Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Sáng kiến kinh nghiệm vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực ...

Tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực

.DOC
24
3002
101

Mô tả:

Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Mục đích Việc phát huy tính tích cực của học sinh vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn là rất quan trọng vì nó giúp học sinh biết cách dùng từ đặt câu khi viết bài. Đặc biệt nó giúp học sinh xoá đi mặc cảm ngại học văn, không thích học Văn. Từ đó chất lượng môn văn được cải thiện. .2. Đóng góp về mặt khoa học, kinh tế, xã hội... của sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo khi tiếp cận tác phẩm văn học và khi viết bài tập làm văn. 1 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. II. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở khoa học của sáng kiến kinh nghiệm 1. Cơ sở lí luận. Hiện nay, giáo dục và đào tạo đã và đang tiếp tục coi trọng đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó môn Ngữ văn là một môn khoa học có tính đặc thù, giàu tính nhân văn sâu sắc. Học văn không chỉ để cảm nhận cái hay cái đẹp của tác phẩm văn chương mà còn học cách làm người. Vì vậy, người dạy văn, học văn giống như người lao động nghệ thuật, không chỉ tìm hiểu, khám phá, cảm nhận, mà còn phải nhập thân, biến kiến thức văn chương thành máu thịt, một phần đời sống không thể thiếu của mình. Muốn vậy người giáo viên phải tổ chức cho học sinh thực sự được sống, được tham gia, được khám phá và cảm nhận kiến thức văn chương trong quá trình học. Đối với bộ môn Ngữ văn, chương trình mang tính đồng tâm, lặp lại và tiếp nối một số kiến thức đã học ở Tiểu học. Bởi vậy trong quá trình dạy học nếu giáo viên không biết cách khám phá, khai thác kiến thức và những hiểu biết đã có của học sinh để nâng cao trình độ nhận thức, kiến thức, để áp dụng cách thức tổ chức dạy học đúng đối tượng sẽ gây ra sự nhàm chán, nhạt nhẽo đối với học sinh vì các em nghĩ rằng mình phải học những điều đã biết rồi. Tuy nhiên, theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn học thì yêu cầu của vịêc tiếp cận và khai thác kiến thức môn Ngữ văn khác hẳn với yêu cầu mục tiêu dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu học. Một trong các yêu cầu phải đặt ra đối với giáo viên là phải tích cực đổi mới PPDH nhằm xây dựng lớp học thân thiện, hướng dẫn học sinh tiếp nhận, khai thác kiến thức một cách tích cực, hứng thú và chủ động, sáng tạo, đúng đặc thù của phân môn Văn nói chung và phân môn Tiếng Việt nói riêng. Học sinh từ những văn bản được học sẽ tiến tới tự biết cách dùng từ đặt câu và cao hơn là có kĩ năng tự tạo lập 2 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. được văn bản theo yêu cầu, biết nhận biết và bước đầu sử dụng được các biện pháp nghệ thuật trong sáng tạo văn chương từ đó không chỉ cảm nhận được cái hay, cái đẹp của các tác phẩm văn chương mà còn tiến tới sáng tạo ra các tác phẩm có giá trị nghệ thuật. Trên cơ sở nắm vững đặc trưng bộ môn của từng khối lớp, giáo viên phải là người hướng dẫn, tổ chức, định hướng cho học sinh từng bước tiếp cận, đi vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn chương một cách tự nhiên, say mê, hứng thú. Bằng nhiều hình thức khác nhau. người thầy cần tạo cho học sinh những cơ hội để được đọc, được cảm, được suy ngẫm được vận dụng, được sáng tạo...giáo viên không thể làm hộ, làm thay trò để trò bắt chước theo. 2. Cơ sở thực tiễn. Hiện nay, tình trạng học sinh ngại học văn, chất lượng bộ môn Ngữ văn thấp. Nguyên nhân của thực trạng này có từ nhiều phía: gia đình, xã hội, cơ chế thi cử, cơ hội tìm việc làm, thu nhập... Từ góc độ nhà trường, vấn đề chương trình, sách giáo khoa, cách dạy của thầy, cách học của trò,... Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5 tháng 6 năm 2006 của bộ tưởng Bộ GDĐT đã nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điệu kiện lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn ; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú, trách nhiệm học tập cho học sinh.” Đổi mới PPDH không phải là nội dung mới. Thực tế ngành giáo dục đã tiến hành đổi mới qua nhiều năm nhưng trong quá trình thực hiện nhiều giáo viên còn lúng túng, tổ chức chưa mấy hiệu quả. Giáo viên mặc dầu đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học văn nhưng việc thực hiện đôi khi còn mang tính chất hình thức, thử nghiệm chứ chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Vẫn không tránh 3 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. khỏi hiện tượng một bộ phận giáo viên ngại đổi mới, vẫn giữ thói quen dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều: giáo viên giảng giải, học sinh lắng nghe, ghi nhớ và nhắc lại những điều giáo viên đã truyền đạt. Từ đó vô tình biến học sinh thành " bình chứa", thiếu sự chủ động, học theo lối "học vẹt", không phát huy vai trò cá nhân. Giờ học tác phẩm văn chương vì thế vẫn chưa thu hút được sự chú ý của người học. Thực hiện chủ trương ứng dụng công nghệ thông tin, rất nhiều giáo viên đã cố gắng ứng dụng CNTT vào dạy học. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy vẫn còn nặng về hình thức, mang tính trình diễn với những hình ảnh, hiệu ứng rối mắt. Nhiều giờ dạy còn ôm đồm, tham lam nhồi nhét các loại thông tin, phim, ảnh làm mất thời gian nhiều mà hiệu quả giờ dạy vẫn nhiều hạn chế. Một số hình thức, kĩ thuật dạy học mới đã được giáo viên áp dụng, nhất là hoạt động nhóm- hoạt động tích cực nhưng giáo viên áp dụng chưa hiệu quả, vẫn chỉ mang tính hình thức. Chương 2: Thực trạng vấn đề mà nội dung sáng kiến kinh nghiệm đề cập đến. I. Khái niệm về phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực. PPDH tích cực là cách thức hoạt động của thầy và trò nhằm tích cực hoá hoạt động học tập và phát triển tính sáng tạo của người học. Trong đó các hoạt động học tập được tổ chức, định hướng bởi giáo viên, người học không thụ động chờ đợi mà tự lực tích cực tham gia vào quá trình tìm kiếm, khám phá, phát hiện kiến thức, vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề thực tiễn qua đó lĩnh hội nội dung học tập và phát triển năng lực sáng tạo. Trong dạy và học tích cực, hoạt động học tập được thực hiện trên cơ sở hợp tác và giao tiếp ở mức độ cao. Phương pháp dạy học tích cực không phải là một phương pháp dạy học cụ thể mà là một khái niệm bao gồm nhiều phương pháp, hình thức, kĩ thuật khác nhau nhằm tích cực hoá, tăng cường sự tham gia của người 4 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. học, tạo điều kiện cho người học phát triển tối đa khả năng học tập, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Phương pháp dạy học chia làm ba cấp độ: cấp độ vĩ mô (Quan điểm dạy học), cấp độ trung gian (Phương pháp dạy học cụ thể) và cấp đô vi mô (Kĩ thuật dạy học). Vậy kĩ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của giáo viên và học sinh trong các tình huống hoạt động nhằm thực hiện giải quyết một nhiệm vụ, nội dung cụ thể. Để đáp ứng các phương pháp, kĩ thuật trong dạy học đạt hiệu quả, tích cực hoá học sinh, ngoài việc tuân thủ các quy trình mang tính đặc trưng của phương pháp, kĩ thuật dạy học còn đòi hỏi sự linh hoạt, sáng tạo và nghệ thuật sư phạm của người giáo viên. Một phương pháp dạy học nào đó tự nó không tích cực hay tiêu cực. Đồng thời phương pháp nào cũng gắn liền với người sử dụng nó. Cho nên, một phương pháp dạy học có phát huy được tính tích cực học tập của học sinh hay không còn tuỳ thuộc vào năng lực của người giáo viên sử dụng nó. Tức là, bất kì cách thức tổ chức dạy học nào được thực hiện tạo nên những "chấn động", khiến các em có những vận động trí tuệ, cảm xúc đều là phương pháp dạy học tích cực. " Không nên đặt đối lập những nguyên tắc dạy học cổ điển với những nguyên tắc, lí luận dạy hoc gọi là mới. Mỗi nhóm nguyên tắc đó có một ý nghĩa, bản chất, và nếu suy nghĩ sâu sắc về từng hệ thống những nguyên tắc đó thì sẽ thấy chúng đều nhấn mạnh từ những khía cạnh khác nhau sự cần thiết phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình học tập. Vì thế không thể coi những nguyên tắc dạy học cổ điển hình như đã lỗi thời cũng như không nên tưởng rằng chỉ dựa vào những nguyên tắc lí luận dạy học "mới" mới có thể giải quyết được mọi vấn đề và mọi khó khăn của dạy học". Vận dụng các phương pháp dạy học thế nào, phát huy được tính tích cực của học sinh hay không và phát huy đến mức độ nào là tuỳ thuộc 5 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. rất lớn vào trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, vào khả năng tổ chức học sinh hoạt động học tập của giáo viên. II. Yêu cầu vận dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng. - Để dạy học đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng, giáo viên cần bám sát vào tài liệu hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng, nhất là các mục II và III: trọng tâm kiến thức, kĩ năng và hướng dẫn thực hiện để thiết kế dạy học nhằm đạt được các yêu cầu cơ bản, tối thiểu của giờ học, tránh lệ thuộc hoàn toàn vào SGK hay máy móc dạy hết toàn bộ nội dung mà sách giáo viên nêu ra dẫn đến tình trạng thiếu thời gian, quá tải, nặng về thuyết trình. Mặt khác, cần căn cứ vào khả năng tiếp thu của học sinh, vào mục tiêu bồi dưỡng học sinh năng khiếu...giáo viên phải điều chỉnh, bổ sung để dạy, kiểm tra vượt chuẩn, trên chuẩn, sao cho vẫn đảm bảo đủ kiến thức chính xác mà vẫn làm bật trọng tâm kiến thức kĩ năng của bài học. - Nghiên cứu sách giáo khoa và tài liệu tham khảo để xác định kiến thức minh hoạ cho chuẩn kiến thức – kĩ năng (chuẩn KT- KN). - Dựa vào chuẩn KT- KN để thiết kế các hoạt động trong học tập trên lớp. Nhưng như ta đã biết, để tổ chức các hoạt động học tập (nhất là các hoạt động trí tuệ, cảm xúc bên trong của học sinh), giáo viên phải sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học. đặc biệt là phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực. Bởi hoạt động học tập nói chung, hoạt động nhận thức nói riêng ở học sinh chỉ thực sự diễn ra khi nó được" kích hoạt", điều khiển bởi các biện pháp tác động của người dạy. Trong một bài học, giáo viên có thể vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp dạy học tích cực. Tuy nhiên, để vận dụng kĩ thuật dạy học tích cực vào bài học thì giáo viên phải chọn lựa 6 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. Một bài học có thể vận dụng một hoặc hai hoặc hơn hai kĩ thuật dạy học để tạo điểm nhấn cho bài học. Chương 3: Những giải pháp mang tính khả thi 1. Phân tích ngữ liệu, hình thành khái niệm một cách tích cực, sáng tạo thông qua phương pháp vấn đáp. Vấn đáp là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời, qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Đây là phương pháp dạy học phổ biến thông dụng nhất. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp là vấn đáp tái hiện, vấn đáp tìm tòi, vấn đáp giải thích minh hoạ. - Vấn đáp tái hiện: Yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã biết hoặc tái hiện nội dung miêu tả, nội dung sự kiện...trong bài học. Vấn đáp tái hiện không được xem là phương pháp có giá trị sư phạm cao bởi nó chỉ hướng người học tới tư duy bậc thấp. Tuy nhiên riêng với phân môn tiếng Việt lớp 6 thì phương pháp này lại có thể được sử dụng thường xuyên vì hầu hết các kiến thức Tiếng việt trong chương trình lớp 6 là các em đã được tìm hiểu ở tiểu học. Vì vậy để học sinh nhớ lại kiến thức buộc giáo viên phải sử dụng phương pháp này. Phương pháp này đắc dụng khi giúp học sinh tái hiện tri thức tạo cơ sở cho các hoạt động tư duy cấp cao sẽ diễn ra tiếp theo. Ví dụ: Khi dạy bài " Tính từ và cụm tính từ"- Ngữ văn 6, câu hỏi tái hiện đầu tiên giáo viên có thể sử dụng là: Dựa vào kiến thức đã học về tính từ ở tiểu học em hãy cho biết tính từ là gì? Để có câu trả lời buộc học sinh phải nhớ lại kiến thức về tính từ đã được học ở lớp dưới. Sự tái hiện ở phần này sẽ giúp học sinh có những kiến thức đầu tiên về tính 7 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. từ. Qua đó, học sinh có thể tiếp tục trả lời câu hỏi tiếp theo của giáo viên ở mức độ cao hơn, đó là câu hỏi nhận biết về tính từ. - Vấn đáp giải thích- minh hoạ: Giáo viên đưa ra những câu hỏi hướng dẫn học sinh giải thích chứng minh làm sáng rõ nội dung nào đó. Vẫn tiếp tục với ví dụ trên, giáo viên nêu câu hỏi yêu cầu học sinh giải thích, minh hoạ: (?) Tại sao em lại cho rằng các từ em vừa tìm được là các tính từ? Em hãy lấy một tính từ khác cùng có chức năng như các tính tờ vừa tìm được? - Vấn đáp tìm tòi: Giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lí để hướng dẫn học sinh từng bước phát hiện ra bản chất sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. Trong vấn đáp tìm tòi, giáo viên giống như người tổ chức tìm tòi, còn học sinh giống như người tự lực phát hiện kiến thức mới. Vì vậy, khi kết thúc cuộc đàm thoại, học sinh có được niềm vui của sự khám phá trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy. Vẫn theo ví dụ trên, giáo viên tổ chức học sinh khám phá về các chức năng khác của tính từ ngoài các chức năng các em đã biết ở tiểu học về tính từ: Chức năng ngữ pháp, khả năng kết hợp của tính từ để tạo thành cụm tính từ... (?) Tính từ thường giữ chức vụ ngữ pháp gì trong câu? (?) Nó thường kết hợp với những từ nào về phía trước? Từ nào về phía sau? + Thường làm vị ngữ. Riêng làm chủ ngữ thì hạn chế hơn + Thường kết hợp với các từ: đã, sẽ, đang, cũng, vẫn, còn.... Khi hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu, hình thành khái niệm giáo viên thường sử dụng phương pháp vấn đáp với hệ thống câu hỏi phù hợp. Thực chất của phương pháp này là giáo viên thiết kế một hệt hống câu hỏi lô gíc, chặt chẽ, dẫn dắt HS đi từ tái hiện đến phát hiện, phân tích, rút ra kết luận và vận dụng thực tiễn. 8 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. Để thực hiện tốt công việc này, câu hỏi phải có tính hướng đích rõ ràng. Câu hỏi cần cụ thể nhưng không vụn vặt, sáng lời nhưng không lộ ý, vừa gợi mở, vừa thách thức trí tuệ học sinh (HS). Điều quan trọng nhất là các câu hỏi ấy phải nhằm tích cực hoá các hoạt động tư duy của học sinh chứ không phải để thách đố học trò hay biến câu trả lời của học trò thành bước đệm để thầy thông báo kiến thức. Trong phương pháp vấn đáp giáo viên (GV) chú ý kĩ thuật đặt các loại câu hỏi theo các cấp độ nhận thức: + Câu hỏi biết + Câu hỏi hiểu + Câu hỏi phân tích + Câu hỏi đánh giá + Câu hỏi áp dụng + Câu hỏi sáng tạo 2. Phương pháp trò chơi Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó. Quy trình thực hiện: - GV phổ biến tên trò chơi, nội dung và luật chơi cho HS. - Chơi thử ( nếu cần thiết). - HS tiến hành chơi. - Đánh giá sau trò chơi. - Thảo luận về ý nghĩa giáo dục của trò chơi. 9 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. Ví dụ: Khi dạy bài Câu ghép – Ngữ văn 8, GV có thể tổ chức cho HS chơi trò chơi “Thi đặt câu ghép có sử dụng quan hệ từ”. Chuẩn bị: GV chuẩn bị 1 bảng phụ ghi các cặp quan hệ từ dùng để đặt câu: a. vì.....nên b. nếu ....thì c. tuy....nhưng d. không những.....mà còn Tiến hành: - GV chia lớp thành 2 nhóm - Yêu cầu nhóm 1 đặt vế 1, nhóm 2 đặt vế 2, sau đó đảo ngược lại. - Sau 10 giây nếu nhóm nào không ứng đối kịp thì nhóm đó sẽ bị thua. - Trò chơi tiếp tục đến khi đặt hết các cặp quan hệ từ trên bảng phụ. - GV tổng kết, khuyến khích, động viên. Hoặc khi dạy bài “Tổng kết từ vựng”- Ngữ văn 9, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Ai nhanh hơn” khi ôn tập phần Thành ngữ. - Đội chơi: 2 đội. - Nội dung chơi: Tìm thành ngữ có yếu tố chỉ động vật và thành ngữ chỉ thực vật. - Thời gian chơi: 5 phút. - Hình thức chơi: tiếp sức. Khi trò chơi kết thúc, giáo viên cùng 2 đội chơi kiểm tra kết quả, khuyến khích đội thắng cuộc. Qua trò chơi, học sinh hiểu rõ hơn đặc điểm của thành ngữ, 10 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. tăng thêm vốn thành ngữ cho mình; giáo dục tinh thần đồng đội, ý thức tổ chức kỉ luật... 3. Phương pháp dạy học nhóm. Dạy học nhóm còn được gọi bằng những tên khác nhau như: Dạy học hợp tác, Dạy học theo nhóm nhỏ, trong đó HS của một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ, trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp. Khi sử dụng phương pháp dạy học nhóm cần chú ý các kĩ thuật: *. Kĩ thuật chia nhóm Có nhiều cách chia nhóm khác nhau: - Theo số điểm danh, theo các màu sắc, theo các loài hoa, các mùa trong năm… - Theo biểu tượng - Theo hình ghép - Theo sở thích - Theo tháng sinh - Theo trình độ - Theo giới tính - Ngẫu nhiên .... *. Kĩ thuật giao nhiệm vụ Giao nhiệm vụ phải cụ thể, rõ ràng: 11 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. - Nhiệm vụ giao cho cá nhân/nhóm nào? - Nhiệm vụ là gì? - Địa điểm thực hiện nhiệm vụ ở đâu? - Thời gian thực hiện nhiệm vụ là bao nhiêu? - Phương tiện thực hiện nhiệm vụ là gì? - Sản phẩm cuối cùng cần có là gì? - Cách thức trình bày/ đánh giá sản phẩm như thế nào? Nhiệm vụ phải phù hợp với: + Mục tiêu hoạt động + Trình độ học vấn + Thời gian, không gian hoạt động + Cơ sở vật chất, trang thiết bị Ví dụ: Khi dạy Khi dạy văn bản ”Cụm danh từ”- Ngữ văn 6, tôi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm: sau khi học sinh tìm được một số cụm danh từ, HS sẽ tiến hành thảo luận. Tiến hành: - Chia nhóm: 4 nhóm (2 bàn 1 nhóm) - Nội dung thảo luận: Nội dung của phần phụ trước và phần phụ sau trong cụm danh từ. - Thời gian: 2 phút. HS sẽ nhận thức được: phần phụ trước trong cụm danh từ bổ sung ý nghĩa về mặt số và lượng, phần phụ sau nêu lên đặc điểm của sự vật mà danh từ biểu hiện hoặc xác định vị trí của sự vật đó trong không gian và thời gian. 4. Kĩ thuật học theo góc 12 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. Là một phương pháp tổ chức hoạt động học tập theo đó học sinh thức hiện được các nhiệm vụ khác nhau tại các vị trí cụ thể trong không gian lớp học đảm bảo cho HS học sâu và học thoải mái. Các bước dạy học theo góc Bước 1: Lựa chọn nội dung bài học phù hợp Bước 2: Xác định nhiệm vụ cụ thể cho từng góc Bước 3: Thiết kế các hoạt động để thực hiện nhiệm vụ ở từng góc bao gồm phương tiện, tài liệu (tư liệu nguồn, văn bản hướng dẫn làm việc theo góc; bản hướng dẫn theo mức độ hỗ trợ, bản hướng dẫn tự đánh giá,…) Bước 4: Tổ chức thực hiện học theo góc - HS được lựa chọn góc theo sở thích - HS được học luân phiên tại các góc theo thời gian quy định (ví dụ 10’ - 15’ tại mỗi góc) để đảm bảo học sâu Bước 5: Tổ chức trao đổi/chia sẻ (thực hiện linh hoạt) Trong giờ tiếng Việt giáo viên cũng có thể vận dụng kĩ thuật học theo góc ở một số bài về từ loại hoặc các phép tu từ. Giáo viên có thể cho các em lựa chọn góc học theo sở thích. Ví dụ: Hoạt động tìm hiểu về Cụm danh từ – Ngữ văn 6, giáo viên tổ chức ba góc: góc quan sát, góc phân tích và góc trải nghiệm. Góc quan sát: Giáo viên cho HS xem một số bức tranh, hình ảnh và có cụm danh từ đi kèm để rút ra đặc điểm của cụm danh từ. Góc trải nghiệm: Trên cơ sở hiểu biết về cụm danh từ, giáo viên cho học rút ra khái niệm về cụm danh từ. 13 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. Góc phân tích: Cho học sinh lấy ví dụ về cụm danh từ rồi phân tích đặc điểm cấu tạo. Để hoạt động học theo góc có kết quả, trên cơ sở bài học đã thiết kế, giáo viên bố trí không gian lớp học theo số góc phù hợp. Tốt nhất những giờ học sử dụng kĩ thuật học theo góc giáo viên có thể tổ chức cho các em học ở phòng nghe nhìn. Phòng học này bàn ghế dược kê sẵn theo số góc quy định. Mỗi góc có đủ tài liệu đồ dùng, phương tiện học tập phù hợp với nhiệm vụ học của góc đó. Trước khi HS chọn góc, giáo viên giới thiệu bài học, phương pháp học theo góc, nhiệm vụ tại mỗi góc, thời gian tối đa để thực hiện nhiệm vụ tại các góc và cho phép học sinh chọn góc xuất phát. HS lắng nghe, tìm hiểu, quyết định chọn góc theo sở thích. Tuy nhiên giáo viên sẽ phải điều chỉnh nếu như có số HS quá đông cùng chọn một góc. Giáo viên phát phiếu học tập ghi yêu cầu sau khi hoạt động ở mỗi góc. HS thực hiện nhiệm vụ tại các góc, giáo viên quan sát, hỗ trợ. Hết thời gian hoạt động tại mỗi góc, giáo viên yêu cầu HS luân chuyển góc, HS luân chuyển theo chiều nhất định, theo vòng tròn để đảm bảo học sâu. Kết thúc giờ học tại các góc, giáo viên yêu cầu đại diện các góc trình bày kết quả, các góc khác nhận xét, đánh giá. Cuối cùng là nhận xét của giáo viên về kết quả học tập của HS, chốt lại kiến thức trọng tâm của chủ đề. * Lưu ý khi thực hiện kĩ thuật học theo góc: Nhiệm vụ ở các góc phải rõ ràng cụ thể, thời gian cần được quản lí và phân bổ phù hợp với nhiệm vụ của mỗi góc và quĩ thời gian của bài học. Giờ học 45 phút thì thời gian hoạt động tối đa của HS ở mỗi góc là 10 phút. Trong học theo góc, HS có thể làm việc cá nhân hoặc theo cặp, hoặc theo nhóm tại mỗi góc. Nếu làm việc theo nhóm thì yêu cầu HS bầu nhóm trưởng, thư kí của nhóm. Học theo góc có ưu thế khác biệt với các phương pháp dạy học truyền thống là tăng cường sự tham gia, nâng cao hứng thú và cảm giác thoải mái của HS. HS 14 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. được chọn góc theo sở thích theo phong cách và tương đối độc lập trong thực hiện các nhiệm vụ nên tạo được sự hứng thú và thoải mái cho HS. Hơn nữa HS được học sâu và hiệu quả bề vững: HS được tìm hiểu một nội dung theo các cách khác nhau (quan sát, thực nghiệm, phân tích, ứng dụng...) do đó HS hiểu sâu nhớ lâu hơn so với phương pháp thuyết trình. Tuy nhiên, để thực hiện được kĩ thuật này thì không phải không gian lớp học nào cũng tiến hành được. Đây là vấn đề khó khăn trong trang thiết bị của nhà trường. Thứ hai, hoạt động này cần nhiều thời gian nên trong một tiết học giáo viên phải lựa chọn hoạt động cho phù hợp. Kĩ thuật học theo góc phù hợp với hoạt động tìm hiểu kiến thức mới trong bài học. Giáo viên không nên sử dụng kĩ thuật này trong các tiết ôn tập, hệ thống hoá kiến thức. 5. Kĩ thuật “khăn phủ bàn”. - Là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và nhóm nhằm kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực, tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS, phát triển mô hình có sự tương tác giữa các HS. - Tác dụng đối với HS: HS được học cách tiếp cận với nhiều giải pháp và chiến lược khác nhau. Rèn kĩ năng suy nghĩ, quyết định và giải quyết vấn đề; HS đạt được mục tiêu học tập cá nhân cũng như hợp tác; sự phối hợp làm việc cá nhân và làm việc nhóm tạo cơ hội nhiều hơn cho học tập có sự phân hoá. Nâng cao mối quan hệ giữa HS, tăng cường sự hợp tác giao tiếp, học cách chia sẻ kinh nghiệm và tôn trọng lẫn nhau; nâng cao hiệu quả học tập. - Cách tiến hành: Chia HS thành các nhóm và phát cho mỗi nhóm một tờ giấy A0. Trên giấy A0 chia thành các phần, gồm phần chính và các phần xung 15 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. quanh. Phần xung quanh được chia theo số thành viên của nhóm. Mỗi người ngồi vào vị trí tương ứng với từng phần xung quanh. - Thực hiện kĩ thuật "khăn phủ bàn" qua 2 giai đoạn: + Giai đoạn HS hoạt động độc lập: Các thành viên trong nhóm ngồi vào vị trí hoạt động tư duy tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,...), mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, tập trung suy nghĩ trả lời câu hỏi theo cách nghĩ, cách hiểu riêng của mỗi cá nhân và viết vào phần giấy của mình được quy định trong "khăn phủ bàn" độc lập tương đối với các thành viên khác. + Giai đoạn HS hoạt động tương tác: Trên cơ sở ý kiến của mỗi các nhân, HS thảo luận nhóm thống nhất ý kiến sau đó viết ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn phủ bàn. + Sau khi thống nhất ý kiến chung, đại diện các nhóm trình bày kết quả. Các nhóm khác tham gia phản hồi góp ý kiến, giáo viên nhận xét, kết luận. Vớ dụ: Khi dạy bài “Nghĩa tường minh và hàm ý”- Ngữ văn 9. - Chia lớp thành 6 nhóm. - Yêu cầu: tìm hàm ý trong các câu Nhóm 1: Mưa rồi đấy. Nhóm 2: Ôi nóng quá! Nhóm 3: Bút của tớ hỏng rồi. Nhóm 4: Tớ đau chân quá! Nhóm 5: Xe đạp của tớ hỏng rồi. Nhóm 6: Bài tập này khó quá. 16 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. - Học sinh viết ý kiến cá nhân vào ô. Sau đó cả nhóm tập hợp lại thảo luận thống nhất chung. Ví dụ trong câu “Ôi nóng quá” có thể đưa ra các hàm ý: + Mở cửa ra. + Bật quạt lên. + Bật quạt to lên + Đi tắm đi. * Một số lưu ý khi tổ chức dạy học theo kĩ thuật khăn phủ bàn Trong trường hợp số HS trong nhóm quá đông, không đủ chỗ trên khăn phủ bàn, có thể phát cho HS những mảnh giấy nhỏ để HS ghi ý kiến cá nhân, sau đó đính vào phần xung quanh khăn phủ bàn. Trong quá trình thảo luận thống nhất ý kiến, ghi những ý kiến thống nhất vào giữa khăn phủ bàn, những ý kiến trùng nhau có thể đính chồng lên nhau. Những ý kiến không thống nhất, cá nhân có quyền bảo lưu và được giữ lại ở phần xung quanh khăn phủ bàn. Kĩ thuật khăn phủ bàn là một kĩ thuật dạy học đơn giản, dễ thực hiện, có thể tổ chức trong tất cả các bài học giống như học theo nhóm. Tuy nhiên kĩ thuật khăn phủ bàn khắc phục được những hạn chế của học theo nhóm. Trong học theo nhóm, nếu tổ chức không tốt đôi khi chỉ có thành viên tích cực làm việc, các thành viên khác thường hay ỷ lại trông chờ hoặc không hoạt động. Do đó mất nhiều thời gian và hiệu quả học tập không cao. Trong kĩ thuật khăn phủ bàn đòi hỏi tất cả các thành viên làm việc cá nhân, suy nghĩ, viết ra ý kiến của mình trước khi thảo luận nhóm. Như vậy có sự kết hợp hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm. Các cuộc thảo luận thường có sự tham gia 17 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. của tất cả các thành viên, các thành viên có cơ hội chia sẻ ý kiến, kinh nghiệm, tự đánh giá và điều chỉnh nhận thức của mình một cách tích cực. Nhờ vậy hiệu quả học tập bảo đảm và không mất thời gian cũng như giữ được trật tự trong lớp học. Kĩ thuật khăn phủ bàn là một trong những kĩ thuật thông dụng, tích cực. Trong giờ đọc văn giáo viên có thể sử dụng kĩ thuật này ở phần luyện tập, củng cố và khắc sâu kiến thức của bài học. Phần luyện tập cuối giờ giáo viên đưa ra một số bài tập, câu hỏi mở nhằm kiểm tra sự thông hiểu và khả năng vận dụng kiến thức bài học trong thực tế của HS. Từ bài tập khăn phủ bàn giáo viên có thể kiểm tra được việc lĩnh hội kiến thức của từng HS, đánh giá mức độ dưới chuẩn, đạt chuẩn hoặc trên chuẩn. Từ đó mà điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp. Như vậy yêu cầu về câu hỏi kiểm tra phải đảm bảo mức độ: nhận biết, thông hiểu và vận dụng. 6. Sơ đồ KWL Là kĩ thuật dạy học nhằm tạo điều kiện cho người học nêu được những điều đã biết liên quan đến chủ đề, những điều muốn biết về chủ đề trước khi học và những điều đã biết sau khi học.Dựa trên sơ đồ KWL, người học tự đánh giá sự tiến bộ của mình trong việc học đồng thời giáo viên biết được kết quả học tập của người học, từ đó điều chỉnh việc học cho hiệu quả. Để tạo tình huống có vấn đề, để kiểm tra việc chuẩn bị bài, mối quan tâm của HS đối với nội dung bài học và kiến thức HS thu nhận được sau bài học, giáo viên có thể vận dụng kĩ thuật KWL. Đây là kĩ thuật dạy học nhằm tạo điều kiện cho người học nêu được những điều đã biết liên quan đến chủ đề, những điều muốn biết về chủ đề trước khi học và những điều đã học được sau khi học. Cách tiến hành: Sau khi giới thiệu bài học mục tiêu cần đạt của bài học giáo viên phát phiếu học tập "KWL", kĩ thuật này có thể thực hiện cho cá nhân hoặc cho nhóm HS. 18 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. Học sinh điền các thông tin vào phiếu như sau: Tên bài học:................................ Tên học sinh: ....................................….Lớp: ...... Trường:.................................... K W L Những điều đã biết Những điều muốn biết Những điều đã học được sau bài học - .... - .... - .... - .... - .... - .... - ... - ... - ... HS điền vào cột K những gì đã biết liên quan đến nội dung bài học hoặc chủ đề, viết vào cột W những gì các em muốn biết về nội dung bài học. Sau khi kết thúc bài học, HS điền vào cột L của phiếu những gì vừa học được. Ví dụ: Khi dạy bài “Tính từ và cụm tính từ”- Ngữ văn 6, học sinh có thể điền vào sơ đồ theo các câu hỏi gợi ý: - Em biết thế nào là tính từ ? - Em muốn biết những gì qua bài học? - Em đã biết những gì sau khi học xong bài " Tính từ và cụm tính từ" ? 19 Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn. K W L Những điều đã biết Những điều muốn biết Những điều đã học được sau bài học - Là những từ chỉ - Tính từ thường đi kèm - .... tính chất, đặc điểm với một số từ ngữ khác: - .... trạng thái của hoạt rất, hơi, quá, lắm.. để tạo - ... động.... thành cụm tính từ...... Trong giờ tiếng Việt giáo viên có thể vận dụng kĩ thuật này để kiểm tra việc chuẩn bị bài của HS, để giới thiệu bài ở đầu tiết học và để chốt kiến thức ở cuối bài học dựa trên chủ thể HS. Sơ đồ KWL có thể sử dụng trong tất cả các bài học với các mức độ và nội dung khác nhau. Sử dụng sơ đồ này sẽ phát huy được tác dụng là giúp cho HS xác định nhiệm vụ, động cơ, ý thức học tập tự giác, biết đánh giá nhìn lại quá trình học tập của mình và tự điều chỉnh cách học. Ví dụ sau bài học, HS thấy khó khăn khi điền kết quả thu được vào cột L có nghĩa là HS chưa hiểu bài. Việc chưa hiểu bài có thể do HS chưa tập trung chú ý hoặc chưa tham gia tích cực vào hoạt động học tập. Điều đó sẽ giúp cho HS tự điều chỉnh hoặc cần nghiên cứu lại tài liệu, cần đề nghị giáo viên hỗ trợ để bổ sung những kiến thức còn thiếu, chưa hiểu hoặc chưa rõ. * Một số lưu ý khi tổ chức dạy học sử dụng kĩ thuật KWL: Giáo viên có thể vận dụng sơ đồ với cá nhân HS hay với nhóm HS. Nếu sử dụng với nhóm HS thì trước khi HS điền thông tin vào cột K, yêu cầu các em trao đổi thống nhất ý kiến trong nhóm. Khi mới áp dụng kĩ thuật này, giáo viên có thể dùng những câu hỏi gợi ý để HS có thể viết những điều đã biết, muốn biết và đã được học vào các 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng