SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
“Cách thức tổ chức lồng ghép hoạt động trò chơi vào dạy học môn Toán
ở THCS”
I-
Lí do chọn đề tài.
Hoạt động vui chơi giải trí là một trong những hoạt động cơ bản của con
người. Tuy nhiên ở lứa tuổi học sinh (HS) hoạt động vui chơi đó càng có ý
nghĩa quan trọng. Chơi mà học và học trong chơi. Xã hội càng hiện đại, văn
minh thì hiển nhiên trẻ em ta càng có điều kiện và cần chơi những trò chơi
máy móc, tối tân, nhưng lạm dụng những đồ chơi gươm, súng và điện tử thì
cũng không được dư luận đồng tình. Tôi đã tự hỏi tại sao bây giờ trẻ em ít
chơi những trò chơi dân gian, có tính giáo dục nhân cách, mang lại kiến thức
bổ ích như trước kia mà chúng chỉ thích chơi những trò chơi điện tử như: bắn
súng, đua xe… Chính điều trăn trở đó đã nảy ra trong tôi một ý nghĩ là hãy
đưa các trò chơi vào hoạt động giảng dạy trong các trường phổ thông.
Bản thân tôi là một giáo viên dạy toán trường THCS, một môn học mà
nhiều học sinh rất “sợ - ngại” học và đã có nhiều học sinh nói rằng môn học
này quá “khô khan”. Chính vì lí do đó tôi đã đưa một số trò chơi toán học vào
các bài dạy của mình để gây hứng thú học tập cho học sinh và qua đó các em
có thể tự tổ chức trò chơi toán học vào những lúc giải lao, lúc rảnh rỗi để khắc
sâu kiến thức và đặc biệt có thể xa rời các trò chơi điện tử kém tính giáo dục
thể chất và tinh thần.
Trên thực tế những giờ dạy mà tôi đã đan xen tổ chức chò chơi toán học
tôi thấy học sinh rất thích thú, rất hào hứng đón nhận trò chơi và kiến thức
dần dần được các em nắm bắt thông qua các hoạt động đó một cách nhẹ
nhàng và hiệu quả.
Với hai lí do trên tôi thiết nghĩ cần đưa ra chuyên đề này để một phần nào
đó khích lệ phong trào học tập môn Toán của học sinh, giúp học sinh có cái
nhìn mới hơn về môn học này và đặc biệt đã làm phong phú thêm vốn trò
chơi của các em để các em có những lựa chọn đúng đắn trong các hoạt động
giải trí của bản thân.
1- Cơ sở lí luận
Hứng thú học tập của một môn học được hình thành thông qua không khí
học tập của học sinh trong giờ học môn đó. Bởi một không khí học tập đầy
hứng khởi sẽ kích thích sự say mê, giúp cho học sinh tập trung tốt hơn và có
Gv: Võ Anh Tuấn
1
niềm tin vào những gì mình tiếp thu được. Vậy khi giáo viên (GV) tạo được
không khí học tập tích cực trong một giờ dạy thì có thể nói đã thành công
được 50% về đổi mới phương pháp dạy học.
Vậy, vấn đề ở đây là làm thế nào để kích thích hứng thú cho học sinh, và
kích thích như thế nào, bằng cách nào để đạt hứng thú cao nhất đến các em
trước mỗi kiến thức cần tìm hiểu.
Đảng và Bác Hồ ta coi công tác Thiếu niên và Nhi đồng là sự nghiệp đào
tạo một lớp người mới cho đất nước . Việc giáo dục cho các em là một khoa
học, một nghệ thuật, không nên tùy tiện, chủ quan. Bác Hồ nói: "Ngày nay
chúng là nhi đồng, ít năm sau chúng là công dân, cán bộ. Vì vậy, chính
phủ, các đoàn thể và tất cả đồng bào có trách nhiệm giúp sức vào việc
giáo dục ..." Quan điểm khoa học đó còn được Bác Hồ chỉ rõ qua các gợi ý về
phương pháp giáo dục trẻ em là đào tạo cho các em: Học mà chơi, chơi mà
học.
Hoạt động trò chơi có nhiều hình thức rất đa dạng và mang tính giao lưu,
học hỏi. Phương pháp trò chơi có những thuận lợi như: Phát huy tính sáng
tạo, hấp dẫn và gây hứng thú cho học sinh, giúp học sinh dẽ tiếp thu kiến thức
mới, giúp chuyển tải nhiều tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau, tạo được
bầu không khí thân thiện, vui tươi, sôi nổi, tạo cho học sinh tác phong nhanh
nhẹn. Trò chơi là một hình thức tổ chức có tác dụng hết sức tích cực và toàn
diện, và là một phương pháp giáo dục được dễ dàng thực hiện trong mọi hoàn
cảnh của nhà trường và có khả năng mang lại những hiệu quả giáo dục cao.
2- Cơ sở thực tiễn
Trường THCS Nguyễn Trải là ngôi trường trực thuộc trung tâm thành phố
Đông Hà. Đặc điểm nữa là đa số HS của nhà trường đều có điều kiện học tập,
có ý thức học tập cao vì vậy việc tạo hứng thú khi học tập đặc biệt là môn
Toán là vấn đề đặt lên hàng đầu của GV giảng dạy môn toán nói riêng cũng
như các môn học khác nói chung.
Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất đối với HS đó là năng lực nhận thức, năng
lực tư duy của các em rất hạn chế. Điều này là do điều kiện kinh tế gia đình
khiến điều kiện sống của các em không đảm bảo..vv
Những hạn chế này khiến cho các em càng khó khăn hơn trong việc tiếp
thu môn Toán. Các em dần chán nản, và đối với HS yếu kém sẽ không thích
môn học vì không tiếp thu nổi những kiến thức Toán đã vốn khó và khô khan.
Qua các lần dự giờ đồng nghiệp tôi thấy nhiều GV có trình
độ chuyên môn giỏi nhưng kĩ năng sư phạm thì chưa tốt, thậm
Gv: Võ Anh Tuấn
2
chí HS còn mệt mỏi, ngán ngẫm khi giải Toán. Môn Toán rất
khô khan, đòi hỏi hoc sinh phải tư duy va thực hanh giải toán
nhiều… nếu như GV không có phương pháp sư phạm tốt thì
giờ hoc trở nên quá tải, nặng nề, HS ít được tham gia hoạt
động. Điều quan trong hơn la không gây được nhiều sự hứng
thú cho HS trong khi hoc tập. Trong khi đó chưa có nhiều giáo
trình, một đề tai, Sáng kiến kinh nghiệm nao nghiên cứu về
cách tổ chức trò chơi trong giảng dạy môn Toán một cách cụ
thể, chi tiết nếu có thì cũng chỉ la bước khởi đầu chưa có hệ
thống va hướng dẫn cách tổ chức trò chơi một cách không
khoa hoc, đang còn chung chung.
Để góp phần đổi mới phương pháp dạy hoc bộ môn Toán ở
trường THCS theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của
HS, tăng cường hoạt động cá thể với hoc tập giao lưu giải trí,
hình thanh kĩ năng vận dụng kiến thức vao thực tiễn.
Xuất phát từ thực tế nói trên, tôi đã không ngừng đổi mới
phương pháp dạy hoc, va đã mạnh dạn thiết kế va tổ chức trò
chơi trong giờ hoc Toán va có hiệu quả bước đầu rất đáng
mừng.
3- Tính mới của đề tài:
Ngoài việc tổ chức và lồng ghép hoạt động trò chơi vào dạy học để thực
hiện tốt hơn cho nhiệm vụ năm học “Ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lí và dạy học” tôi đã cố gắng tìm hiểu và thiết kế thêm một trò chơi tạo
sự tương tác với học sinh qua việc kiểm tra bài cũ gọi làm bài tập, trình bày
sản phẩm nhóm, trình bày trải nghiệm sáng tạo ... bằng cách gọi ngẫu nhiện
một học sinh bất kì thông qua “vòng quay may mắn” nhằm hổ trợ việc dạy
của giáo viên, tạo hứng thú có động cơ học tập của học sinh.
II-
Mục đích, phạm vi, đối tượng và phương pháp.
1- Mục đích:
Thông qua nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề sử dụng trò
chơi nhằm thiết kế bài giảng có sử dụng trò chơi dạy học trong dạy học môn
toán để tích cực hóa hoạt động của học sinh, qua đó góp phần nâng cao chất
lượng học tập môn Toán cho học sinh.
2- Phạm vi, đối tượng nghiên cứu:
Gv: Võ Anh Tuấn
3
Trò chơi học tập của học sinh Trường THCS Nguyễn Trãi – Thành phố
Đông Hà – Quảng Trị.
Đề tài này tôi đã tập trung nghiên cứu và áp dụng vấn đề cơ bản sau
đây: Cách thức tổ chức lồng ghép hoạt động trò chơi vào dạy học môn Toán ở
THCS.
3- Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu lí luận:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng trò chơi trong
việc dạy - học toán THCS
- Nghiên cứu các tài liệu về cách thức tổ chức một số trò chơi.
- Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm:
III- Nội dung nghiên cứu:
1- Lịch sử vấn đề.
Ở nước ngoài vào những năm 400 của thế ka XIX, một số nhà khoa học
giáo dục Nga như: P.A.Bexonova, OP.Seina, V.I.Đalia, E.A.Pokrovxki ... đã
đánh giá cao vai trò giáo dục, đặc biệt và tính hấp dẫn của trò chơi dân gian
Nga đối với trẻ mẫu giáo. E.A.Pokrovxki trong lời đề tựa cho tuyển tập “Trò
chơi của trẻ em Nga” đã chỉ ra nguồn gốc, giá trị đặc biệt và tính hấp dẫn lạ
thường của trò chơi dân gian Nga. Bên cạnh kho tàng trò chơi học tập trong
dân gian còn có một số hệ thống trò chơi dạy học khác do các nhà giáo dục có
tên tuổi xây dựng. Đại diện cho khuynh hướng sử dụng trò chơi dạy học làm
phương tiện phát triển toàn diện cho trẻ phải kể đến nhà sư phạm nổi tiếng
người tiệp khắc I.A.Komenxki(1592-1670). Ông coi trò chơi là hình thức hoạt
động cần thiết, phù hợp với bản chất và khuynh hướng của trẻ. Trò chơi dạy
học là một dạng hoạt động trí tuệ nghiêm túc, là nơi mọi khả năng của trẻ em
được phát triển, mở rộng phong phú thêm vốn hiểu biết. Với quan điểm trò
chơi là niềm vui sướng của tuổi thơ, là phương tiện phát triển toàn diện cho
trẻ I.A.Komenxki đã khuyên người lớn phải chú ý đến trò chơi dạy học cho
trẻ và phải hướng dẫn, chỉ đạo đúng đắn cho trẻ chơi.
Trong nền giáo dục cổ điển, ý tưởng sử dụng trò chơi với mục đích dạy
học được thể hiện đầy đủ trong hệ thống giáo dục của nhà sư phạm người
Đức Ph.Phroebel(1782-1852) Ông là người đã khởi xướng và đề xuất ý tưởng
kết hợp dạy học với trò chơi cho trẻ. Quan điểm của ông về trò chơi phản ánh
cơ sở lý luận sư phạm duy tâm thần bí. Ông cho rằng thông qua trò chơi trẻ
Gv: Võ Anh Tuấn
40
nhận thức được cái khởi đầu do thượng đế sinh ra tồn tại ở khắp mọi nơi,
nhận thức được những qui luật tạo ra thế giới, tạo ra ngay chính bản thân
mình. Vì thế ông phủ nhận tính sáng tạo và tính tích cực của trẻ trong khi
chơi. Ph.Phroebel cho rằng, nhà giáo dục chỉ cần phát triển cái vốn có sẵn của
trẻ, ông đề cao vai trò giáo dục của trò chơi trong quá trình phát triển thể chất,
làm vốn ngôn ngữ cũng như phát triển tư duy, trí tưởng tượng của trẻ ... Còn ở
Viê ̣t Nam có nhiều tác giả nghiên cứu về việc thiết kế và sử dụng trò chơi dạy
học dưới các góc độ và các bộ môn khác nhau. Một số tác giả như Phan
Huỳnh Hoa, Vũ Minh Hồng, Trương Kim Oanh, Phan Kim Liên, Lê Bích
Ngọc ... đã để tâm 11 năm nghiên cứu biên soạn một số trò chơi và trò chơi
học tập ... Những hệ thống trò chơi và trò chơi học tập được các tác giả đề cập
đến chủ yếu nhằm củng cố kiến thức phục vụ một số môn học như: Hình
thành biểu tượng toán sơ đẳng, làm quen với môi trường xung quanh .., rèn
các giác quan chú ý, ghi nhớ, phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ. Các tác
giả đặc biệt quan tâm đến ý nghĩa phát triển của trò chơi học tập, không chỉ
phát triển ở các giác quan mà phát triển các chức năng tâm lý chung của
người học. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu này cũng chưa đi sâu nghiên cứu
việc xây dựng và sử dụng trò chơi dạy học dành cho quá trình nhận thức của
người học. Gần đây trong tác phẩm “trò chơi trẻ em”, tác giả Nguyễn Ánh
Tuyết đã đề cập đến trò chơi trí tuệ. Loại trò chơi này có tác dụng thúc đẩy
hoạt động trí tuệ của trẻ. Trong tác phẩm này, bà đã giới thiệu một số trò chơi
trí tuệ dành cho trẻ em. Còn tác giả Trần Thị Ngọc Trâm đã thiết kế một hệ
thống trò chơi học tập nhằm phát triển khả năng khái quát hóa của trẻ mẫu
giáo lớn. Một số luận văn, luận án và các nhà nghiên cứu gần đây cũng đề cập
đến việc xây dựng và sử dụng trò chơi dạy học nhằm phát huy tính tích cực
của người học.
2- Giải pháp thực hiện
Với mục tiêu là không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn
toán ở bậc THCS; đổi mới phương pháp dạy học, thay đổi phương pháp dạy
của thầy và phương pháp học của trò.
Đề tài này chúng tôi đã tập trung nghiên cứu và áp dụng một số trò chơi
vào các tiết học Toán cụ thể như sau:
2.1. Cách tổ chức trò chơi trong tiết dạy học Toán:
* Những điều cần thiết khi tổ chức trò chơi trong tiết dạy Toán:
Gv: Võ Anh Tuấn
5
Giáo viên bộ môn là người đóng vai trò hướng dẫn, là trung tâm thu hút
học sinh tham gia, và là trọng tài của các trò chơi. Do vậy giáo viên cần lưu ý
một số vấn đề sau:
- Giáo viên phải có phong thái chững chạc, nghiêm túc nhưng lại hết sức vui
vẻ, gần gũi, hòa đồng với các em.
- Lời nói phải rõ ràng, dễ hiểu, ấn tượng, luôn gây tạo sự hấp dẫn và pha trộn
ít hài hước trong mỗi trò chơi. Nhằm tác động đến tình cảm, tâm lí và đem lại
niềm vui tươi, sự hứng thú trong học tập cho học sinh.
- Biết phối hợp hài hòa giữa lời nói và các động tác cần thiết (Cơ mặt, ngôn
ngữ hình thể, …), để học sinh dễ dàng nắm bắt nội dung và hóa thân vào các
trò chơi một cách tự nhiên.
- Thường là sau mỗi trò chơi phải có thưởng phạt phân minh. Tuy nhiên, đây
là những trò chơi chủ yếu để phục vụ các em nắm bắt kiến thức của tiết dạy,
cho nên giáo viên tránh xử phạt hoặc trách móc khắt khe đối với đội thua,
người thua. Mà tập trung tuyên dương, khen thưởng (nếu có) đối với người
thắng, đội thắng. Nhằm động viên, khích lệ tinh thần các em một cách kịp
thời, kích thích sự phấn chấn, hào hứng học tập cho học sinh.
- Tránh việc tổ chức trò chơi quá ồn ào, náo nhiệt gây ảnh hưởng không tốt
đến các lớp học lân cận.
- Thời gian chơi trong mỗi tiết dạy nên không để quá 10 phút.
* Chọn lựa trò chơi:
- Giáo viên phải biết chọn lựa trò chơi sao cho phù hợp với bài dạy về cả nội
dung và thời lượng.
- Xác định được mục tiêu của trò chơi đưa ra là gì? (Giáo dục kĩ năng gì?
Phẩm chất gì?)
- Trò chơi đưa ra phải đa dạng, phong phú, có tác dụng khích lệ tinh thần học
tập cho tất cả các đối tượng học sinh trong lớp, tránh bỏ rơi học sinh yếu kém
ngoài cuộc.
- Không nên chọn những trò chơi chỉ được mặt vui nhộn, nhưng lại thiếu tác
dụng giáo dục về phẩm chất cũng như kĩ năng học tập.
* Hướng dẫn cách chơi:
- Trước hết, giáo viên phải ổn định được các đội chơi, người chơi cho phù
hợp, cân đối lực lượng. Để thuận tiện cho việc di chuyển của các đội chơi
một cách nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, mỗi lớp trung bình 35 – 400 HS
như ở đơn vị tôi thì có thể chia từ 5 đến 6 đội chơi, mỗi đội từ 7 đến 8 HS
Gv: Võ Anh Tuấn
6
- Giới thiệu trò chơi, cách chơi: Đây là khâu rất quan trọng, giáo viên nên
giới thiệu trò chơi một cách ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, thu hút và hấp dẫn
người chơi (Có những trò chơi khó thì giáo viên phải cho chơi thử trước).
- Động viên học sinh chơi nhiệt tình, hết mình, song phải đảm bảo nề nếp, nội
quy nhà trường.
2.2. Một số trò chơi trong tiết dạy học Toán:
* Trò chơi thứ nhất mang tên “Chung sức” :
+ Mục đích:
- Rèn luyện các kỹ năng sống (KN): KN đảm nhận trách nhiệm, KN hợp tác;
KN quản lí thời gian. KN sử dụng tiếng Việt.
- Thay vì dùng phương pháp thảo luận nhóm bình thường mà chúng ta thường
hay sử dụng, thì trò chơi “Chung sức” sẽ giúp học sinh thảo luận nhóm một
cách nhẹ nhàng, hiệu quả, không bị gò ép, rập khuôn.
- Nhờ sự “Chung sức” của mỗi đội chơi, nhất là sự đóng góp, diễn giải của
những học sinh tích cực, học sinh khá - giỏi, các em học sinh trung bình, yếu,
kém sẽ có thêm cơ hội để nắm bắt kiến thức đã học, có cơ hội để lấy điểm về
mình nếu các em thực hiện đạt yêu cầu.
+ Chuẩn bị:
- Giáo viên chuẩn bị sẵn ở nhà một số bài toán và đáp án có nội dung liên
quan đến tiết dạy. Nếu có đủ điều kiện chuẩn bị thì đề toán và đáp án được
viết lên những tấm bìa cứng hình chữ nhật hoặc hình các bông hoa có gắn
nam châm hoặc keo hai mặt.
- Học sinh chuẩn bị bảng nhóm, bút lông.
- Nếu thiếu điều kiện chuẩn bị: GV có thể thực hiện trò chơi đơn giản hơn
trên bảng phụ (có thể viết xóa nhiều lần), hoặc với bảng đen và phấn màu
nhằm tạo thêm màu sắc để kích thích hứng thú cho các em.
+ Cách chơi:
- Bốc thăm chọn ra 2 đội chơi. Quy định thời gian thảo luận.
- Giáo viên gắn các miếng giấy cứng có ghi đề bài và đáp án lên bảng.
- Khi có hiệu lệnh của giáo viên, lần lượt từng thành viên của 2 đội lên bảng
ghép đề bài và đáp án tương ứng vào phần bảng của đội mình (Cứ em này về
chỗ thì em khác mới được lên bảng).
- Sau thời gian quy định, giáo viên ra hiệu lệnh dừng cuộc chơi. Giáo viên và
cả lớp cùng chấm, đội nào có cặp đề bài và đáp án chính xác và nhiều hơn thì
đội đó sẽ chiến thắng.
Ví dụ:
Gv: Võ Anh Tuấn
7
- Khi xong dạy bài: “Biến đổi đơn giản biểu thức chứa căn thức bậc hai” (Tiết
8 – Đại số lớp 9), giáo viên có thể củng cố bài bằng nội dung chơi gồm các
bài tập sau:
Trục căn thức ở mẫu với giả thiết các biểu thức chữ đều có nghĩa.
5
5
1
2 2 2 y b. y
;
;
;
;
;
10 2 5 3 20
5 2
b y
2
2
3
b
;
;
3 3 b 2
p
;
p1
2
6
5
;
3
;
3 1
3
10
7
2
;
31
;
Với các đáp án tương ứng là:
10 5 5 2 2 y b 3( 3 1)
b(3 b ) p(2 p 1)
; ; ;
;
;
; 3 1;7 40 3;
;
;
2 2 30
5
b
2
9 b
40 p 1
2( 6 5); 10
7
- Trò chơi có thể nâng cao hơn bằng cách tìm ra tên của Nhà khoa học hoặc
một vị anh hùng, ...: đặt các đáp án cho trước vào đúng chỗ cùng với các chữ
cái đi kèm tạo ra tên cần tìm.
* Trò chơi thứ hai mang tên “Sự sắp xếp ngẫu nhiên”
+ Mục đích:
- Rèn luyện các kỹ năng sống (KN): KN đảm nhận trách nhiệm, KN hợp tác;
KN quản lí thời gian. KN sử dụng tiếng Việt.
- Trò chơi này giúp các em khẳng định được những mệnh đề đúng chính là
những định lí, tính chất đã học, còn với những mệnh đề sai các em sẽ có một
trận cười rất sảng khoái, giảm căng thẳng trong giờ học và khắc sâu kiến thức
cho HS.
- Trò chơi này được áp dụng sau khi học sinh học bài định lí trong chương
trình hình học lớp 7. Từ đấy có thể áp dụng cho tất cả các bài có các định lí,
tính chất trong chương trình hình học từ lớp 7 trở đi.
+ Chuẩn bị: những mẫu giấy ghi sẵn từ “Nếu” hoặc từ “thì”.
+ Cách chơi: Chia làm 2 đội:
Đội 1: Điền nội dung sau chữ “nếu” ( nội dung liên quan đến các định lí, tính
chất đã học)
Đội 2: Điền nội dung sau chữ “thì” ( nội dung liên quan đến các định lí, tính
chất đã học)
Sau đó ghép ngẫu nhiên một tờ giấy của đội 1 với một tờ giấy của đội 2 xem
mệnh đề tạo thành có đúng không
Gv: Võ Anh Tuấn
8
Ví dụ: Bài “Quan hệ giữa góc và cạnh đối diện trong một tam giác” – Hình
học 7
Đội 1
Đội 2
Tam giác ABC có AB < AC
Góc C < góc B
…..
Góc A > góc B
Nếu
Thì
Cạnh AB > AC
….
* Trò chơi thứ ba mang tên “Cùng nhau leo núi”
+ Mục đích:
- Rèn luyện kĩ năng tính toán cho học sinh.
- Thực hiện các mục tiêu đã đưa ra trong Trò chơi “chung sức” đề tài này.
+ Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị trước một số bài tập liên quan đến bài
học theo cấp độ từ dễ đến khó.
+ Cách chơi:
- Giáo viên sắp xếp các bài tập theo dạng hình tháp, càng lên cao càng khó
dần (Hình vẽ ở ví dụ dưới đây)
- Làm thủ tục bốc thăm chọn 2 đội chơi.
- Mỗi thành viên của mỗi đội lên giải một bài tập(Giải từ dưới lên trên), sau
đó về chỗ để thành viên khác của đội mình lên giải tiếp.
- Đội nào “Leo” lên đỉnh sớm hơn và có số câu trả lời đúng nhiều hơn, đội đó
thắng cuộc.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Số vô tỉ. Khái niệm về căn bậc hai, số thực” (Tiết
17 – Đại số 7), giáo viên có thể cho các đội thực hiện trò chơi “Cùng leo núi”
với các bài toán có nội dung được sắp xếp như sau:
Có thể thực hiện trò chơi này để củng cố tất cả các bài học có sự tính toán.
* Trò chơi thứ tư mang tên “Sáng tác về Toán học”:
Gv: Võ Anh Tuấn
9
+ Mục đích:
- Giúp học sinh tìm ra cách nhớ các công thức, quy tắc, tính chất,…toán học
thông qua các bài “Vè” Suôn vần, Suôn điệu mà chính học sinh sưu tầm hoặc
sáng tác.
- Tránh được sự cứng nhắc, rập khuôn khi học toán, tạo ra được không khí
học tập vui tươi, phấn khởi cho học sinh.
- Rèn kỹ năng sang tạo, chủ động giải quyết vấn đề.
+ Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị trước một số bài “Vè” liên quan đến
kiến thức bài dạy.
+ Cách chơi:
- Sau khi hoàn thành tiết dạy, giáo viên hướng dẫn học sinh các đội thi sáng
tác “Vè” toán học (Đọc bài “Vè” mẫu cho học sinh học làm theo).
- Yêu cầu HS về nhà sưu tầm hoặc tự sáng tác. Tiết dạy hôm sau thực hiện
đọc trước lớp, Các đội lần lượt đọc các “Tác phẩm” của mình lên cho cả lớp
cùng nghe.
- Bài “Vè” nào hay, đúng trọng tâm, Suôn vần, Suôn điệu, dễ nhớ thì đội đó
sẽ giành phần thắng.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Diện tích hình thang” (Tiết 37 – Hình học 8), để
nhớ công thức tính diện tích hình thang, học sinh có thể sáng tác một số bài
“Vè” đại loại như: “Muốn tính diện tích hình thang, đáy lớn đáy bé ta mang
cộng vào, cộng vào nhân với chiều cao , chia đôi lấy nửa thế nào cũng ra”.
Hoặc khi dạy bài: “Diện tích hình thoi” (Tiết 38 – Hình học 8), bài “Vè”
có thể là: “Muốn tính diện tích hình thoi, tích hai đường chéo chia đôi ra
liền”.
Tương tự khi dạy bài: “Khái niệm tỉ số lượng giác của góc nhọn” (Tiết 5, 6 –
Hình học 9), bài “Vè” để nhớ các tỉ số lượng giác của góc nhọn có thể được
ghi là: “Sin đi học, cos không hư, tan đoàn kết, cot kết đoàn”, hoặc: “Tìm sin
lấy đối chia huyền, cosin hai cạnh kề huyền chia nhau, còn tang ta hãy tính
mau, đối trên kề dưới chia ngay ra liền”
* Trò chơi thứ năm mang tên “Ai tìm được nhiều hơn?”:
+ Mục đích:
- Rèn luyện tính nhanh nhẹn, khả năng quan sát tốt cho học sinh.
- Học sinh củng cố kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự chủ, vui tươi.
+ Chuẩn bị:
- Giáo viên ghi sẵn một số kiến thức cần thiết lên bảng phụ.
- Học sinh chuẩn bị bảng nhóm, bút lông.
+ Cách chơi:
Gv: Võ Anh Tuấn
10
- Giáo viên gắn bảng phụ lên bảng, yêu cầu học sinh tìm và liệt kê những
hình, những số, những vấn đề liên quan đến bài học.
- Trong 3 phút, đội nào tìm được nhiều hình, hoặc nhiều số,…(ghi lên bảng
nhóm) chính xác hơn thì đội đó sẽ giành thắng lợi.
Ví dụ: Khi dạy xong bài: “Đơn thức đồng dạng” (Tiết 61 – Đại số 7),
giáo viên ghi sẵn lên bảng phụ hàng loạt đơn thức, yêu cầu học sinh các đội
ghi ra những đơn thức đồng dạng lên bảng nhóm của mình, đội nào thực hiện
nhanh hơn và tìm ra được nhiều đơn thức đồng dạng hơn, đội đó sẽ chiến
thắng.
- Khi dạy xong bài: "Phân số bằng nhau" (Tiết 71 - Số học 6), Giáo viên cho
học sinh tìm ra những phân số bằng phân số đã cho.
- Khi dạy xong bài: “Tứ giác nội tiếp” (Tiết 50 – Hình học 9), giáo viên cho
học sinh các đội tìm ra những tứ giác nội tiếp được đường tròn trong các hình
như: Hình thang, hình thang vuông, hình thang cân, hình bình hành, hình
thoi, hình chữ nhật, hình vuông, tứ giác có hai đường chéo bằng nhau, tứ giác
có hai đường chéo vuông góc, …
* Trò chơi thứ sáu mang tên: “Trò chơi ô chữ”
+ Mục đích:
- Rèn luyện tính nhanh nhẹn, khả năng quan sát và hợp tác tốt cho học sinh.
- Học sinh củng cố kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự chủ, vui tươi.
+ Chuẩn bị:Giáo viên chuẩn bị một bảng kẻ ô có thể gắn các miếng bìa
chữ hoặc số lên.
+ Cách chơi: Có thể cho học sinh toàn lớp chơi. Học sinh được tổ chức
chơi như các trò chơi ô chữ.
Ví dụ:
- Khi củng cố bài: "Số nguyên tố. Hợp số" (Tiết 25 - Toán 6)
GV: Chia lớp thành ba nhóm. Mỗi nhóm chọn một hàng ngang và trả lời câu
hỏi để mở hàng ngang đó, lần lượt đến khi mở hết 9 hàng ngang thì các nhóm
rung chuông dành quyền trả lời hàng dọc.
+ Trã lời đúng mỗi từ hàng ngang được 10 điểm, nếu trã lời sai thì bị trừ đi 2
điểm và dành quyền trã lời cho đội khác.
+ Giải được từ hàng dọc được 30 điểm.
+ Sau khi kết thúc trò chơi đội nào có số điểm cao nhất nhóm đó dành chiến thắng.
1
H
Ơ
P
S
Ô
2
T
Â
P
R
Ô
N
G
3
G
I
A
O
H
O
A
N
40
K
Ê
T
H
Ơ
P
Gv: Võ Anh Tuấn
11
5
6
7
8
9
S
S
Ô
V
Ô
X
T
E
N
N
G
U
Y
Ê
N
Ư
N
N
H
I
Ê
N
T
Ô
Câu hỏi các từ hàng ngang:
1
2
3
40
Tên gọi chung của tất cả các số tự nhiên lớn hơn 1, có nhiều hơn hai ước.
Tên gọi của tập hợp không có phần tử nào cả
Công thức a + b = b + a thể hiện tính chất này
Công thức ( a . b ) . c = a . ( b . c) thể hiện tính chất này
Tên gọi của tất cả các số tự nhiên lớn hơn 1, chỉ có hai ước là 1 và chính
5
nó
6 cái được dùng làm kí hiệu cho một phép toán
7 Tên gọi chung cho các số 0, 1, 2, 3, 40, 5, …
8 Đây là một loại biểu đồ để biểu diễn tập hợp
9 Đây là kí hiệu của tập hợp số tự nhiên
Từ hang dọc: Ơ-ra-tô-xten. Ông là nhà toán học cổ Hi Lạp, là người đã
phát minh ra một loại sàng không phải để sàng lúa, gạo mà là để sàng số
nguyên tố được gọi là sàng Ơ-ra-tô-xten.
- Khi củng cố bài "Phép nhân phân số" (Tiết 85 - Toán 6)
GV: Chia lớp thành 2 đội chơi, trong khoảng thời gian 3 phút đội nào đưa ra
đáp án nhanh và đúng thì đội đó là đội thắng.
Ví dụ:
Sau khi kết thúc trò chơi giáo viên giới thiệu về người anh hùng La Văn
Cầu cho học sinh biết nhằm mục đích giáo dục.
* Trò chơi thứ bảy mang tên “Đuổi hình bắt chữ”
+ Mục đích: Qua trò chơi này học sinh được ôn lại các định lí, kiến thức
đã học. Từ các hình vẽ các em phát hiện được ra các định lí đã học.
- Rèn luyện tính nhanh nhẹn, khả năng quan sát tốt cho học sinh.
Gv: Võ Anh Tuấn
12
+ Chuẩn bị: Các tờ giấy khổ A40, vẽ các hình lên trên (các hình sẽ tùy
theo nội dung bài và kiến thức mà giáo viên cần học sinh phát hiện ra)
+ Cách chơi: Trò chơi này áp dụng theo bản quyền của trò chơi Đuổi
hình bắt chữ trên kêng truyền hình , đây cũng là một chương trình được các
em rất ưa thích. Trò chơi này tôi áp dụng cho một số bài dạy định lí trong
chương trình hình học.
Ví dụ: Dạy bài Quan hệ giữa đường vuông góc và đường xiên, đường
xiên và hình chiếu ( Hình học 7) tôi đã đưa ra một số hình ảnh sau để học sinh
đoán:
Trong các đường xiên và đường vuông góc kẻ từ một điểm ở ngoài đường
thẳng đến một đường thẳng đó, đường vuông góc là đường ngắn nhất.
Trong hai đường xiên kẻ từ một điểm nằm ngoài đường thẳng đến đường
thẳng đó, đường xiên nào có hình chiếu lớn hơn thì lớn hơn.
Trong hai đường xiên kẻ từ một điểm nằm ngoài đường thẳng đến đường
thẳng đó, đường xiên nào lớn hơn thì có hình chiếu lớn hơn.
Gv: Võ Anh Tuấn
13
Trong hai đường xiên kẻ từ một điểm nằm ngoài đường thẳng đến đường
thẳng đó, nếu hai đường xiên bằng nhau thì có hình chiếu bằng nhau ...
2.3- Tạo sự tương tác giữa học sinh
Trong các hoạt động trò chơi trên năm nay tôi có đưa thêm phần “vòng quay
may mắn” kết hợp với các hoạt động trên tạo sự tương tác thi đua giữa các
học sinh, gay hứng thú trong học tập, cũng như làm chủ bản thân học sinh tạo sự tự tin
3- Thực nghiệm sư phạm.
3.1. Hiệu quả
Trong thời gian vừa qua tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu một số trò chơi và áp
dụng vào các tiết Toán ở các lớp mà tôi được phân công giảng dạy ở trường
THCS Nguyễn Trãi, từ đầu năm học 2016 – 2017 đến nay. Qua thực tế giảng
dạy tiếp xúc với HS hàng ngày và kết quả khảo sát về sự hứng thú học tập
môn Toán của HS trường THCS Nguyễn Trãi, tôi thấy việc áp dụng lồng
ghép các trò chơi vào dạy học thật sự đã tác động mạnh mẽ vào sự hứng
thú học tập của HS. Vào mỗi giờ học có sử dụng trò chơi HS hứng thú, hăng
hái phát biểu, thể hiện sự hiểu bài một cách rõ rệt. Sự hưng phấn của các em
còn thể hiện ở nhiều câu hỏi rất lý thú, đầy ngạc nhiên và vô tư của lứa tuổi
học trò. Thực sự tôi thấy khai thác và sử dụng trò chơi vào giảng dạy đã làm
thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cách học của HS là hoàn toàn rõ rệt. Sự hứng
thú trong học tập bộ môn đã tăng lên thể hiện qua bảng khảo sát dưới đây:
Gv: Võ Anh Tuấn
140
Bảng 1: Kết quả khảo sát sự hứng thú học tập môn Toán của một số lớp
khi chưa lồng ghép trò chơi vào tiết học (Khảo sát vào đầu năm học 20162017)
Kết quả về sự hứng thú học tập môn Toán
Sỉ
Ghi
Lớp
Không thích
Thích vừa
Rất thích
số Số lượng Ta lệ (%) Số lượng Ta lệ (%) Số lượng Ta lệ (%) chú
7A 39
18
406,1
15
38,5
6
15,40
7B 39
19
408,7
16
401,3
40
10
7C 38
15
400
20
52,2
3
7,8
7D 39
16
401
21
53,8
2
51,2
6B 38
10
26,3
20
52,6
8
21,1
6C 400
10
25
240
60
6
15
6D 38
11
28,9
23
60,1
40
10,5
6E 38
8
21,1
27
71,1
3
7,8
Bảng 2: Kết quả khảo sát sự hứng thú học tập môn Toán của một số lớp
khi đã lồng ghép trò chơi vào bài dạy (Khảo sát vào đầu học kỳ II năm học
2016-2017)
Kết quả về sự hứng thú học tập môn Toán
Sỉ
Ghi
Lớp
Không thích
Thích vừa
Rất thích
số Số lượng Ta lệ (%) Số lượng Ta lệ (%) Số lượng Ta lệ (%) chú
7A 39
8
20,5
10
25,6
21
53,9
7B 39
9
23,1
10
25,6
20
51,3
7C 38
5
13,2
9
23,7
240
63,2
7D 39
6
15,40
11
28,2
22
56,40
6B 38
5
13,2
9
23,7
240
63,2
6C 400
5
12,5
12
30
23
57,5
6D 38
6
15,7
12
31,40
29
76,3
6E 38
5
13,2
15
39,5
18
407,40
Bảng 1: Kết quả khảo sát sự hứng thú học tập môn Toán của một số lớp
khi chưa lồng ghép trò chơi vào tiết học (Khảo sát vào đầu năm học 20172018)
Kết quả về sự hứng thú học tập môn Toán
Sỉ
Ghi
Lớp
Không thích
Thích vừa
Rất thích
số Số lượng Ta lệ (%) Số lượng Ta lệ (%) Số lượng Ta lệ (%) chú
7A 39
18
406,1
15
38,5
6
15,40
7B 39
19
408,7
16
401,3
40
10
7C 38
15
400
20
52,2
3
7,8
7D 39
16
401
21
53,8
2
51,2
6B 38
10
26,3
20
52,6
8
21,1
6C 400
10
25
240
60
6
15
6D 38
11
28,9
23
60,1
40
10,5
Gv: Võ Anh Tuấn
15
6E 38
8
21,1
27
71,1
3
7,8
Bảng 2: Kết quả khảo sát sự hứng thú học tập môn Toán của một số lớp
khi đã lồng ghép trò chơi vào bài dạy (Khảo sát vào đầu học kỳ II năm học
2017-2018)
Kết quả về sự hứng thú học tập môn Toán
Sỉ
Ghi
Lớp
Không thích
Thích vừa
Rất thích
số Số lượng Ta lệ (%) Số lượng Ta lệ (%) Số lượng Ta lệ (%) chú
7A 39
8
20,5
10
25,6
21
53,9
7B 39
9
23,1
10
25,6
20
51,3
7C 38
5
13,2
9
23,7
240
63,2
7D 39
6
15,40
11
28,2
22
56,40
6B 38
5
13,2
9
23,7
240
63,2
6C 400
5
12,5
12
30
23
57,5
6D 38
6
15,7
12
31,40
29
76,3
6E 38
5
13,2
15
39,5
18
407,40
Ghi chú:
- Không thích: là những HS hoàn toàn không thích học môn Toán.
- Thích vừa : là những HS thích học môn Toán tùy theo bài học (có bài thích,
có bài không thích).
- Rất thích: là những HS yêu thích học môn Toán.
3.2. Khả năng ứng dụng của đề tài.
Qua nghiên cứu đề tài này, tôi nhận thấy đề tài này có khả năng ứng dụng
vào giảng dạy các tiết Toán cũng như các môn học khác ở THCS. Và tôi sẽ
tiếp tục tìm hiểu và nghiên cứu thêm nhiều trò chơi thiết thực và bổ ích, có
tính giáo dục để mở rộng đề tài này.
Gv: Võ Anh Tuấn
16
III- KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Khi áp dụng đề tài nghiên cứu này vào giảng dạy
- Học sinh đã có hứng thú hơn với môn học và kết quả đạt được cao hơn
sau mỗi tiết học.
- Các em thích được thể hiện mình, thích được trình bày kết quả mình làm
được, thích được giúp những bạn yếu hơn.
- Những học sinh yếu kém nhờ đó mà mạnh dạn hơn, bớt tự ti, bớt ngại với
Toán. Do đó các em cũng đi học chuyên cần hơn, góp phần cùng nhà trường
trong công tác vận động học sinh đến trường và đi học chuyên cần.
- Các tiết dạy toán mà bản thân thực hiện luôn diễn ra trong không khí vui
tươi, nhẹ nhàng và thân thiện, làm cho học sinh cảm nhận được: “Một ngày
đến trường là một ngày vui”.
- Góp phần đổi mới nội dung phương pháp giảng dạy nâng cao chất lượng
giáo dục của nhà trường.
2. Kiến nghị
- Tôi mới chỉ thực hiện sáng kiến này đối với môn Toán tại đơn vị, đặc biệt
tại các khối lớp mà tôi đảm nhiệm. Nếu cấp trên xét thấy tính khả thi cao, đề
nghị triển khai rộng hơn đến với các môn học khác cúng như đơn vị khác trên
địa bàn thành phố
- Tôi viết đề tài này nhằm mục đích cùng trao đổi với các thầy cô giảng dạy
bộ môn Toán về việc sử dụng một số trò chơi lồng ghép sao cho có hiệu quả.
Vì kiến thức và thời gian còn hạn chế nên chắc rằng tài liệu còn nhiều thiếu
sót, Tôi chân thành đón nhận sự góp ý của Quý Thầy Cô. Xin chân thành cảm
ơn!
XÁC NHẬN CỦA HĐKH
Đông Hà, ngày 20 tháng 10 năm 2018
NHÀ TRƯỜNG
Người thực hiện
(Ký và ghi rõ họ tên)
Võ Anh Tuấn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Gv: Võ Anh Tuấn
17
Để thực hiện đề tài trên, tôi đã vận dụng các tài liệu sau:
1. Sách giáo khoa, Sách bài tập, sách giáo viên Toán THCS - NXBGD.
2. Sách hướng dẫn trò chơi dành cho hoạt động Đoàn - Đội của nhà xuất bản
Kim Đồng.
Gv: Võ Anh Tuấn
18
- Xem thêm -