mới với sĩ số là 36 trong đó có 19 cháu là nam , 17 cháu là nữ. 100% số trẻ trong lớp đã học qua lớp 4 tuổi.Trong nhóm có 2 giáo viên chủ nhiệm. * Thuận lợi: Có phòng học và cơ sở vật chất đầy đủ, trang thiết bị dạy học để giảng dạy tại nhóm lớp như: Đàn, tivi, đầu DVC...Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban Giám Hiệu nhà trường cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình trong công tác giảng dạy của chị em đồng nghiệp. Bản thân thật sự yêu nghề, giàu lòng yêu thương trẻ. Luôn có ý thức học hỏi vươn lên trong công tác chăm sóc giáo dục.Thường được tham gia các chuyên đề do phòng giáo dục và nhà trường tổ chức, dự giờ của đồng nghiệp, nên việc học hỏi kiến thức được nâng cao rõ rệt. *Khó khăn: Khám phá khoa học là một môn học khó, trừu tượng đối với cả việc cung cấp kiến thức của cô và tiếp thu kiến thức của trẻ. Bản chất của trẻ lứa tuổi mầm non là nhanh nhớ mau quên, thích tham gia vào hoạt động nhưng cũng chóng chán. Nhiều trẻ trong lớp còn nhút nhát, chưa mạnh dạn tham gia vào hoạt động. Việc sử dụng một số đồ dùng khi tham gia hoạt động thử nghiệm của trẻ còn nhiều hạn chế. Một số phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc cho trẻ tham gia vào hoạt động khám phá khoa học và chưa thực sự quan tâm đến việc học của trẻ ở cấp bậc mầm non. b. Thực trạng trước khi thực hiện đề tài: Khi chưa thực hiện đề tài một số trẻ còn rất nhút nhát, chưa mạnh dạn và không thích tham gia vào hoạt động " Khám phá khoa học", chưa có những kiến thức, kỹ năng khi tham gia tiến hành những thí nghiệm đơn giản cùng cô và các bạn. Việc tổ chức hoạt động khám phá chưa có sáng tạo, hình thức tổ chức chưa phong phú, chưa thu hút trẻ tích cực tham gia vào hoạt động. Chính vì vậy, sau khi nhận lớp và ổn định nề nếp cho trẻ, tôi đã tiến hành khảo sát 100% trẻ trong lớp với các tiêu chí như sau: Số liệu điều tra trước khi thực nghiệm STT Nội Dung Mức độ đạt được Số trẻ 1 Trẻ hứng thú tham gia vào 8 10/36 Tỷ lệ ( %) 27,7 STT Nội Dung Mức độ đạt được Số trẻ Tỷ lệ ( %) hoạt động phám phá khoa học 2 Trẻ thích được nói lên ý kiến của bản thân khi tham gia vào hoạt động khám phá. 8/36 22,2 3 Khả năng nắm vững kiến thức và kỹ năng thực hành của trẻ. 11/36 30,5 4 Khả năng tham gia thực hành một số thí nghiệm khoa học đơn giản. 7/36 19,4 II. Những biện pháp thực hiện: 1.Biện pháp 1: Nâng cao trình độ chuyện nghiệp vụ cho bản thân. Để phục vụ cho nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ, đòi hỏi người giáo viên mầm non phải có phẩm chất, trình độ, năng lực và nhân cách nhà giáo, lòng nhân ái tận tuỵ thương yêu trẻ, thể hiện ở tinh thần tự học, tự bồi dưỡng cải tiến nội dung phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ tham gia tích cực các hoạt động. Từ nhận thức trên là một giáo viên mầm non, tôi đã xác định việc tự bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao trình độ chuyên môn cho bản thân là một trong những nhiệm vụ quan trọng, mà mình không được phép sao lãng, phải bằng mọi cách để chính bản thân mình phải có đủ trình độ năng lực, sức khỏe, mẫu mực, có đủ khả năng chăm sóc giáo dục trẻ theo yêu cầu hiện nay. Với tấm lòng yêu nghề, mến trẻ, với tinh thân tự vươn lên trong công tác mà bản thân tôi đã đặt ra kế hoạch, mục tiêu và phương trâm phấn đấu cho riêng mình cụ thể như sau: + Trình bày rõ ràng, ngôn ngữ (nói và cử chỉ dẫn) chính xác, trong sáng, có củng cố khắc sâu khi dạy trẻ đặc biệt là dạy trẻ khám phá khoa học. + Sử dụng đồ dùng dạy trẻ khám phá khoa học hợp lý. + Biết hướng dẫn trẻ tham gia hoạt động thí nghiệm, khám phá. + Biết tổ chức cho trẻ tham gia làm việc nhiều ở lớp, theo nhóm. Mọi trẻ đều được hoạt động theo khả năng của mình. + Biết gợi mở, hướng dẫn để trẻ tự tìm tòi kiến thức, có nhiều biện pháp phát huy tính chủ động của trẻ khi cho trẻ tham gia khám phá. + Quan tâm đến các trẻ trong mọi hoạt động. 9 + Tiến trình tiết dạy hợp lý, thu hút được chú ý của trẻ, phân phối thời gian thích hợp cho các phần, các khâu, giữa hoạt động của cô và trò. + Quan hệ cô trò thân ái. + Đánh giá hiệu quả tiết dạy thông qua kết quả học tập của trẻ. + Trẻ hăng hái và có nề nếp học tập tốt, hầu hết biết trả lời những yêu cầu, nội dung cô đưa ra ở mỗi hoạt đông khám phá. Để có được những phương trâm dạy học tốt như trên thì bản thân tôi phải tự đặt ra một lịch trình bồi dưỡng về chuyên môn cho bản thân một cách khoa học và thường xuyên nhất. Tham gia các lớp bồi dưỡng về “khám phá khoa học” do Phòng Giáo Dục và nhà trường tổ chức. Tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn do nhà trường tổ chức.Trước mỗi buổi sinh hoạt chuyên môn tôi thường xuyên tìm tòi và nghiên cứu trước những vấn đề còn vướng mắc trong quá trình chuyển tải kiến thức về hoạt động “khám phá khoa học” để cùng chị em trong tổ tháo gỡ và tìm ra hướng giải quyết đạt hiệu quả. Nâng cao hơn về kỹ năng soạn giáo án điện tử về hoạt động “khám phá khoa học” thông qua các lớp học thêm về vi tính vào buổi tối. Và một số giáo án như “ Khám phá quá trình phá triển của cây từ hạt”, Khám phá quá trình tạo mưa”, “Khám phá gió tự nhiên và gió nhân tao” ... Học tập qua việc xây dựng một số chuyên đề mẫu do nhà trường và các tổ, khối xây dựng.Với sự lỗ lực không ngừng tôi còn thường xuyên phối hợp với chị em trong khối mẫu giáo đặc biệt là khối Mẫu giáo lớn xây dựng một số chuyên đề mẫu như: “Khám khá quá trình phát triển của cây”, “Khám phá sự biến đỗi của mầu”, “Khám phá gió tự nhiên và gió nhân tạo”, “Khám phá Một số loại rau” ... Tự nâng cao trình độ chuyên môn thông qua hội thi giáo viên giỏi cấp trường. Thực tế cho thấy rằng việc tổ chức phong trào thi giáo viên dạy giỏi có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên; bởi vì khi tham gia thi giáo viên dạy giỏi đòi hỏi giáo viên phải suy nghĩ, nghiên cứu nội dung chương trình kỹ hơn, tìm tòi những phương pháp, biện pháp lên lớp thật linh hoạt, sáng tạo trong khi lên lớp, tạo những tình huống mới lạ để trẻ tập trung chú ý hơn, hứng thú trong giờ học. Và một điều quan trọng hơn đây là đợt sinh hoạt, giao lưu học hỏi, trao đổi về chuyên môn nghiệp vụ. Ngoài việc tham gia các lớp học bồi dưỡng về chuyên môn, các hội thi do nhà trường tổ chức thì việc dự giờ chéo thường xuyên của chị em đồng nghiệp trong tổ khối cũng là một việc làm hết sức quan trọng và đạt hiệu quả cao. Mỗi buổi dự giờ của bạn cũng là việc tự nâng cao trình độ về năng lực chuyên môn cho bản thân, từ giờ dạy của bạn, bản thân tôi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm và học tập được nhiều cái hay cái mới của bạn để bổ sung thêm vào hành trang tri thức cho mình. 10 Hình ảnh 1: Giáo viên Vũ Thị Thu Hà tham gia dự giờ hoạt động khám phá quá trình tạo mưa của đồng nghiệp trong khối. Xây dựng một số giờ dậy mẫu về hoạt động ‘ Khám phá khoa học” cho chị em trong trường tham dự và rút kinh nghiệm cho bản thân. Không quản ngại khó khăn, không ngại khó với mỗi giờ dạy trước khi lên lớp tôi đều giành một thời gian đủ để nghiên cứu cách truyền tài kiến thức đến cho trẻ dễ hiểu và thu hút trẻ tham gia vào hoạt động sôi nổi nhất. Như vậy không chỉ học ở các lớp học chuyên đề, không chỉ tham quan dự giờ chị em là bản thân đã dạy trẻ tốt hơn, nếu như không thật sự chịu khó, không tự học hỏi để biến những điều tích lũy được thành kiến thức của mình và lan tỏa đến với trẻ thì tất cả việc học tập sẽ trở thành vô nghĩa, với lý do này mà bản thân tôi thiết nghĩ không ai có thể giúp mình bằng chính sự nỗ lực của bản thân, đó là biến những tri thức học được thành của mình bằng cách nào?. Bằng cách mỗi khi ta tiếp thu được cái mới, ta tự xây dựng lên tiết dạy của chính mình với sự lỗ lực biến tri thức học được thành của mình và nhờ chị em đồng nghiệm dự giờ và đánh giá tiết dạy của mình xem kết quả có như mình mong muốn hay không. Mỗi ngày một cố gắng, mỗi giờ một lỗ lực . Qua biện pháp “Tự học hỏi, trau dồi kiến thức để nâng cao kỹ năng chuyển tải về hoạt động khám phá khoa học.” trong năm qua bản thân tôi đã có nhiều chuyển biến về phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động “khám phá khoa học” để thu hút trẻ tham gia hoạt động, và thực sự trẻ lớp tôi đã không còn nhút nhát khi tham gia vào giờ học. 2. Biện pháp 2: Sưu tầm một số thí nghiệm giúp trẻ tích cực tham gia khám phá khoa học: 11 Ngày nay khoa học kỹ thuật đã có những bước tiến quan trọng vì vậy đối với trẻ nhỏ nhất, là trẻ lứa tuổi mầm non thì việc trang bị cho trẻ những kiến thức bao quát và chính xác về các lĩnh vực của tự nhiên là rất cần thiết. Tuy nhiên như chúng ta đã biết không phải thí nghiệm nào cũng cũng là một phát minh, không có phát minh nào là không có thí nghiệm, Những thí nghiệm nhỏ, đơn giản, dễ tiến hành nhưng lại hiệu quả vì nó giúp trẻ sẽ có điều kiện để suy nghĩ, khám phá những bí ẩn của cuộc sống. Chính vì vậy việc cho trẻ trực tiếp tham gia những trò chơi thí nghiêm hay những bài tập thí nghiệm giúp trẻ có một vốn kiến thức vô cùng phong phú về thế giới xung quanh mình, bên cạnh đó nó còn giúp trẻ hứng thú, say mê tham gia vào hoạt đông học hơn. 2.1 Một số thí nghiệm với cây và hạt: * Thí nghiệm 1: Trong hạt có gì? - Mục đích: Giúp trẻ biết đặc điểm của hạt, trong hạt có mầm cây, nếu gieo hạt và chăm sóc hạt sẽ nảy mầm thành cây. - Chuẩn bị: Một số loại hạt như hạt lạc, hạt đỗ ... - Cách tiến hành: Ngâm hạt vào nước ấm, ủ hạt qua đêm. Cho trẻ đoán xem trong hạt có gì? Bóc vỏ hạt và tách ra làm đôi. Trẻ quan sát và nhận xét xem bên trong có gì ( Cô cho trẻ tự làm và nói kết quả). Cô giải thích: Trong hạt có cây con tí xíu, cây con tí xíu đó chính là mầm cây, nếu gieo hạt xuống đất mầm cây sẽ mọc thành cây to. * Thí nghiệm 2: Gieo hạt. Mục đích: Trẻ nhận biết cây mọc từ hạt. Chuẩn bị: Các loại hạt, đậu, lạc ... Một số chậu nhỏ có đất. Bình tưới nước. Cách tiến hành: Ngâm hạt vào nước ấm khoảng 2-3 tiếng rồi lấy ra. Gieo hạt vào 2 chậu( hình ảnh 2 ), Hàng ngày cô và trẻ cùng chăm sóc tưới cho một chậu ( chậu số 2) và tại chậu này hạt sẽ nảy mầm, còn chậu kia ( chậu số 1) không tưới nước hạt sẽ không này mầm. Cho trẻ đoán và giải thích: hạt gieo vào 2 chậu. Chậu số 2 thì nẩy mầm còn chậu số 1 không nẩy mầm. Cô giải thích: Trong hạt có thức ăn cho cây non, và trong chậu số 2 có nước uống cho cây nên cây đã nẩy mầm.( hình ảnh 3) 12 Hình ảnh 2: Cô cho trẻ tham gia thí nghiệm gieo hạt Hình ảnh 3: Cô và trẻ cùng quan sát hạt nảy mầm ở chậu số 2 và hạt không nảy mầm ở chậu số 1. 13 * Thí nghiệm 3: Sự phát triển của cây từ hạt. Mục đích: Giúp trẻ nhận biết được quá trình phát triển của cây. Chuẩn bị: Các loại hạt đỗ, đậu... Chậu nhỏ và dụng cụ làm đất. Cách tiến hành: Cô và trẻ cùng làm đất cho vào chậu, cô cho trẻ gieo hạt vào chậu, đặt chậu nơi có ánh sáng. Hàng ngày cô dẫn trẻ theo dõi và tưới nước cho chậu cây, hướng dẫn trẻ cùng cô ghi lại quá trình phát triển của cây. Cô giải thích thích và kết luận: Cô cho trẻ tự khái quát lại 5 quá trình phát triển của cây mà cô và trẻ đã cùng trẻ ghi lại được.( hình ảnh 4) Hình ảnh 4: cô và trẻ cùng quan sát cây trưởng thành * Thí nghiệm 4: Cây cần có nước. Mục đích: Trẻ nhận biết đặc điểm của cây. Biết điều kiện sống của cây, cây cần gì để sống. Biết chăm sóc và bảo vệ cây xanh. Chuẩn bị: 2 chậu cây. Cách tiến hành: Cô để 2 chậu cây cạnh nhau, một chậu cây cô và trẻ cùng tưới nước còn chậu kia không tưới nước, sau một thời gian cô và trẻ cùng quan sát xem điều gì sẽ xảy ra và cho trẻ tự nói lên kết quả đã xảy ra. Cô giải thích và kết luận: Cây cần có nước để sống nếu thiếu nước cây sẽ bị vàng lá, héo úa và lâu ngày cây sẽ chết. 2.2. Một số thí nghiệm với nước: *Thí nghiệm 5: Khám phá về nước (Quan sát mô tả về nước) Mục đích: Nhận biết đặc điểm của nước như: Màu sắc, mùi vị của nước. 14 Chuẩn bị: Bồn nước hoặc chậu nhựa. Đổ nước vào các vật chứa nước đã chuẩn bị. Một số cốc nước sạch. Cách tiến hành: Cô cho trẻ quan sát chậu nước và hỏi trẻ: Nước trông như thế nào? Nước có mầu gì? Điều gì xảy ra khi chuyển động tay trong nước? ... Cho trẻ uống nước và hỏi trẻ về vị của nước như thế nào? Cho trẻ ngửi nước và hỏi trẻ mùi của nước? Con cảm thấy nước thế nào?... Điều gì sẽ xảy ra khi cho tay vào nước?, điều gì sẽ xảy ra khi cho tay ra khỏi nước? ... Kết luận: Nước là một chất lỏng không mùi, không vị, có mầu trắng... * Thí nghiệm 6: Nước với các chất lỏng. Mục đích: Trẻ phân biệt được các lớp chất lỏng khác nhau. Nhận biết lớp siro nặng hơn nước nên chìm xuống dưới, lớp dầu nhẹ hơn nước và siro nên nổi lên trên cùng, còn lớp nước ở giữa. Chuẩn bị: 1 chai dầu ăn, 1chai nước, 1 chai siro. 3 ly thủy tinh, khay. Các thẻ mầu đỏ trắng vàng. Cách tiến hành: (Để trẻ dễ quan sát, cô tổ chức cho trẻ quan sát theo nhóm) Cho trẻ quan sát và gọi tên 3 chai đựng dung dịch. Chọn chất lỏng ở chai 1 đổ vào ly nước, cho trẻ chọn chất lỏng thứ 2 đổ vào ly nước và trẻ tự đoán nó sẽ đứng ở chỗ nào trong cái ly nước. Làm tương tự với chất lỏng thứ 3 ( siro ), ( hình ảnh 5) Cho trẻ quan sát vị trí của các lớp chất lỏng trong ly nước để rút ra kết luận: Lớp siro nặng hơn nước nên chìm xuống dưới cùng, lớp nước nhẹ hơn siro nhưng nặng hơn dầu ăn lên ở giữa, lớp trên cùng là lớp dầu ăn vì dầu nhẹ hơn nước và siro. ( hình ảnh 6) Sau khi cô và trẻ cùng thí nghiệm và rút ra kết luận cô cho trẻ tham gia thí nghiệm theo nhóm, mỗi nhóm sẽ thay đổi vị trí của các lớp chất lỏng khi đổ vào nước để thí nghiệm và tự rút ra kết luận. 15 Hình ảnh 5: Cô và trẻ tham gia thí nghiệm với các chất lỏng Hình ảnh 6: Cô và trẻ tham gia thí nghiệm với các chất lỏng * Thí nghiệm 7: Sử dụng bàn tay trong nước: Mục đích: Nhận biết được tác dụng của nước đối với việc vận động trong nước. Chuẩn bị: Bồn chơi nước hay chậu nhựa to. Đổ nước vào chậu. Cách tiến hành: Cho trẻ cho tay vào chậu nước và cô yêu cầu trẻ vỗ tay, di chuyển, đẩy ... trong nước. Điều gì xảy ra khi chuyển động bàn tay trong nước? 16 Có thể đẩy nước ra xa không? Điều gì sẽ xảy ra khi đánh nhẹ vào nước? Cho trẻ vốc nước bằng 2 tay và buông tay cho nước rơi xuống. Điều gì xảy ra khi nước rơi xuống? ( Nhảy lên, tạo sóng, phát âm...) * Thí nghiệm 8: Quả Trứng thần kỳ. Mục đích: Trẻ biết nước muối mặn hơn nước thường khi chưa cho muối, quả trứng có thể nổi trong nước muối và chìm trong nước ngọt ( nước thường) Chuẩn bị: 2 cốc thủy tinh, 2 quả trứng, nước ngọt, nước muối. Cách tiến hành: (Để trẻ dễ quan sát, cô tổ chức cho trẻ quan sát theo nhóm) Cho trẻ đánh dấu 2 cốc nước, đổ muối vào cốc nước thứ 2 ( khoảng 10 thìa cà phê), khuấy đều. Sau đó thả 2 quả trứng vào 2 cái cốc. Trẻ quan sát xem điều gì sẽ xảy ra. ( hình ảnh 7) Kết luận: Quả trứng nổi trong nước muối vì trứng nhẹ hơn nước muối, nhưng quả trứng sẽ chìm trong nước ngọt vì nó nặng hơn nước ngọt. ( hình ảnh 8) Hình ảnh 7: Cô và trẻ tham gia quá trình thí nghiệm quả trứng thần kỳ 17 Hình ảnh 8: Cô và trẻ tham gia nhận xét kết quả thí nghiệm quả trứng thần kỳ * Thí nghiệm 9: Que diêm thần kỳ. Mục đích: Trẻ nhận biết cục đường hút nước, cục xà phòng làm dãn lớp da bề mặt nước. Chuẩn bị: Que diêm, chậu nước sạch, xà phòng, cục đường. Cách tiến hành: (Để trẻ dễ quan sát, cô tổ chức cho trẻ quan sát theo nhóm) Đặt các que diêm trên mặt nước, nhúng cục đường vào giữa chậu. Các con thấy hiện tượng gì xảy ra? ( Các que diêm sẽ chạy về phía cục đường). Tiếp tục nhúng xà phòng vào giữa chậu nước. -> Các con thấy điều kỳ diệu gì? ( Các que diêm sẽ chạy xa cục xà phòng) (Hình ảnh 9) Kết luận: Khi đặt cục đường vào giữa chậu nước thì nó hút nước vào. Còn khi đặt xà phòng vào giữa chậu nước, nó làm dãn lớp da bề mặt nước khiến các que diêm bị đẩy ra xa. 18 Hình ảnh 9: cô và trẻ tham gia thí nghiệm que diêm thần kỳ. * Thí nghiệm 10: Các vật nổi và chìm trong nước. Mục đích: Trẻ nhận biết được một số vật nổi và chìm trong nước. Chuẩn bị: Chậu đựng nước, sỏi, kẹp quần áo, nắp nhựa, mẫu gỗ ... Cách tiến hành:Cho trẻ cầm đồ dùng và hỏi trẻ nếu thả những đồ dùng này vào chậu nước thì đồ dùng nào nổi, đồ dùng nào sẽ chìm trong nước. Cho trẻ thả các vật đó vào nước và cho trẻ quan sát. Các con thấy vật nào nổi trong nước? Còn những vật nào chìm trong nước? (Hình ảnh 10) Kết luận: Các đồ dùng nhẹ như nhựa, giấy, bông... sẽ nổi trong nước. Còn những vật nặng như sỏi ... sẽ chìm trong nước. 19 Hình ảnh10: Cô và trẻ tham gia thí nghiệm vật nổi, vật chìm trong nước. 2.3 Một số thí nghiệm với không khí và ánh sáng: * Thí nghiệm 11: Vì sao ngọn nến tắt? Mục đích: Trẻ nhận biết không khí làm cho nến cháy được, không có không khí thì nến sẽ tắt. Chuẩn bị: 2 cái cốc, 2 cây nến, 1 tờ giấy bạc đã đục lỗ, và một tờ giấy bạc còn nguyên. Cách tiến hành: (Để trẻ dễ quan sát, cô tổ chức cho trẻ quan sát theo nhóm) Cô đặt 2 cây nến vào trong 2 cái cốc, đốt nến cho trẻ thấy 2 cây nến đang cháy. Cho trẻ quan sát 2 tờ giấy bạc đã chuẩn bị . Các con thử đoán xem điều gì sẽ xảy ra khi cô dùng 2 tờ giấy bạc này bịt lên 2 cốc nến đang cháy. Cô dùng 2 tờ giấy bạc bịt lên 2 cốc nến đang cháy. Cho trẻ quan sát và nhận xét hiện tượng xảy ra ( 1 ngọn nến tắt, 1 ngọn nến tiếp tục cháy). Cho trẻ thảo luận: Vì sao ngọn nến tắt? Kết luận: Cốc nến đang cháy là cốc được bịt bằng tờ giấy bạc đục lỗ, không khí vẫn lọt vào được bên trong cốc. Cốc có nến bị tắt, bị bịt bằng tờ giấy bạc không đục lỗ, không khí không lọt vào bên trong được nên cây nến sẽ bị tắt. * Thí nghiệm 12: Vì sao nước trong cốc không chảy ra. Mục đích: Nhận biết về không khí. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan