Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản...

Tài liệu Quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

.PDF
73
1
149

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUỲNH BẢO TRANG QUYỀN THỪA KẾ CỦA CÁ NHÂN ĐƯỢC SINH RA BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN KHOÁ LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 – NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUỲNH BẢO TRANG QUYỀN THỪA KẾ CỦA CÁ NHÂN ĐƯỢC SINH RA BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: THẠC SĨ NGÔ THỊ ANH VÂN TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 – NĂM 2022 LỜI CẢM ƠN Em xin gửi lời cảm ơn đến tất cả quý Thầy Cô Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã truyền đạt cho em những kiến thức quý báu trong quá trình học tập tại trường. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Giáo viên hướng dẫn đã luôn tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo em trong suốt quá trình thực hiện khoá luận này. Do sự hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm của bản thân nên khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét từ Thầy Cô để khóa luận có thể được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Từ viết đầy đủ BLDS Bộ luật Dân sự Luật HNGĐ Luật Hôn nhân và gia đình MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN THỪA KẾ CỦA CÁ NHÂN ĐƯỢC SINH RA BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN .................................. 11 1.1. Khái niệm về quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ...................................................................................................................... 11 1.1.1. Khái niệm về quyền thừa kế.......................................................................... 11 1.1.2. Khái niệm về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và các trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản........................................................................... 15 1.2. Đặc điểm của quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ...................................................................................................................... 17 1.3. Ý nghĩa của quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản .............................................................................................................................. 21 1.4. Pháp luật của một số quốc gia về quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ............................................................................................ 25 1.4.1. Pháp luật của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ............................................................ 25 1.4.2. Pháp luật của Hoa Kỳ về quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ............................................................................................... 28 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................ 30 CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN THỪA KẾ CỦA CÁ NHÂN ĐƯỢC SINH RA BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN.............................................................................................................. 31 2.1. Nội dung quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản .............................................................................................................................. 31 2.1.1. Quyền để lại tài sản cho người khác sau khi chết của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ................................................................................. 31 2.1.2. Quyền hưởng di sản do người khác để lại của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ............................................................................................... 35 2.2. Điều kiện để cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có quyền hưởng thừa kế ........................................................................................................... 37 2.2.1. Pháp luật hiện hành về điều kiện để cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có quyền hưởng thừa kế...................................................................... 37 2.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về điều kiện để cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có quyền hưởng thừa kế ....................................................... 44 2.3. Quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong mối quan hệ với các chủ thể có liên quan ................................................................ 53 2.3.1. Quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong mối quan hệ với người hiến tinh trùng, noãn ......................................................... 53 2.3.2. Quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong mối quan hệ với người được xác định là cha, mẹ................................................... 54 2.3.3. Quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong mối quan hệ với các thành viên khác trong gia đình.............................................. 56 2.3.4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền hưởng thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đối với những thành viên trong gia đình .... 57 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................ 60 KẾT LUẬN ................................................................................................................... 61 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Với sự phát triển không ngừng của xã hội, khoa học và công nghệ trên thế giới đã đạt được những thành tựu nhất định. Điều này đã tạo ra bước tiến mới trong tất cả các khía cạnh của đời sống xã hội. Ở lĩnh vực y học, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ra đời đặt nền tảng cho các phương pháp điều trị vô sinh hiện đại. Theo thống kê về các trường hợp thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mỗi năm có khoảng nửa triệu trẻ em được sinh ra nhờ thụ tinh nhân tạo hay thụ tinh trong ống nghiệm trên thế giới. Tại Việt Nam, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được áp dụng ngày càng phổ biến và mang đến cơ hội rộng mở hơn cho các chủ thể có mong muốn trở thành cha, mẹ. Có thể thấy rằng, việc thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để sinh con không còn là mong muốn của một nhóm người, mà dần trở thành nhu cầu phổ biến đối với các chủ thể không có khả năng sinh con bằng cách thức tự nhiên. Trên cơ sở này, pháp luật hiện hành chính thức thừa nhận khả năng áp dụng một số kỹ thuật hỗ trợ sinh sản như thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm để sinh con. Cùng với đó, vấn đề quyền thừa kế của các chủ thể có liên quan trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu khi việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được pháp luật ghi nhận. Quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không chỉ là quyền lợi về mặt tài sản một cách đơn thuần mà còn đan xen các yếu tố tình cảm, cũng như đạo đức xã hội. Vì vậy, việc giải quyết các tranh chấp có liên quan cũng là một vấn đề không đơn giản. Hiện nay, các vấn đề liên quan đến quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản chủ yếu được điều chỉnh bởi quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Về cơ bản, quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được pháp luật thừa nhận và đặt ra các biện pháp bảo vệ tương ứng. Mặc dù vậy, các vấn đề xã hội mới phát sinh khiến cho pháp luật hiện hành có thể chưa đảm bảo một hành lang pháp lý để điều chỉnh một cách đầy đủ. Tại thời điểm Bộ luật Dân sự năm 2015, cũng như các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan được ban hành, việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản chưa thực sự phổ biến trên thực tế. Cũng vì thế, những quy 2 định về quyền thừa kế chỉ mang tính nguyên tắc và chưa có sự chuyên biệt đối với trường hợp cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Quyền thừa kế là một trong những quyền quan trọng của các chủ thể trong lĩnh vực dân sự. Vì vậy, việc bảo vệ quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cũng hướng đến sự ổn định trong quan hệ pháp luật dân sự. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản” để thực hiện khoá luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu 2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là một vấn đề thu hút sự quan tâm của xã hội trong những năm gần đây. Hiện nay, có khá nhiều các nghiên cứu liên quan đến quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, sau đây là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu: - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam: Giáo trình đóng vai trò là nguồn cung cấp kiến thức cơ bản về thừa kế trong quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. Khi tiếp cận vấn đề quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, giáo trình chưa xem xét một cách chi tiết mà chỉ trình bày lồng ghép với phần nội dung về người thừa kế. - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam: Giáo trình phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình, trong đó có vấn đề xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản – cơ sở cho quyền thừa kế của các chủ thể này đối với di sản của nhau. Mặc dù vậy, vấn đề xác định cha, mẹ cho con trong trường hợp con được sinh ra sau 300 ngày kể từ thời điểm người chồng chết chưa được đề cập cụ thể. - Lê Minh Hùng (2003), Hoàn thiện chế định quyền thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam hiện hành, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh: Trong luận văn này, tác giả trình bày các nội dung liên quan đến chế định quyền thừa kế 3 và thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định quyền thừa kế. Đây là nguồn tài liệu rất có ý nghĩa đối với quá trình thực hiện đề tài của tác giả, nhất là những vấn đề lý luận chung về quyền thừa kế. - Nguyễn Văn Hợi (Chủ nhiệm đề tài) (2020), Bảo đảm quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo pháp luật Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Đại học Luật Hà Nội: Đề tài đã nghiên cứu pháp luật Việt Nam về việc đảm bảo quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Bên cạnh đó, các tác giả cũng tìm hiểu quy định của pháp luật nước ngoài có liên quan đến vấn đề này và đề xuất kinh nghiệm cho Việt Nam như: ghi nhận quyền thừa kế của con được sinh ra sau 300 ngày kể từ khi người cha về mặt sinh học chết; công nhận con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là con đẻ của người áp dụng kỹ thuật này; xác định thời điểm cá nhân được coi là thành thai và một cá nhân phải tồn tại bao lâu thì được coi là sinh ra còn sống. - Huỳnh Mai Yến (2021), Quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh: Luận văn chỉ ra một số bất cập trong quy định của pháp luật hiện hành về điều kiện thành thai của người thừa kế, trường hợp cá nhân thành thai từ giao tử của người đã chết và tư cách thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Tương ứng với đó, tác giả đưa ra các kiến nghị về việc bổ sung trường hợp con thành thai sau thời điểm mở thừa kế được hưởng di sản của cha, mẹ đã chết; cho phép sinh con sau khi một người chết với các điều kiện kèm theo như mối quan hệ di truyền, ý chí của người đã chết, giới hạn thời gian sinh con, chủ thể được sử dụng vật liệu di truyền của người đã chết để thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; ghi nhận con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được xem như con đẻ của người áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. - Nguyễn Minh Oanh (2020), “Bàn luận về quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 4: Bài viết nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam được áp dụng đối với người thừa kế là cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Từ đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị như: ghi nhận con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vào hàng thừa kế hoặc thừa nhận con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được coi như con đẻ của người được xác định 4 là cha, mẹ; trong trường hợp cặp vợ chồng vô sinh, phụ nữ độc thân vẫn có thể thụ thai bằng noãn hoặc tinh trùng của mình nhưng quá trình thực hiện lại có sự sai sót và sau đó phát hiện đứa trẻ không có cùng huyết thống với mình thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng cần hướng dẫn rõ ràng về việc xác định quan hệ cha, mẹ - con. - Ngô Thị Anh Vân (2020), “Pháp luật về lấy, sử dụng noãn, tinh trùng của người chết cho mục đích sinh sản”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 9: Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả về việc chấp nhận sử dụng noãn, tinh trùng của người chết để sinh con cho chính người đó. Trong bài viết này, tác giả cũng nghiên cứu các vấn đề liên quan đến điều kiện lấy noãn, tinh trùng của người chết; chủ thể có quyền sử dụng noãn, tinh trùng của người chết; thời hạn áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để sinh con và các hệ quả pháp lý kèm theo. - Nguyễn Phương Thảo (2017), “Quyền thừa kế của người thành thai và sinh ra sau thời điểm mở thừa kế”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 20: Tác giả phân tích quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về quyền thừa kế của người thành thai và sinh ra sau thời điểm mở thừa kế và chủ yếu bàn luận về điều kiện để người con có quyền hưởng di sản trong trường hợp sau khi một bên vợ, chồng chết, người còn lại vẫn sử dụng vật liệu di truyền để sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. - Nguyễn Văn Hợi, Hoàng Thị Loan (2020), “Một số vấn đề pháp lý về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản”, Tạp chí Pháp luật và thực tiễn, số 43: Trong phạm vi một bài viết tạp chí, tác giả chỉ tập trung xem xét trường hợp người vợ sinh con bằng tinh trùng của người chồng đã chết. Theo tác giả, pháp luật nên sửa đổi theo hướng thừa nhận quan hệ cha – con và ghi nhận quyền thừa kế cho con trong trường hợp này nếu có căn cứ xác định trẻ có cùng huyết thống với người đã chết. - Ngô Thị Anh Vân (Chủ nhiệm đề tài) (2018), Xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong pháp luật Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh: Công trình nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mà chủ yếu là nguyên tắc xác định quan hệ cha, mẹ - con. Trong đó, tác giả cũng đề cập đến vấn đề xác định cha cho con được sinh ra sau 300 ngày kể từ ngày người chồng chết. 5 - Nguyễn Phương Thảo (Chủ nhiệm đề tài) (2018), Nghiên cứu so sánh người thừa kế theo pháp luật tại Việt Nam và một số quốc gia, Đề tài khoa học và công nghệ cấp trường, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh: Bên cạnh các vấn đề liên quan đến người thừa kế theo pháp luật như hàng thừa kế, thừa kế thế vị, tác giả dành một phần nội dung đề tài để đề cập đến quyền thừa kế của người thành thai và sinh ra sau thời điểm mở thừa kế. Trong đó, tác giả tìm hiểu về điều kiện hưởng thừa kế, nội dung quyền và nghĩa vụ của người thừa kế thành thai và sinh ra sau thời điểm mở thừa kế. Bên cạnh các công trình nghiên cứu nêu trên, cũng có một số tài liệu có giá trị tham khảo như: Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017), Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, Nxb. Tư pháp; Đoàn Thị Phương Diệp, Đoàn Thanh Hải (2019), “Sinh con từ tinh trùng của người chết – So sánh pháp luật và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 3; Nguyễn Hồ Bích Hằng (2015), Một số bất cập của quy định về người thừa kế trong luật Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện, Hội thảo Chế định thừa kế trong Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Hồ Bích Hằng, Ngô Thị Anh Vân (2015), “Một số góp ý về người thừa kế theo quy định của Bộ luật Dân sự - Bàn về tư cách hưởng thừa kế của người được thành thai và sinh ra sau thời điểm mở thừa kế”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 5; Nguyễn Văn Lâm (2015), “Từ những quy định pháp luật về mang thai hộ - Quan niệm thế nào về “huyết thống” và “mẹ””, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9. 2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước - Lali Bagrationi (2017), “The Right of Inheritance and Modern Reproductive Technologies”, European Scientific Journal, vol. 12, no. 10: Tác giả thảo luận về các vấn đề xoay quanh quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mà chủ yếu là mối quan hệ giữa cá nhân được sinh ra bằng biện pháp mang thai hộ với người nhờ mang thai hộ. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề xuất ghi nhận quyền thừa kế của người được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thành thai và sinh ra sau khi cha, mẹ chết, nếu đáp ứng các điều kiện nhất định. - Cassandra M. Ramey (2017), “Inheritance Rights of Posthumously Conceived Children: A Plan for Nevada”, Nevada Law Journal, vol. 17, no. 3: Thông qua việc phân tích pháp luật bang Nevada – Hoa Kỳ, tác giả làm rõ những vấn đề pháp lý đặt ra khi cá 6 nhân có thể được sinh ra rất lâu sau khi cha, mẹ chết, nhờ việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Từ đó, tác giả chỉ ra những bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo quyền thừa kế của cá nhân thành thai và sinh ra sau khi cha, mẹ chết. Ngoài ra, một số tranh chấp về quyền thừa kế cũng được đề cập và phân tích trong bài viết này. - Jean Denise Krebs (2018), “Any Man Can Be a Father, but Should a Dead Man Be a Dad: An Approach to the Formal Legalization of Posthumous Sperm Retrieval and Posthumous Reproduction in the United States”, Hofstra Law Review, vol. 47, no. 2: Tác giả tìm hiểu một cách khái quát quan điểm pháp lý của các quốc gia như Anh, Pháp, Israel về vấn đề công nhận quyền thừa kế của cá nhân thành thai và sinh ra từ tinh trùng của người cha đã chết. Bài viết cũng giới thiệu nhiều vụ việc xảy ra trên thực tế liên quan đến vấn đề này. Cùng với đó, pháp luật Hoa Kỳ hiện hành được tác giả phân tích nhằm đưa ra một số đề xuất về việc giải quyết hậu quả pháp lý của việc sinh con từ tế bào sinh sản của người đã chết. - Justin d’Almaine, Frederick Noel Zaal (2018), “Inheritance Rights for Posthumously Procreated Children: A Growing Challenge for the Law”, Potchefstroom Electronic Law Journal, vol. 21: Bài viết phân tích các vấn đề lý luận về quyền thừa kế của cá nhân thành thai và sinh ra sau khi cha, mẹ đã chết trong pháp luật Cộng hoà Nam Phi. Đồng thời, tác giả cũng giới thiệu một số vụ việc có liên quan và so sánh, đối chiếu với pháp luật Hoa Kỳ, Canada. - Jeffrey Walters (2014), “Thawing the Inheritance Rights of Maybe Babies: An Answer to Indiana’s Statutory Silence on Posthumously Conceived Children”, Valparaiso University Law Review, vol. 48, no. 4: Tác giả phân tích những điểm phù hợp và những bất cập còn tồn tại trong pháp luật bang Indiana – Hoa Kỳ về quyền thừa kế của cá nhân thành thai sau khi cha, mẹ chết. Trên cơ sở đó, tác giả kiến nghị ghi nhận quyền thừa kế của cá nhân thành thai sau khi cha, mẹ chết nếu giữa họ có mối quan hệ di truyền và người đã chết đồng ý về việc trẻ được sinh ra. - Ying Tan, Xingxing Tao, Huachao Deng, Yue Zhang, Ni Qi, Ya Zhang, Yajing Luo, Ziyi Lin, Yuqing Zhang (2020), The Current Status and Enlightenment of Legal Regulation of Artificial Reproduction After Death in China and Foreign Countries, Proceedings of the 2020 International Conference on Management, Economy and Law 7 (ICMEL 2020): Bài viết mang đến cái nhìn khái quát về việc công nhận quyền thừa kế của cá nhân được thành thai và sinh ra sau khi cha, mẹ đã chết nhờ việc thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ở các quốc gia như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Australia, Tây Ban Nha… Từ đó, tác giả đưa ra một số đề xuất mang tính định hướng phù hợp với bối cảnh xã hội Trung Quốc hiện nay. - 朱晓峰 (2016), “评最高人民法院指导案例 50 号: 兼论生育权保护”, 西安电 子科技大学学报 (社会科学版), 第 26 卷第 5 期 (Zhu Xiao Feng (2016), “Bình luận về Hướng dẫn Án lệ số 50 của Tòa án nhân dân tối cao: Về bảo vệ quyền sinh sản”, Tạp chí Trường Đại học Xidian (Ấn bản khoa học xã hội), Tập 26, số 5): Trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích, bình luận về hướng giải quyết của Toà án nhân dân tối cao trong Án lệ số 50 của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về quyền hưởng di sản thừa kế của người con được sinh ra bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo. Đồng thời, tác giả cũng làm rõ cách hiểu về điều kiện để xác định quan hệ cha, mẹ - con giữa cặp vợ chồng thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và trẻ được sinh ra. - 刘士国 (2016 年), “中国胚胎诉讼第一案评析及立法建议”, 当代法学学报, 2 期 (Liu Shi Guo (2016), “Phân tích và đề xuất lập pháp về trường hợp tranh chấp phôi thai đầu tiên ở Trung Quốc”, Tạp chí Pháp luật đương đại, số 2): Bài viết giới thiệu tranh chấp xảy ra tại Trung Quốc giữa Bệnh viện với cha mẹ của người đã chết về quyền định đoạt phôi đông lạnh của người này. Tác giả phân tích rất chi tiết các cơ sở pháp lý mà Toà án đã áp dụng để giải quyết vụ việc. Đồng thời, quan điểm của tác giả về khả năng sử dụng phôi đông lạnh của người đã chết để sinh con cũng được thể hiện trong bài viết. Ngoài ra, có thể kể đến một số bài viết như: Allison Stewart Ellis (2012), “Inheritance Rights of Posthumously Conceived Children in Texas”, St. Mary’s Law Journal, vol. 43, no. 2; Christine E. Doucet (2013), “From en Ventre Sa Mere to Thawing an Heir: Posthumously Conceived Children and the Implications for Succession Law in Canada”, Dalhousie Journal of Legal Studies, vol. 22; Colette Archer (2002), “Scrambled Eggs: Defining Parenthood and Inheritance Rights of Children Born of Reproductive Technology”, Loyola Journal of Public Interest Law, vol. 3, no. 2; Sheldon F. Kurtz, Lawrence W. Waggoner (2009), “The UPC Addresses the Class-Gift and Intestacy Rights of Children of Assisted Reproduction Technologies”, ACTEC Journal, 8 vol. 35, no. 1; Kristine S. Knaplund (2012), “Children of Assisted Reproduction”, University of Michigan Journal of Law Reform, vol. 45, no. 4; Jane Marie Lewis (2012), “New-Age Babies and Age-Old Laws: The Need for an Intent-Based Approach in Tennessee to Preserve Parent-Child Succession for Children of Assisted Reproductive Technology”, University of Memphis Law Review, vol. 43, no. 2. Những công trình nghiên cứu này đã phân tích các quy định về quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Trong đó, một số công trình đề cập đến trường hợp sinh con sau khi một người đã chết từ vật liệu di truyền của họ và đưa ra quan điểm về việc có công nhận quyền thừa kế của người con đối với di sản của cha, mẹ đã chết hay không. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu xoay quanh quyền hưởng thừa kế của người con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đối với di sản của người được xác định là cha, mẹ, mà chưa đi sâu vào mối quan hệ với các chủ thể khác. Nhiều công trình tập trung vào trường hợp sinh con sau khi cha, mẹ đã chết và giải quyết những hệ quả có thể phát sinh sau đó như quyền lợi về mặt nhân thân và về mặt tài sản, trong đó có quyền thừa kế. Đây là nguồn tài liệu có giá trị tham khảo cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với việc thực hiện đề tài của tác giả. Từ tổng quan tình hình nghiên cứu nêu trên, có thể thấy rằng các công trình chưa thực sự tập trung khai thác một cách toàn diện về quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Vì vậy, tác giả sẽ tập trung làm rõ vấn đề này thông qua đề tài nghiên cứu của mình. 3. Mục tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Thứ nhất, thông qua việc nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng đến việc tìm hiểu các quy định của pháp luật dân sự hiện hành về quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Thứ hai, dựa trên cơ sở lý luận, tác giả chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật về điều kiện để cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có quyền hưởng thừa kế và quyền thừa kế của người này trong mối quan hệ với các chủ thể có liên quan. 9 Thứ ba, từ những bất cập đã tìm được, tác giả đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật để bảo vệ tốt hơn quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và hạn chế những tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu về quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, cụ thể như sau: Thứ nhất, tác giả nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Thứ hai, thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được tác giả phân tích và tìm ra những bất cập còn tồn tại. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Về không gian, trong đề tài này tác giả sẽ tập trung phân tích và làm rõ các vấn đề tồn tại ở Việt Nam. Về nội dung, tác giả chủ yếu tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền hưởng di sản thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Với quyền để lại tài sản của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, tác giả chỉ dừng lại ở việc phân tích một cách khái quát các vấn đề lý luận chung. Đối với các vấn đề như thời điểm mở thừa kế, di sản thừa kế, người quản lý di sản thừa kế, thời hiệu thừa kế… pháp luật về thừa kế không có sự phân biệt giữa các chủ thể, vì vậy, trong phạm vi khoá luận, tác giả tập trung nghiên cứu các nội dung có tính chuyên biệt về quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài một cách hiệu quả, tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau: Thứ nhất, phương pháp phân tích và tổng hợp: Tác giả sử dụng phương pháp này để phân tích các khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Đồng thời, phương pháp phân tích, tổng hợp cũng được 10 sử dụng để tìm hiểu, đánh giá việc áp dụng quy định của pháp luật hiện hành vào các vụ việc xảy ra trong thực tiễn. Từ đó, tác giả chỉ ra những vấn đề còn bất cập trong pháp luật Việt Nam. Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt trong cả Chương 1 và Chương 2 của đề tài. Thứ hai, phương pháp so sánh, đối chiếu: Tác giả đã thực hiện việc so sánh, đối chiếu pháp luật Việt Nam hiện hành với pháp luật các quốc gia như: Hoa Kỳ, Canada, Trung Quốc… Đây là những quốc gia tiêu biểu có quy định điều chỉnh cụ thể vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị phù hợp với bối cảnh ở Việt Nam. Phương pháp này được tác giả sử dụng chủ yếu ở Chương 2 và một số nội dung của Chương 1. 5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của đề tài mang đến kiến thức về quyền thừa kế nói chung và quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nói riêng, liên quan đến nội dung quyền thừa kế, điều kiện để có quyền hưởng di sản, quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong mối quan hệ với các chủ thể có liên quan. Về mặt thực tiễn, đề tài là một nguồn tài liệu tham khảo trong lĩnh vực dân sự. Thông qua đề tài, tác giả đưa ra một số đề xuất để hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam. Từ đó, góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội. 6. Bố cục của đề tài Đề tài được chia thành hai chương: Chương 1. Những vấn đề chung về quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản Chương 2. Pháp luật hiện hành về quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và kiến nghị hoàn thiện 11 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN THỪA KẾ CỦA CÁ NHÂN ĐƯỢC SINH RA BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN 1.1. Khái niệm về quyền thừa kế của cá nhân được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản 1.1.1. Khái niệm về quyền thừa kế Quan hệ thừa kế là một trong những quan hệ xã hội đã xuất hiện từ rất lâu. Việc dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống đã làm hình thành nên quan hệ xã hội tương ứng là quan hệ thừa kế1. Khi chưa có Nhà nước, thừa kế chỉ đơn thuần là sự dịch chuyển tài sản của người chết cho người sống theo phong tục, tập quán. Đến khi Nhà nước xuất hiện, quan hệ thừa kế mới chịu sự chi phối bởi ý chí của Nhà nước thông qua pháp luật2. Thừa kế là một quan hệ phổ biến và có tác động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội. Việc dịch chuyển tài sản của người chết không chỉ liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người thừa kế, mà còn ảnh hưởng đến lợi ích chung của cộng đồng. Vì vậy, quan hệ thừa kế cần được điều chỉnh bởi quy định của pháp luật. Vấn đề thừa kế chịu sự chi phối rất lớn bởi truyền thống, văn hoá, điều kiện kinh tế, xã hội của quốc gia. Tương ứng với mỗi xã hội khác nhau, quy định về thừa kế luôn chứa đựng những sự khác biệt nhất định. Theo nghĩa thông thường, “thừa” là “nhận lấy” và “kế” là “tiếp tục”, “tiếp nối”. Từ điển tiếng Việt xác định “thừa” và “kế” đều có nghĩa là “nối tiếp”, “tiếp theo”3. Vì vậy, “thừa kế” thường được hiểu là “hưởng của người chết để lại cho”4. Từ đây, có thể hiểu rằng, thừa kế là sự dịch chuyển khối tài sản từ người đã chết sang người còn sống5 1 Lê Minh Hùng (2003), Hoàn thiện chế định quyền thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam hiện hành, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 6. 2 Nguyễn Phương Thảo (Chủ nhiệm đề tài) (2018), Nghiên cứu so sánh người thừa kế theo pháp luật tại Việt Nam và một số quốc gia, Đề tài khoa học và công nghệ cấp trường, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 10. 3 Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, tr. 1784. 4 Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, tr. 895. 5 Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 235. 12 hoặc sự truyền lại tài sản và các lợi ích khác của cá nhân đã chết cho con cháu trực hệ và cho những người khác6. Trong lĩnh vực pháp lý, có quan điểm cho rằng: “Thừa kế là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho những người còn sống. Thừa kế luôn gắn với chủ sở hữu, sở hữu là yếu tố quyết định thừa kế và thừa kế là phương tiện để duy trì, củng cố quan hệ sở hữu”7. Tương tự như vậy, thừa kế cũng có thể được hiểu là “một phạm trù kinh tế, phản ánh quá trình dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống, nhằm để duy trì quyền sở hữu của tư nhân”8; hoặc thừa kế là “việc dịch chuyển tài sản của người chết cho một chủ thể - đó có thể là cá nhân hoặc pháp nhân – theo ý chí của người để lại di sản hoặc theo các quy tắc của xã hội, mà mỗi chế độ xã hội khác nhau có những quy tắc khác nhau do điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội… quyết định”9. Theo tác giả, có thể hiểu một cách chung nhất rằng, thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của cá nhân đã chết cho một hoặc nhiều chủ thể đang tồn tại, theo ý chí của người có tài sản hoặc theo quy định của pháp luật. Trong đó, thừa kế theo pháp luật là “thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”10. Đúng với tên gọi của mình, thừa kế theo pháp luật được phát sinh trên cơ sở quy định của pháp luật mà không thông qua sự định đoạt của người để lại di sản. Cơ sở cho hình thức thừa kế này là mối quan hệ gần gũi giữa người để lại di sản và những chủ thể được xác định là người thuộc diện thừa kế. Khác với thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc là sự thể hiện ý chí của người có tài sản, bằng di chúc xác định tài sản của mình sẽ được dịch chuyển cho những chủ thể nào sau khi họ chết. Ở Việt Nam, quan hệ thừa kế chủ yếu được điều chỉnh bởi quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS năm 2015). Bên cạnh các quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản, nghĩa vụ, hợp đồng, pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có 6 Lê Minh Hùng, tlđd (1), tr. 6. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb. Công an nhân dân, tr. 123. 8 Lê Minh Hùng, tlđd (1), tr. 7. 9 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tr. 396. 10 Điều 649 BLDS năm 2015. 7 13 yếu tố nước ngoài… thừa kế là một trong những nội dung quan trọng của BLDS. Nếu thừa kế là một hiện tượng xã hội thì quyền thừa kế là một hiện tượng pháp luật. Sự tác động của pháp luật vào quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho người sống được gọi là quyền thừa kế11. Quyền thừa kế được quy định tại Điều 609 BLDS năm 2015, theo đó: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Hiểu theo nghĩa khách quan, quyền thừa kế là một chế định của pháp luật dân sự, gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh quá trình dịch chuyển tài sản của người đã chết cho những người còn sống12. Theo nghĩa chủ quan, có ý kiến cho rằng quyền thừa kế là “quyền của chủ thể được để lại tài sản của mình cho người khác hưởng sau khi chết và quyền của chủ thể được hưởng di sản của người khác để lại”13 hoặc quyền thừa kế là một quyền năng dân sự cụ thể, quyền này được thể hiện dưới hai khía cạnh là quyền để lại di sản thừa kế của người có tài sản sau khi người này chết và quyền được hưởng di sản thừa kế từ những người đã chết14. Quyền thừa kế cũng có thể được hiểu là “quyền dân sự cụ thể của người để lại di sản và những người nhận di sản thừa kế”15. Nhìn chung, các quan điểm về khái niệm quyền thừa kế vừa nêu mặc dù có sự khác biệt, nhưng vẫn thể hiện rõ ràng bản chất của quyền thừa kế là quyền của chủ thể trong việc định đoạt tài sản sau khi chết và được nhận phần di sản do người khác để lại cho mình, thông qua một trong hai hình thức: theo ý chí của người có tài sản thể hiện trong di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, cá nhân có toàn quyền định đoạt. Thông thường, việc định đoạt tài sản có thể được thực hiện thông qua việc chủ sở hữu xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Tuy vậy, khi cá nhân chết đi thì năng lực pháp luật 11 Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017), Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, Nxb. Tư pháp, tr. 7. 12 Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), “Chế định quyền thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí Toà án nhân dân điện tử, [https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/che-dinh-quyen-thua-ketrong-phap-luat-dan-su-viet-nam] (Truy cập ngày 24/4/2022). 13 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (9), tr. 398. 14 Nguyễn Phương Thảo, tlđd (2), tr. 11. 15 Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (Chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Công an nhân dân, tr. 925. 14 dân sự của họ cũng chấm dứt16. Tài sản của người này vì thế không thể tiếp tục được dịch chuyển theo cách thức thông thường như mua bán, trao đổi hay tặng cho… như khi còn sống, mà chỉ có thể được định đoạt trước thông qua một hình thức đặc biệt là di chúc. Ở chiều ngược lại, những chủ thể được cá nhân đã chết mong muốn để lại tài sản cũng có quyền hưởng di sản. Quyền để lại tài sản của cá nhân đã chết là cơ sở cho quyền hưởng di sản của các chủ thể được chỉ định. Ý chí của người để lại di sản về cơ bản không thể thực hiện được nếu quyền hưởng di sản không được thừa nhận. Như vậy, quyền để lại tài sản cho người khác và quyền hưởng di sản do người khác để lại là hai nội dung không thể tách rời của quyền thừa kế. Quyền thừa kế và quyền sở hữu mặc dù là hai quyền dân sự độc lập nhưng vẫn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Điều này trước hết thể hiện qua việc Hiến pháp năm 2013 ghi nhận việc bảo hộ quyền sở hữu và quyền thừa kế đồng thời trong cùng một điều khoản17. Quyền sở hữu là cơ sở để thừa nhận quyền thừa kế của các chủ thể. Xuất phát từ việc thừa nhận quyền sở hữu, cá nhân mới có quyền định đoạt tài sản của mình khi còn sống và sau khi đã chết. Ngược lại, quyền thừa kế là một công cụ để người có tài sản củng cố quyền sở hữu của mình. Quyền định đoạt là một trong những nội dung của quyền sở hữu. Xác định di sản thừa kế sẽ được dịch chuyển cho chủ thể nào sau khi chết chính là việc chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản. Khi tài sản được dịch chuyển từ người chết sang cho người sống, quyền thừa kế đóng vai trò là công cụ để nối dài quyền sở hữu đối với tài sản. Mặt khác, quyền sở hữu của những người thừa kế cũng được củng cố thông qua quyền thừa kế. Việc hưởng di sản thừa kế là căn cứ để người thừa kế xác lập quyền sở hữu đối với tài sản mà mình được nhận18. Thông qua quyền thừa kế, quyền sở hữu tư nhân được củng cố và duy trì. Tóm lại, thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của cá nhân đã chết cho một hoặc nhiều chủ thể đang tồn tại, theo ý chí của người có tài sản hoặc theo quy định của pháp luật. Từ đó, có thể rút ra khái niệm về quyền thừa kế như sau: quyền thừa kế là quyền 16 Khoản 3 Điều 16 BLDS năm 2015. Khoản 2 Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”. 18 Điều 234 BLDS năm 2015. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan