Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi kể lại chuyện diễn cảm....

Tài liệu Skkn một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi kể lại chuyện diễn cảm.

.DOC
56
3519
119

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM I HÀ NỘI KHOA: GIÁO DỤC MẦM NON BÀI TẬP TỐT NGHIỆP Tên đề tài “MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY TRE MẪU GIÁO 5-6 TUỔI KỂ LẠI CHUYỆN DIỄN CẢM GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS ĐINH HỒNG THÁI GIÁO SINH NGHIÊN CỨU : PHẠM THỊ HẢI LỚP : ĐHMN KHÓA 2 MỤC LỤC PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU: I. Lý do chọn đề tài II. Lịch sử vấn đề. III. Phạm vi nghiên cứu. IV. Mục đích nghiên cứu V. Nhiệm vụ nghiên cứu . VI. Phương pháp nghiên cứu . VII. Giả thuyết khoa học . PHẦN II: NỘI DUNG: Chương I: Thực trạng dạy trẻ 5-6 tuổi kể lại chuyện I. Khái quát quá trình điều tra thực trạng. dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm . II. Phân tích kết quả điều tra. III. Kết quả điều tra. Chương II: cơ sở lý luận của đề tài: I. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mẫu giáo liên quan đến việc tiếp nhận truyện và kể lại chuyện diễn cảm . II. Cơ sở giáo dục . III. Cơ sở ngữ văn. Chương III: Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi kể lại chuyện diễn cảm . I. Những vấn đề lưu ý trong việc dạy trẻ kẻ lại chuyện diễn cảm II. Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi kể lại chuyện diễn cảm . III. Thực nghiệm và phân tích kết quả thực nghiệm . Phần III: Kết luận. PHẦN I PHẦN MỞ ĐẦU. I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Là loại hình nghệ thuật , văn học giữ vai trò to lớn trong việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ. Dẫn dắt trẻ vào thế giới văn học là nhiệm vụ quan trọng của trường mầm non . Đó là sự mở cửa cho trẻ những bước đi chập chững đầu tiên vào thế giới những giá trị phong phú chứa đựng trong tác phẩm văn học . Sự tiếp xúc đầu tiên của trẻ mẫu giáo với tác phẩm văn học được chọn lọc, nhất là những câu chuyện kể sẽ kích thích ở trẻ sự nhạy cảm thẩm mỹ , sự phát triển ngôn ngữ , trí tuệ. Văn học góp phần hình thành tình cảm đạo đức cho trẻ. ở lứa tuổi mẫu giáo việc hình thành và phát triển hoạt động văn học là một hình thức quan trọng để phát triển tính tích cực cá nhân, tính độc lập, sáng tạo của trẻ. Trẻ thơ lứa tuổi bắt đầu của sự nhận thức và những tình cảm mãnh liệt, giữa các em và những câu chuyện, các nhân vật trong truyện có sự đồng điệu về tâm hồn về tính cách, các em thích nghe kể chuyện và thích kể lại chuyện. Các em đến với những câu chuyện, những nhân vật trong truyện với tất cả những tình cảm, những rung động ngọt ngào nhất, say mê nhất, đồng cảm nhất. Chính vì thế những câu chuyện có vai trò rất lớn góp phần hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Những câu chuyện là một phần của cuộc sống gợi lên cho trẻ những xúc cảm lành mạnh, giúp trẻ nhận biết thế giới xung quanh, những mối quan hệ giữa con người với con người… góp phần giáo dục thẩm mỹ và phát triển ngôn ngữ nghệ thuật cho trẻ. Nhờ đó trẻ này sinh năng lực tự hoạt động nghệ thuật khi tiếp xúc với những câu chuyện. Dạy trẻ kể lại chuyện là một dạng thức tiết học tổ chức cho trẻ tự hoạt động văn học nghệ thuật. Tổ chức cho trẻ hoạt động trong đó có tự hoạt động văn học nghệ thuật sẽ làm giàu nhân cách trẻ. Chỉ có để trẻ hoạt động thì mới phát triển được tính tích cực của cá nhân, giúp trẻ cảm thụ văn học đặc biệt là những câu chuyện một cách rõ nét và có cảm xúc. Thực tế việc dạy trẻ mẫu giáo kể lại truyện diễn cảm hiện nay, do chưa hiểu thật đầy đủ cơ sở khoa học của môn học, do chương trình còn chưa hướng dẫn một cách cụ thể nên giáo viên thực hiện dạng thức tiết học này còn tùy tiện, dẫn đến hiệu quả chưa cao. Chưa đáp ứng được yêu cầu và mục đích giáo dục . Vấn đề nắm vững phương pháp , biện pháp thực hiện có cơ sở khoa học trở nên là một vấn đề quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục . Không có gì tham vọng lớn ở đề tài này, dựa trên thành tựu của những người đi trước, người viết đưa ra và hệ thống hóa một số biện pháp xây dựng cơ sở lý luận cho dạng thức tiết học này ( cụ thể là tiết dạy trẻ kể lại chuyện) và ứng dụng vào một vài tiết cụ thể, hy vọng góp một vài ý kiến nhỏ vào hệ thống lý luận và trực tiễn vào phương pháp dạy học mới“ cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học” nhằm nâng cao chất lượng giáo dục . II/ LỊCH SỬ VẤN ĐỀ: Bước đầu tìm hiểu vấn đề này tôi đã được tiếp xúc với một số công trình nghiên cứu và thấy rằng một số tác giả ( trong và gnoài nước) đã quan tâm đến vấn đề này: 1. “ Văn học và phương pháp giúp trẻ làm quen với tác phẩm văn học” Do tác giả : Cao Đức Tiến ( chủ biên)cùng với Nguyễn Đắc Diệu Lam, lê Thị ánh Tuyết- Hà nội 1992. 2. Cuốn “đọc và kể chuyện văn học ở vườn trẻ” Tác giả : M-K Bogoliupxkaia VV. SðptenKô- Lê Đức Mẫn dịch- NXBGD1992. 3. “ Giáo dục trẻ mẫu giáo qua truyện và thơ” Tác giả Nguyễn Thu ThủyNXBGD- 1986. 4. “ Tiếng Việt- văn học và phương pháp giáo dục” Tác giả : Lương Kim Nga, Nguyễn Thị Thuận , Nguyễn Thu Thủy- 1988. 5. “ Chương trình chăm sóc giáo dục mẫu giáo và hướng dẫn thực hiện” Tác giả - Trần Đình Trọng, Phạm Thị Sửu- NXBGD – 1994. 6. Cuốn “ Phát triển ngôn ngữ cho trẻ em dưới tuổi học đường” của E.I TiKieva (NXBGD-1917) 7. Cuốn “ Phát triển ngôn ngữ của XôKhina-Phamoskva do Nguyễn ánh Tuyết và Lê Thị Ninh dịch. 8. Cuốn “ Phát triến tiếng cho trẻ mẫu giáo” của Nguyễn Xuân Khoa. 9 Gần đây nhất là cuốn “ Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” Của Hà Nguyễn Kim Giang. Các công trình này đã đề cập đến một số vấn đề: Vị trí văn học trong việc giáo dục , các phương pháp đọc thơ, kể chuyện, các thủ thuật đọc diễn cảm, kể chuyện diễn cảm , các tác phẩm chọn làm mẫu. Đồng thời các tác giả chỉ mới định hướng và đưa ra một số phương pháp chung cơ bản, cụ thể hơn chúng ta có thể nhìn lại các tác phẩm nghiên cứu về vấn đề này: 1- “ Cuốn phát triển ngôn ngữ cho trẻ em lứa tuổi học đường” của E.ItiKhiêva (NXBGD- 1917) Tác giả đã nhấn mạnh đến vai trò của việc thực hiện nhiệm vụ kể chuyện, dạy trẻ kể lại chuyện Đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ- Hình thức dạy trẻ kể lại chuyện chính là con đường đúng đắn nhất để dạy ngôn ngữ cho trẻ. 2- “ Cuốn đọc và kể chuyện văn học ỏ vườn trẻ” của tác giả MKbogolaupskaia- V.VseptenKo do Lê Đức Mẫn dịch (NXBGD 1976)Tác giả nhẫn mạnh: “ Kể chuyện văn học là một loại hình nghệ thuật phức tạp, để có thể kể chuyện hay đòi hỏi người kể phải nắm thành thạo các thủ thuật đọc, kể văn học : ngắt giọng, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt…” 3. “ Giáo dục trẻ mẫu giáo qua truyện và thơ” Tác giả Nguyễn Thu Thủy (NXBGD- 1976) - Sách được cấu tạo theo 3 chương: Trong chươngII: Kể và đọc truyện cho trẻ mẫu giáo tác giả đã đề cập đến một số vấn đề: + Tìm hiểu tác phẩm văn học đó là các tác phẩm văn xuôi: - Tác phẩm văn học dân gian Việt Nam. - Truyện do các nhà văn trong và ngoài nước viết cho trẻ, truyện dân gian các nước. + Kể và đọc truyện cho trẻ nghe:(chú ý đến cường độ dân vang của giọng. Ngắt giọng, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt…) + Dạy trẻ kể lại truyện : được tiến hành qua các bước: giáo viên giới thiệu tác phẩm ,giúp trẻ hiểu tác phẩm . Các phương pháp thể hiện khi kể chuyện cho trẻ là trực quan( ảnh, tranh vẽ, mô hình, rối, và những khung cảch thiện nhiên gần gũi xung quanh trẻ) và đàm thoại giới thiệu tác phẩm, đàm thoại để hiểu tác phẩm ,ở đây chúng ta thấy tác giả đã đưa ra một số phương pháp chung. Tuy vậy đã đưa ra một số phương pháp chung. Tuy vậy vấn đề chúng tôi quan tâm là hoạt động của trẻ chỉ được nhắc tới rất ít 4- “Văn học và phương pháp giúp trẻ làm quen với tác phẩm văn học “ của Cao Đức Tiến , Nguyễn Đắc Diệu Lam, Lê Thị ánh Tuyết- Hà Nội 1993 Ở phần thứ VI: Phương pháp giúp trẻ làm quen với tác phẩm văn học tác giả đã đề cập đến: - Các thủ thuật đọc và kể diễn cảm . - Các phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. - Các hình thức tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học . Tác giả đã nêu ra một số vấn đề: Các thủ thuật kể diễn cảm bao gồm (Xác định và sử dụng đúng giọng điệu cơ bản, ngắt giọng, nhịp điệu, cường độ giọng, cử chỉ…) Dạy trẻ kể lại chuyện: trong tiết học việc dạy trẻ kể lại truyện được tiến hành theo trình tự ( Gây hứng thú cho trẻ bằng con rối) , tranh ảnh, đàm thoại thật ngắn để dẫn dắt đến câu chuyện, Giới thiệu tên câu chuyện, tiếp đó cô kể diễn cảm truyện 2-3 lần- tóm tắt nộ dung câu chuyện sau đó dặt hệ thống câu hỏi theo nội dung câu chuyện. Kết thúc giờ học có thể cho trẻ vẽ các nhân vật trong truyện. Điều đáng chú ý là tác giả đã đề cập đến một vài thủ thuật đọc và kể diễn cảm Tuy nhiên vấn đề mà chúng tôi quan tâm là dạng thức tiết học dạy trẻ kể lại chuyện và đề ra một số biện pháp hữu hiệu cho dạng thức tiết học này thì hầu như chỉ thoáng qua trong tác phẩm . 5- “ Tiếng Việt- Văn học và phương pháp giáo dục” của tác giả Lương Kim Nga, Nguyễn Thị Thuận, Nguyễn Thu Thủy ( NXBGD-1988) Ở chương thứ IV tác giả đã đề cập đến cách dạy trẻ đọc thuộc thơ, kể lại chuyện và tiến hành các loại bài thơ cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học Chương này tác giả đã nêu ra một số vấn đề: - Tác dụng: Khi dạy trẻ đọc thuộc thơ , kể lại chuyện chúng ta đã dạy trẻ cách thể hiện những xúc cảm về tác phẩm văn học. Điều kiện cần có để trẻ đọc thuộc thơ, kể lại chuyện: Những câu chuyện, bài thơ mà trẻ có thể kể lại và đọc thuộc phải phù hợp với trình độ của trẻ. Trẻ phải được nghe hoặc đọc diễn cảm nhiều lần giúp trẻ nhớ và bắt chước cách đọc hoặc kể của cô giáo . - Yêu cầu đối với cô giáo khi sử dụng phương pháp dạy trẻ kể lại chuyện và đọc thuộc thơ: + Dạy trẻ kể lại chuyện: phải được tiến hành thường xuyên, có thể cho trẻ kể lại theo các đọan, cô kể các đoạn dẫn, cô cho trẻ kể lại các đoạn đối thoại. + Khi dạy trẻ kể lại chuyện giáo viên cần: có nhận xét, uốn nắn, thể hiện đúng tính cách của các nhân vật điều chủ yếu là trẻ phải biết sử dụng ngôn ngữ văn học kết hợp với ngôn ngữ của trẻ để kể lại. Chương V: nghệ thuật đọc diễn cảm tác phẩm văn học. - khái niệm đọc, kể diễn cảm : đọc và kể diễn cảm tác phẩm văn học là sự tái tạo lại tác phẩm một cách sáng tạo - nghệ thuật diễn cảm chia làm hai giai đoạn * Giai đoạn một: chuẩn bị cho việc kể diễn cảm bao gồm : lựa chon tác phẩm tìm hiểu tác phẩm, để xác định giọng kể cho phù hợp * Giai đoạn hai: kể diễn cảm tác phẩm : người kể phải nắm được phương tiện chủ yếu để thể hiện tác phẩm( giọng điệu, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt…). Ở đây chúng ta thấy nhà nghiên cứu đã chú ý tới việc dạy trẻ kể lại chuyện. Tuy chưa nhiều những nhà nghiên cứu đã chú ý tới những hoạt động của trẻ. Tuy nhiên chúng tôi coi đây là ý kiến đóng góp cho đề tài. 6- Tập để cương bài giảng: “ Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo” của tác giả Lê Thị Kim Anh đã đề cập đến việc cần phải phát triển ngôn ngữ cho trẻ theo một hệ thống ngay từ lứa tuổi nhà trẻ qua dạy trẻ phát âm, qua dạy trẻ kể lại chuyện… Ngoài ra tác giả còn đề cập đến việc phát triển văn hóa giao tiếp cho trẻ một cách thường xuyên. 7- “ Chương trình chăm sóc giáo dục mẫu giáo và hướng dẫn thực hiện” Tác giả Trần Thị Trọng- Phạm thị Sửu ( NXBGD – 1994) - Hướng dẫn chung: Văn xuôi gồm: Truyện cổ dân gian, truyện cổ tích, truyện thần thoại, truỵên truyền thuyết, truyện đồng thoại… - Tổ chức tiết học: + Tiết 1: Trước khi vào tiết học cô có thể dùng rối… để giới thiệu câu chuyện cần kể. Sau đó cô giới thiệu tên câu chuyện. Cô kể diễn cảm bằng lời 1 lần. Sau đó kể kết hợp bằng rối hoặc mô hìnhtóm tắt nội dung truyện. Khuyến khích trẻ trả lời đủ câu, theo ngs điệu của các nhân vật, tính cách của các nhân vật. Cuối tiết học cô có thể kể lại chuyện một lần nữa. hỏi lại tên câu chuyện cô vừa kể. + Tiết 2: Cô trích dẫn lời của nhân vật tên chuyện, sau đó kể lại chuyện Đàm thoại với trẻ theo trình tự nội dung câu chuyện sau đó cô gợi ý để trẻ kể lại đoạn đối thoại giữa các nhân vật trong chuyện. + Tiết 3: Khi trẻ đã nắm được lời thoại thì có thể cho trẻ đóng vai- mỗi trẻ một nhân vật. Cô giáo dẫn truyện để cùng kể lại truyện. Cuối cùng dạy trẻ đóng kịch theo kịch bản. 8- Gần đây nhất là cuốn “ Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Hà Nguyễn Kim Giang, tác giả đã nhấn mạnh đến việc phát huy tính tích cực của chủ thể tiếp nhận và đặc biệt chú ý đến phương pháp đọc và kể chuyện có nghệ thuật, coi đó là phương pháp rất cơ bản và chủ đạo trong quá trình cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Khi nói đến nội dung của phương pháp kể chuyện tác giả đã đưa ra quan niệm về việc kể chuyện cho trẻ một cách rất rõ ràng cụ thể và có tính chất quyết định cho việc dạy trẻ kể lại chuyện. Ở các công trình này chúng tôi nhận thấy các tác giả đã quan tâm đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua hình thức kể chuyện nhưng chưa có công trình cụ thể nghiên cứu về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5-6 tuổi qua hình thức kể lại chuyện. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu cũng đã góp phần rất lớn trong việc định hướng cho đề tài. Vì vậy tôi mạnh dạn bước đầu nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo kể lại truyện diễn cảm . III/ GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU : Kết cấu tiết dạy kể chuyện cho trẻ mẫu giáo gồm hai quá trình. + Kể chuyện cho trẻ nghe. + Dạy trẻ kể lại chuyện. Ở đề tài này chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi kể lại chuyện diễn cảm. IV/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU : Xuất phát từ một số cơ sở lý luận khoa học, xuất phát từ thực trạng trẻ ở trường mầm non Hạ Long đề tài này nhằm hệ thống hóa, đưa ra một số biện pháp giảng dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm và ứng dụng vào một vài tiết học cụ thể dựa trên những phương pháp chung cơ bản cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học . V/ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: 1- Điều tra thực trạng để thấy được việc thực hiện dạng thức tiết học này đạt kết quả như thế nào. 2- Nghiên cứu lý luận: Trên cơ sở tổng hợp những tư liệu về lý thuyết có liên quan đến đề tài, xây dựng cơ sở lý luận cho việc hệ thống hóa, đưa ra một ssó biện pháp dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm và ứng dụng vào một vài tiết học cụ thể. 3- Thực nghiệm VI/ Phương pháp nghiên cứu : 1- Tập hợp tư liệu, phân tích chọnlọc, rút ra những cơ sở lý luận cần thiết liên quan đến đề tài. 2- Thực nghiệm : - Điều tra thực trạng. - Thực nghiệmđối chứng. - Thực nghiệm hình thành. VII/ GIẢ THUYẾT KHOA HỌC . Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi có nhu cầu và có những biện pháp thiết thực trong quá trình dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm thì sẽ kích thích được tính độc lập sáng tạo, tính tích cực cá nhân, phát huy khả năng tự hoạt động nghệ thuật ở các em. PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU : CHƯƠNG I. THỰC TRẠNG DẠY TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI KỂ LẠI CHUYỆN DIỄN CẢM . I/ Khái quát về quá trình điều tra thực trạng dạy trẻ kể chuyện diễn cảm ở lớp mẫu giáo lớn. 1- Mục đích điều tra: Chúng tôi tiến hành điều tra thực trạng nhằm đánh giá tình hình chung của việc dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm ở lớp mẫu giáo 5-6 tuổi đề làm cơ sở nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp tổ chức dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm . 2- Điạ bàn điều tra : * Tại thành phố Hạ Long- Tỉnh Quảng Ninh. - Trường mầm non Hạ Long + Lớp mẫu giáo 5-6 tuổi A + Lớp mẫu giáo 5-6 tuổi B + Lớp mẫu giáo 5-6 tuổi C. Thời gian điều tra từ 15/3/2005 đến3/4/2005 3- Nội dung và phương pháp điều tra: * Chúng tôi điều tra các nội dung sau: 3.1. Điều tra bằng phiếu Ankét (29 phiếu) Chúng tôi đã sử dụng một số câu hỏi : 1/ Chị gặp thuận lợi ( hoặc khó khăn gì) khi tổ chức tiết dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm ? 2/ Chị gặp khó khăn gì trong việc soạn giáo án? 3/ Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi coa hứng thú với loại tiết học này không? 4/ Chị đã sử dụng phương pháp , biện pháp gì khi tổ chức cho trẻ kể tên các biện pháp ? 5/ Cơ sở lý luận về dạng thức tiết học dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm đã được cung cấp đầy đủ hay chưa? 6/ Khi dạy tiết học này chị sẽ vận dụng những cơ sở lý luận nào? III.2. Việc soạn giáo án của giáo viên = 6 giáo án III.3. Tiết dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm : 6 tiết. Chúng tôi điều tra bằng phương pháp sau: * Điều tra bằng phiếu Ankét trên các cô giáo mẫu giáo ở 3 lớp mẫu giáo lớn tại trường mầm non Hạ long- Tỉnh Quảng Ninh. * Sử dụng biện pháp quan sát để điều tra. Chúng tôi đến từng lớp quan sát, dự giờ tiết dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm để xem xét cách thức, biện pháp tổ chức của giáo viên ra sao. II/ Phân tích kết quả điều tra: 1- Trả lời phiếu AnKét của giáo viên : Qua điều tra một số câu hỏi liên quan đén vấn đề dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm chúng tôi thấy như sau: + nói chung về nhận thức và đánh giá của giáo viên mầm non về vấn đề này tương đối đồng nhất- Tuy nhiên cũng dừng lại ở mức độ nhất định. + Đối với câu hỏi1: - Thuận lợi: 23/29 đa ssó các cháu được học từ mẫu giáo bé. 29/29 Trẻ rất thích kể lại câu chuyện. 21/29 Nhận thức của trẻ đồng đều. - Khó khăn: 29/29 Cơ sở vật chất còn nghèo nàn. 4/29 Trẻ phát âm chưa chính xác. + Đối với câu hỏi 2: 25/29 Không có gì khó khăn. 7/29 Hiện nay có nhiều tài liệu hướng dẫn nên gây nhiều tranh cãi về cách tiến hành dạy + Đối với câu hỏi 3: 29/29 Giáo viên đều trả lời là trẻ rất hứng thú với loại tiết học này. + Câu hỏi 4: 7/29 Phương pháp truyền khẩu đàm thoại. 27/29 Phương pháp trực quan. Như vậy hầu hết các giáo viên được thăm dò đều lúng túng khi nêu lên những phương pháp và biện pháp tổ chức cho trẻ dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm . Chỉ có 7/29 giáo viên nêu được cần phải sử dụng phương pháp đàm thoại. Phần lớn giáo viên được điều tra đều đã có từ 6-20 năm công tác do vậy các cô giáo trong tiết dạy vẫn sử dụng các phương pháp như: dùng lời gợi mở, tranh ảnh, mô hình, rối… nhưng không nhớ đõ là phương pháp gì… Qua đó, chúng tôi thấy rằng đa phần giáo viên điều tra chưa nắm được tên các phương pháp và biện pháp khi tổ chức dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm . + Đối với câu hỏi 5: 23/29 Đầy đủ. 9/29 ít. 9/29 Quá nghèo nàn Như vậy 18/29 giáo viên cho rằng cơ sở lý luận về dạng thức tiết học dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm còn ít, quá nghèo nàn, vì giáo viên không có điểu kiện để trang bị thêm. + Câu 6 : 7/29 Vận dụng cơ sở ngữ văn. 23/ 29 Giáo viên không nắm rõ đã vận dụng cơ sở lý luận vào tiết dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm . 2. Về việc soạn giáo án của giáo viên : Qua điều tra chúng tôi thấy: Mục đích yêu cầu đặt ra trong giáo án còn rất chung chung, hầu hết các giáo viên đặt ra mục đích yêu cầu còn dập khuôn theo mẫu như trong cuốn chương trình chăm sóc giáo dục . - Chủ yếu các giáo viên xác định được mục đích yêu cầu sau: + Trẻ kể lại chuyện còn đều chưa thể hiện rõ nét tính cách các nhân vật. + Thông qua nội dung trẻ biết yêu qúi các nhân vật có tính cách tốt, phản đối những nhân vật xấu. - Trong 6 giáo án thì chỉ có hai giáo án đã cố gắng xác định mục đích yêu cầu một cách cụ thể hơn và tỏ ra có hiểu được vấn đề. Giáo án : dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm . Câu chuyện: “ Chú dê đen” - Giúp trẻ hiểu nội dung truyện. - Biết đánh giá các nhân vật trong chuyện ( Dê đen dũng cảm, dê trắng nhút nhát, chó sói độc ác, nhát gan) - Thuộc các lời thoại trong câu chuyện. - Giáo dục tính dũng cảm, lên án tính độc ác ( Trần Thị Cúc giáo viên chủ nhiệm lớp mẫu giáo 5 tuổi B- Trường mầm non Hạ Long) Trong 6 giáo án thì chỉ có 1 giáo án đề cập đến vấn đề lên án tính độc ác, nhát gan cho trẻ. Chưa có giáo án nào nói đến sử dụng các phương pháp, biện pháp gì trong tiết học. Chưa có giáo án nào đề cập đến việc phát triển ngôn ngữ, rèn cho trẻ khả năng ghi nhớ có chủ định, tính tích cực sáng tạo và chưa có giáo án nào nói đến việc đưa trẻ vòa hoạt động nghệ thuật , trẻ cảm thụ được ngôn ngữ văn xuôi giàu chất nhạc và từ đó phát triển ngôn ngữ nghệ thuật cho trẻ. 3. Điều tra một số tiết dạy trẻ kể lại chuyện ( chúng tôi đã dự giờ và ghi chép lại) 3.1. ở trường mầm non Hạ long chúng tôi dự được 6 tiết. + tiết 1: dạy trẻ kể lại chuyện “ Hai chú dê đen” lớp mẫu giáo 5-6 tuổi A. Thực trạng kể lại chuyện diễn cảm của lớp này có nhiều điều đáng quan tâm. Đây là tiết dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm nhưng thực chất trẻ mới chỉ thuộc được từng đoạn của câu chuyện. - Về phía giáo viên : giọng kể của giáo viên chưa gây hứng thú và thu hút trẻ, giọng kể còn đều chưa làm rõ nét tính cách các nhân vật trong chuyện. Vì vậy trẻ cũng chỉ kể được giống cô chứ chưa kể được diễn cảm câu chuyện. Cố xác định sai chất giọng: các nhân vật trong chuyện có tính cách đối lập nhau: giọng dê trắng run sợ, yếu ớt và nói ngắt quãng, giọng dê đen bình tĩnh, đanh thép, giọng chó sói quát nạt khi nói với dê trắng, giọng chó sói với dê đen đầu tiên quát nạt, sau chuyển sang lo lắng, ngần ngừ. Nhưng cô lại kể với giọng điệu đều đều. Do vậy trẻ chưa thể hiện diễn cảm , chưa bộc lộ tính cách các nhân vật một cách rõ nét. đã thuộc được chuyện xong chưa thể hiện được cường độ giọng, cử chỉ, nét mặt… có cháu kể rất to, có cháu kể lí nhí… Nhìn chung tiết học này cô giáo tiến hành một cách cứng nhắc, trầm, giọng cô không truyền cảm do đó không gây được chú ý cho trẻ. Trong tiết học cô có sử dụng câu hỏi đàm thoại: ( trong chuyện có những nhân vật nào? Dê trắng đi vào rừng làm gì? dê đen đã gặp con gì? vì sao chó sói sợ hãi chạy thẳng vào rừng? ( những câu hỏi này còn chưa phù hợp với dạng thức tiết học dạy trẻ kể lại chuyện ) Trong quá trình trẻ bắt chước những lời thoại của nhân vật cô chưa chú ý sửa sai cho trẻ. Cụ thể ở tiết này, giáo viên tiến hành như sau: Vào đầu tiết học cô dùng rối và giới tiệu câu chuyện sau đó cất rối đi và kể bằng lời- không sử dụng thêm trực quan nào khác. Cô kể lần 2: và đặt một số câu hỏi đàm thoại như trên: Sau đó cô cho trẻ kể lại từng lời đối thoại của các nhân vật ( bằng hình thức cả lớp đến cá nhân) Kết thúc tiết học cô dặn các cháu về kể lại chuyện cho ông bà, bố mẹ nghe. Nhìn chung ở tiết học lớp 5 tuổi B cô giáo không rèn cho trẻ một kỹ năng nào trong cả tiết dạy. Điều quan trọng là cô không tạo được hứng thú cho trẻ phát huy tính tích cực của mình. * Tiết 2 : “ Cô bé quàng khăn đỏ” lớp 5 tuổi A * Tiết 3 : “Ba cô gái” lớp mẫu giáo 5-6 tuổi C * Tiết 4 : “ Ai đáng khen hơn nhiều” lớp mẫu giáo 5 tuổi D So với tiết học của lớp mẫu giáo 5 tuổi B, 3 lớp này trẻ hứng thú nghe cô kể chuyện và thích kể lại chuyện diễn cảm hơn. Cả ba cô đều có cách vào bài như nhau “ Đọclời nói của một nhân vật trong chuyện” sau đó đoán đó là câu nói của ai trong câu chuyện nào? Sau đó giáo viên kể chuyện một lần bằng lời Lần hai kết hợp cho trẻ xem tranh. Như vậy lần nào cô giáo đã thu hút được trẻ, tiếp theo đó cô cũng có một hệ thống câu hỏi theo trình tự câu chuyện- cô cho cả lớp các lời thoại truyền khẩu theo cô. Các cô đều không có biện pháp gì để khuyến khích động viên trẻ hay cho trẻ thi đua giữa tổ này và tổ khác. Điều khác là cả ba cô giáo đều soạn giáo án với cấu trúc như nhau nên cả ba tiết đều giống nhau ở cách thể hiện. . Số trẻ kể lại chuyện diễn cảm ở cả 3 lớp này rất ít ( 10 cháu) Ở 3 lớp này cô còn để các cháu nói sai nhiều, có cháu còn nói ngọng. Cô không có hình thức nào khuyến khích động viên trẻ. Bản thân trẻ rất hứng thú được kể lại chuyện nhưng giáo viên chưa khai thác hết khả năng mà trẻ có. Nhiều cháu có giọng kể rất hay, rất truyền cảm nhưng các cô lại chưa chú ý đến những trẻ đó. Ở các 3 tiết học này lúc đầu trẻ còn hứng thú, tiết học còn sôi nổi. Nhưng cuối tiết các cháu uể oải không tập trung. Cả 3 tiết học các cô đều thực hiện máy móc, rập khuôn như trong chương trình hướng dẫn. Cả 3 tiết học các cô không sử dụng thêm mô hình ( rối) có sử dụng phương pháp đàm thoại xong số cháu được trả lời câu hỏi được ít quá . Ở 3 lớp này có ưu điểm là các cháu được kể lại từng đoạn chuyện nhiều nhưng cũng như tiết của lớp 5 tuổi B trẻ không được diễn cảm và cô giáo không biết thu hút trẻ. cô sử dụng phương pháp đàm thoại nhưng câu hỏi còn đơn giản và số các cháu được trả lời còn quá ít. * Tiết 5 : “ Chàng Rùa” Lớp mẫu giáo 5 tuổi G * Tiết 6 : “ Cây tre trăm đốt” lớp mẫu giáo 5tuổi E Thực trạng của việc kể chuyện diễn cảm cuả 2 lớp trên: hầu hết trẻ chỉ thuộc chuyện chứ chưa kể được diễn cảm. cả 2 lớp đều sử dụng phương pháp đàm thoại và sử dụng mô hình minh họa, nhưng hiệu quả sử dụng những phương pháp này chưa cao. Câu hỏi của cô đơn giản, cụ thể cô hỏi trẻ như sau: - Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện gì? - Các con thấy anh nông dân là người thế nào? Nhìn chung hai tiết học này cả hai giáo viên đã phần nào thể hiện được cá tính của các nhân vật đã phần nào trình bày được ngữ điệu, nhịp điệu của lời nói, Trình bày được xúc cảm của các nhân vật. ở cả hai tiết học cô giáo đều sử dụng mô hình minh họa nhưng mới chỉ lướt qua, không khắc sâu được trí tưởng tượng cho trẻ, vì vậy phương pháp của cô không gây được hứng thú cho trẻ. Cụ thể cô: Nguyễn Thị Thơm đã thực hiện như sau: - Vào đầu tiết học cô đưa cho một bó tre và hỏi trẻ đay là cái gì?(những đốt tre ) các cháu có biết để những đốt tre này dính lại với nháu thành cây tre trăm đốt thì anh nông dân đã được ai giúp đỡ và giúp như thế nào chúng mình hãy chú ý nghe cô kể chuyện “ cây tre trăm đốt nhé” - Tiếp theo đó cô kể chuyện bằng lời cho trẻ nghe. - Kể lần 2 : bằng mô hình. - Đặt câu hỏi đàm thoại. ( Nhưng hệ thống câu hỏi còn rời rạc, không theo trình tự nội dung câu chuyện) Vì vậy nên trẻ sắp xếp trình tự câu chuyện lô gic rất khó khăn. Hết giờ trẻ chỉ mới thuộc được các lời đối thoại của các nhân vật, còn kể diễn cảm thì chỉ có 11/ 33 cháu. Lớp học rất lộn xộn. Cô giáo không bao quát được trẻ và không sửa sai ngay cho trẻ khi trẻ chưa nói đúng. Vì vậy ở hai tiết học trên các cháu chưa hứng thú học, tiết học còn buồn tẻ, lớp rất trầm lặng-> trẻ thấy nhàm chán, mệt mỏi. Câu chuyện “ Chàng Rùa” lớp 5 tuổi E Cô giáo : Nguyến Thị Quyên thể hiện: Trong tiết học này cô giáo đã sử dụng biện pháp thi đua, biện pháp dùng tranh, mô hình minh họa kết hợp với biện pháp đàm thoại. Thực tế lớp này đã có nhiều cháu kể lại được câu chuyện một cách diễn cảm : 15/35 cháu. Khi vào bài cô giáo đã gây được hứng thú cho trẻ. đồng thời khi kể chuyện cô đã kết hợp được ngữ điệu, cử chỉ, nhịp điệu, nét mặt… một cách sáng tạo và cô sử dụng các đồ dùng trực quan hiệu quả đưa ra đúng lúc nên khắc sâu được nội dung truyện cho trẻ. Phần tập kể cô cho các tổ, các cá nhân thi đua với nhau. Cho mỗi tổ nhận một nhân vật và kể nối tiếp nhau… Như vậy ở tiết học này các cháu học có phần hứng thú hơn. Có những cháu đã thuộc truyện và diễn tả tính cách, nội tâm của nhân vật đạt. tuy nhiên phần đông các cháu mới chỉ dừng lại ở vấn đề thuộc truyện. Cô giáo đã chú ý bao quát lớp, sửa sai cho trẻ, động viên trẻ kịp thời nên lớp học có phần sôi nổi, các cháu hứng thú hơn. III/ Kết quả điều tra: 1. Ưu điểm: - Về phía cô: Các cô nhìn chung đều nhận thức được vai trò, mục đích của giờ dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm đối với trẻ 5-6 tuổi là: Phát triển ngôn ngữ , cho trẻ làm quen với văn học , hình thành nhân cách … Trên các tiết học giáo viên đã cố gắng tìm kiếm các biện pháp, thủ thuật, đã chú ý đến việc soạn giáo án cho tiết dạy. Một vài cô cũng đã chú ý đến việc rèn cho trẻ kể diễn cảm và đã biết sử dụng một số biện pháp cuốn hút trẻ vào tiết học như : thi đua, khuyến khích, động viên trẻ. - Về phía trẻ: trẻ đã biết nghe cô, hứng thú khi thể hiện câu chuyện một cách diễn cảm. Tuy vậy đặc điểm chú ý ở độ tuổi này là chú ý không chủ định, do vậy ở cuối tiết học trẻ thường hay mất trật tự. 2. Nhược điểm: - Về phía cô: Các cô soạn giáo án còn chung chung, chủ yếu dựa vào cuốn phương hướng mang tính chất chỉ đạo chung. Mục đích yêu cầu đặt ra trong tiết học còn chung chung. Vì vậy đòi hỏi giáo viên khi soạn bài cần phải có sáng kiến của mình. Các cô mới chỉ chú ý đến việc ổn định trật tự lớp. Các cô đều bao quát lớp tốt, các cháu đều nghe cô. Đa phần các cô chưa chú ý đến những trẻ yếu kém, nhút nhát có nghĩa là cô chỉ chú ý đến những trẻ có khả năng thuộc và kể diễn cảm. Cô chưa chú ý đến việc giáo dục cá biệt do vậy có những trẻ rất thiệt thòi chỉ biết ngồi lắng nghe bạn kể. Trong cả tiết trẻ không được tham gia lần nào. + Trong tiết học các cô chưa xác định được tiết học này thì phải đưa phương pháp , biện pháp gì? , tiết học khác phải sử dụng ra sao để phù hợp. Đây là tiết dạy trẻ kể lại chuyện diễn cảm những biện pháp và phương pháp các cô đưa ra giống như tiết kể chuyện cho trẻ nghe. Vì vậy các phương pháp này không tạo hứng thú cho trẻ. + Khi sử dụng phương pháp đàm thoại thì hầu hết các giáo viên đều sử dụng câu hỏi đơn giản, không theo trình tự nội dung câu chuyện- các câu hỏi còn mang ngôn ngữ nói: ơi, à, nhé,…số lượng các cháu được trả lời câu hỏi ít. Các câu hỏi chưa mang tính mở nên chưa phát huy được tính tích cực hoạt động của trẻ. + Nhìn chung các cô chưa đưa ra được các biện pháp , thủ thuật để khơi gợi hứng thú, khuyến khích trẻ tham gia vào hoạt động văn hóa nghệ thuật ( kể chuyện diễn cảm ) do đó tiêthọc trở nên nhàm chán và buồn tẻ. + Có nhiều cô giáo chưa chú tâm vào tiết dạy vì vậy cô thực hiện rất máy móc, rập khuôn dẫn đến sự nhàm chán cho trẻ. + Việc xác định giọng điệu cơ bản cho câu chuyện là rất quan trọng, tuy vậy phần đông các cô chưa xác định được đúng giọng điệu của câu chuyện dẫn đến việc kể chuyện còn tùy tiện chưa diễn cảm . - Về phía trẻ: Đa số trẻ chưa chú ý trong tiết học, đa số trẻ chưa kể lại chuyện được diễn cảm . * Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. - Trong quá trình điều hào thực trạng kể chuyện diễn cảm của trẻ chúng tôi đã dự một số tiết kể chuyện cho trẻ nghe. Qua các tiết học này chúng tôi đều nhận thấy các cô đều rơi vào tình trạng kể chuyện một cách tự nhiên, truyện nào cũng sử dụng giọng điệu như vậy. Trong khi kể cô không gây được hứng thú cho trẻ cả về trang phục, quang cảnh, giọng điệu, cử chỉ, nét mặt điệu bộ minh họa. Gần như các cô không có cảm xúc khi kể chuyện cho trẻ nghe. Hỗu hết các cô kể với giọng đều đều, tính cách các nhân vật không rõ ràng, không chú ý đến những chỗ ngắt giọng, nhấn giọng. Tóm lại là cô chưa chú tâm kể chuyện một cách nghệ thuật và sáng tạo , kể chưa hay, chưa diễn cảm . - Khi trẻ kể lại chuyện cô không sử dụng biện pháp gì để khuyến khích động viên trẻ cố gắng. - Giáo viên chưa nhìn thấy được tầm quan trọng, vị trí, vai trò của hoạt động văn học nghệ thuật trong công tác giáo dục trẻ mẫu giáo .
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng