BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
-----------***------------
NGUYỄN LÊ MINH HẠNH
MSSV : 1853801015061
QUYỀN TÁC GIẢ VÀ TRÍ TUỆ NHÂN
TẠO TRONG CUỘC CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP 4.0
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Niên khóa: 2018 - 2022
Người hướng dẫn : ThS. Đào Thị Vui
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2022
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
-----------***------------
NGUYỄN LÊ MINH HẠNH
MSSV: 1853801015061
QUYỀN TÁC GIẢ VÀ TRÍ TUỆ NHÂN
TẠO TRONG CUỘC CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP 4.0
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Niên khóa: 2018 – 2022
Người hướng dẫn:
ThS. Đào Thị Vui
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Đào Thị Vui, đảm bảo tính
trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tôi xin
chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày 29 tháng 06 năm 2022
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Lê Minh Hạnh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................8
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ TRÍ TUỆ NHÂN
TẠO TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 .................................8
1.1 Tổng quan về quyền tác giả ................................................................................8
1.1.1 Khái niệm quyền tác giả............................................................................. 8
1.1.2 Đặc điểm quyền tác giả .............................................................................. 9
1.1.3 Điều kiện bảo hộ quyền tác giả ............................................................... 12
1.1.4 Chủ thể quyền và nội dung quyền tác giả ............................................... 15
1.2 Trí tuệ nhân tạo .................................................................................................18
1.2.1 Giải thích thuật ngữ “trí tuệ nhân tạo” .................................................. 18
1.2.2 Phân loại trí tuệ nhân tạo ........................................................................ 20
1.2.3 Khả năng các tác phẩm được hình thành từ trí tuệ nhân tạo ............... 22
1.2.4 Sự cần thiết bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm được tạo ra bởi trí tuệ
nhân tạo ............................................................................................................. 25
1.2.5 Khả năng trí tuệ nhân tạo xâm phạm quyền tác giả .............................. 28
Kết luận chương I ....................................................................................................32
CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM VÀ KINH NGHIỆM CỦA CÁC QUỐC GIA VỀ
BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM DO TRÍ TUỆ NHÂN TẠO
TẠO RA VÀ TRÍ TUỆ NHÂN TẠO XÂM PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ ...........34
2.1 Quan điểm và kinh nghiệm của các quốc gia về bảo hộ quyền tác giả đối với
tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra .......................................................................34
2.1.1 Quốc gia chấp nhận bảo hộ tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra .......... 34
2.1.2 Quốc gia không chấp nhận bảo hộ tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo
ra
............................................................................................................. 39
2.2 Quan điểm và kinh nghiệm của các quốc gia về vấn đề trí tuệ nhân tạo xâm
phạm quyền tác giả .................................................................................................54
Kết luận chương II ..................................................................................................60
CHƯƠNG III: KINH NGHIỆM VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ TÁC PHẨM DO TRÍ TUỆ NHÂN TẠO TẠO RA VÀ
TRÍ TUỆ NHÂN TẠO XÂM PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ...................................62
3.1 Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hộ tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo
ra và trí tuệ nhân tạo xâm phạm quyền tác giả....................................................62
3.1.1 Pháp luật Việt Nam chưa chấp nhận bảo hộ tác phẩm do trí tuệ nhân tạo
tạo ra ............................................................................................................. 62
3.1.2 Pháp luật Việt Nam chưa giải quyết được vấn đề trí tuệ nhân tạo xâm
phạm quyền tác giả ........................................................................................... 63
3.2 Kinh nghiệm và kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam ...........64
3.2.1 Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về điều kiện bảo hộ và chủ thể
“tác giả” ............................................................................................................. 64
3.2.2 Kiến nghị về chủ thể được trao quyền tác giả đối với tác phẩm do trí tuệ
nhân tạo tạo ra .................................................................................................. 66
3.2.3 Kiến nghị về chủ thể, mức độ chịu trách nhiệm pháp lý và biện pháp bảo
đảm trách nhiệm trong trường hợp trí tuệ nhân tạo xâm phạm quyền tác
giả
............................................................................................................. 69
3.2.4 Trách nhiệm của Nhà nước và các cơ quan liên quan .......................... 71
Kết luận chương III ................................................................................................73
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................75
BẢNG CHÚ THÍCH
Công ước Berne
Công ước Berne về Bảo hộ các tác phẩm
Văn học và Nghệ thuật 1886.
Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23
tháng 02 năm 2018 quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật Sở
Nghị định số 22/2018/NĐ-CP
hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ
năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên
quan.
Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11
ngày 29 tháng 11 năm 2005 được sửa
LSHTT
đổi, bổ sung bởi Luật số 36/2009/QH12
ngày 19 tháng 6 năm 2009 và Luật số
42/2019/QH14 ngày 14 tháng 6 năm
2019.
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 (Cách mạng 4.0) bùng nổ với tốc độ phát
triển tột bậc của khoa học và công nghệ. Trong giai đoạn này, trí tuệ nhân tạo (AI) là
một trong ba yếu tố cốt lõi, bên cạnh Vạn vật kết nối (IoT) và Dữ liệu lớn (Big Data),
góp phần làm thay đổi diện mạo toàn cầu. Trí tuệ nhân tạo tác động sâu sắc và rộng
rãi đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, kể cả pháp luật về sở hữu trí tuệ. Khả năng
hoạt động của trí tuệ nhân tạo ngày càng cải thiện, máy móc giờ đây có thể tạo ra tác
phẩm có chất lượng tương đương như sản phẩm của con người, đồng thời cũng tạo
điều kiện dễ dàng hơn cho việc xâm phạm bản quyền. Xu hướng này đã và đang tạo
ra những thách thức tác động lớn đến khía cạnh quyền tác giả, đặt ra nhu cầu cần ban
hành mới và thực thi các biện pháp bảo hộ quyền tác giả trước tác động của trí tuệ
nhân tạo.
Về tình hình phát triển trí tuệ nhân tạo, ở phạm vi thế giới, các quốc gia phát triển
đã sớm xây dựng chiến lược trí tuệ nhân tạo quốc gia và cho ra đời trí tuệ nhân tạo
tinh vi. Bên cạnh đó cũng có những chú ý đến việc hoàn thiện khung pháp lý trước
tác động của loại công nghệ này. Mỹ là quốc gia đầu tiên xây dựng Kế hoạch chiến
lược trí tuệ nhân tạo quốc gia vào năm 2016. Nội dung của chiến lược thứ ba trong
bảy chiến lược của Mỹ yêu cầu: cần tiến hành nghiên cứu để hiểu được ảnh hưởng
đạo đức, pháp lý và xã hội của trí tuệ nhân tạo và phát triển các phương pháp thiết kế
hệ thống trí tuệ nhân tạo phù hợp với các mục đích đạo đức, pháp lý và xã hội.1 Tại
Châu Âu, công ty sản xuất robot Engineered Arts của Anh Quốc đã sớm hoàn thành
và cho ra mắt Ai-Da, robot “nghệ sĩ” hình người siêu thực đầu tiên trên thế giới có
khả năng sáng tạo nghệ thuật.2 Đây chính là bằng chứng cho thấy trí tuệ nhân tạo
Hà Quang Thụy, Nguyễn Thanh Thủy và Nguyễn Trí Thành, “Trí tuệ nhân tạo trong thời đại số: Bối cảnh thế
giới và liên hệ với Việt Nam”, Tạp chí Công thương, 21/08/2018. Xem tại:
https://www.tapchicongthuong.vn/bai-viet/tri-tue-nhan-tao-trong-thoi-dai-so-boi-canh-the-gioi-va-lien-hevoi-viet-nam-55038.htm (truy cập ngày 16/04/2022).
2
Bảo Lâm, “Robot hình người tự sáng tác thơ”. Xem tại: https://vnexpress.net/robot-hinh-nguoi-tu-sang-tactho-4395505.html (truy cập ngày 16/04/2022).
1
2
hoàn toàn có thể can dự vào lĩnh vực nghệ thuật vốn được xem là độc quyền của con
người. Tháng 11 năm 2020, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đã tổ chức phiên
họp thứ 2 và thứ 3 tại Thụy Sĩ thảo luận chính thức về chủ đề Quyền sở hữu trí tuệ
và trí tuệ nhân tạo. Trong đó bao gồm nội dung bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với
các tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra và do trí tuệ nhân tạo hỗ trợ con người tạo ra.
Phiên thảo luận đã thu hút hơn 2000 đơn đăng kí tham dự từ 130 quốc gia trong phiên
thứ 2 và 1500 đơn đăng kí tham dự từ 133 quốc gia trong phiên thứ 3. Quy mô này
cho thấy trí tuệ nhân tạo và quyền sở hữu trí tuệ là chủ đề rất được quan tâm trên
phạm vi toàn cầu trong thời gian gần đây.
Ở phạm vi trong nước, ngày 26/01/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 127/QĐ-TTg về Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng
Trí tuệ nhân tạo đến năm 2030. Trong đó, định hướng chiến lược về xây dựng hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật và hành lang pháp lý liên quan đến trí tuệ nhân
tạo gồm: Xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật tạo hành lang pháp lý thông
thoáng đáp ứng yêu cầu thúc đẩy nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo
vào cuộc sống; Phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo lấy con người và doanh nghiệp
làm trung tâm, tránh lạm dụng công nghệ và xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân. Bên cạnh việc xây dựng chiến lược của Nhà nước, đầu tư nghiên
cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam cũng được nhiều nhà đầu tư công nghệ
quan tâm. Ngày 17/4/2019, tập đoàn Vingroup chính thức công bố thành lập Viện
Nghiên cứu trí tuệ nhân tạo - VinAI Research (trực thuộc Công ty VinTech).3 Ngày
31/03/2021, trường Đại học Bách Khoa Hà Nội đã ra mắt trung tâm nghiên cứu về trí
tuệ nhân tạo, kết nối các đơn vị nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo trong phạm vi cả nước.4
Nhìn chung, xu hướng của các quốc gia hiện nay là nghiên cứu phát triển công
nghệ trí tuệ nhân tạo đồng thời quan tâm hoàn thiện phát luật thích ứng với công nghệ.
“Chuyên gia trí tuệ nhân tạo Google làm viện trưởng Viện nghiên cứu VinAI”. Xem tại:
https://tuoitre.vn/chuyen-gia-tri-tue-nhan-tao-google-lam-vien-truong-vien-nghien-cuu-vinai20190416183833381.htm (truy cập ngày 16/04/2022).
4
“Trường ĐH Bách khoa Hà Nội ra mắt trung tâm nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo”. Xem tại:
https://thanhnien.vn/truong-dh-bach-khoa-ha-noi-ra-mat-trung-tam-nghien-cuu-ve-tri-tue-nhan-taopost1051772.html (truy cập ngày 16/04/2022).
3
3
Trong lĩnh vực pháp luật sở hữu trí tuệ, trí tuệ nhân tạo có tác động rất lớn đến khía
cạnh quyền tác giả. Tuy nhiên, pháp luật sở hữu trí tuệ của các quốc gia trên thế giới
và Việt Nam vẫn còn đang thiếu vắng các quy định giải quyết các vấn đề phát sinh
liên quan đến trí tuệ nhân tạo. Hai vấn đề thường được thảo luận nhiều nhất là nên
hay không nên bảo hộ tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra và giải quyết như thế nào
tình trạng trí tuệ nhân tạo xâm phạm quyền tác giả.
Nhận thấy xu hướng tác động của trí tuệ nhân tạo đến quyền tác giả và thực trạng
pháp luật sở hữu trí tuệ của các quốc gia hiện nay, tác giả lựa chọn đề tài “Quyền tác
giả và trí tuệ nhân tạo trong cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0” để nghiên cứu trong
phạm vi luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến phạm vi nghiên cứu về quyền tác giả và trí tuệ nhân tạo, có thể kể
đến các bài viết, công trình nghiên cứu, tài liệu Việt Nam và nước ngoài tiêu biểu
sau:
Bài viết khoa học:
+ Vũ Thị Hải Yến, “Bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm được tạo ra bởi
trí tuệ nhân tạo”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 03/2020: Bài viết trước hết giải
thích thế nào là một tác phẩm được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo. Tiếp đến, tác giả nêu
ra các lý do nên bảo hộ tác phẩm được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo như: khuyến khích
khoa học phát triển; làm giàu có thêm đời sống tinh thần cho xã hội. Cuối cùng, tác
giả kiến nghị ghi nhận và bảo hộ quyền tác giả cho những người có vai trò quan trọng
và có tính quyết định đến việc tác phẩm được tạo ra, bao gồm: người thu thập, lựa
chọn nguồn dữ liệu đầu vào để đào tạo máy tính và lập trình viên. Bài viết này chỉ
dừng lại ở nội dung bảo hộ quyền tác giả các tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra mà
không đề cập và giải quyết vấn đề trí tuệ nhân tạo xâm phạm bản quyền.
+ Nguyễn Ngọc Hồng Dương, “Bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của trí tuệ
nhân tạo”, Tạp chí Công thương, 17/06/2022: Bài viết nêu lên thực tiễn từ chối bảo
hộ tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra theo pháp luật Hoa Kỳ, Úc và Liên minh Châu
4
Âu. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra các điểm cần lưu ý khi xây dựng khung pháp luật
về bảo hộ quyền tác giả cho tác phẩm của trí tuệ nhân tạo như: cần xác định tác phẩm
được tạo ra có sự can thiệp đáng kể của con người hay không; quyền tác giả có thể
được trao cho người sử dụng chương trình máy tính; tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo
ra cần được cân nhắc là đối tượng được bảo hộ bản quyền.
Công trình nghiên cứu khoa học
+ Nguyễn Thị Kim Y, Lâm Trần Nhật Ánh, Phạm Thị Bích Ngọc, “Bảo hộ quyền
tác giả đối với các tác phẩm được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo”: Công trình nghiên
cứu khoa học phân tích kinh nghiệm của Anh về chấp nhận bảo hộ và kinh nghiệm
của Mỹ về không chấp nhận bảo hộ tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra. Nêu lên các
thách thức pháp lý khi pháp luật Việt Nam bảo hộ tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra,
gồm: điều kiện về tính nguyên gốc của tác phẩm; phạm vi “tác giả” chỉ là con người.
Trên cơ sở đó các tác giả kiến nghị công nhận tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra là
tài sản trí tuệ, sửa đổi nội dung về tính nguyên gốc và xác định chủ thể quyền tác giả
cho các tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra. Công trình không đề cập và giải quyết
vấn đề liên quan đến trí tuệ nhân tạo xâm phạm quyền tác giả.
Tài liệu nước ngoài:
+ Andres Guadamuz, “Artificial Intelligence and Copyright”, WIPO Magazine,
10/2017: Bài viết nêu lên vai trò của máy tính và robot đối với quá trình sáng tạo, các
thiệt hại xảy ra khi tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra bị từ chối bảo hộ quyền tác giả.
Tổng hợp hai xu hướng bảo hộ và từ chối bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm do
trí tuệ nhân tạo tạo ra thông qua pháp luật các quốc gia và khu vực như Anh, Mỹ,
Liên minh Châu Âu, Úc…Từ các phân tích đó, tác giả kết luận việc cấp bản quyền
cho người vận hành các hoạt động của trí tuệ nhân tạo là cách tiếp cận hợp lý nhất.
Ngoài ra, tác giả gợi ý vấn đề tiếp theo cần thảo luận trong tương lai là quan hệ pháp
lý và quyền lợi cho máy tính.
+ Victor M. Palace, “What if Artificial Intelligence wrote this? Artificial
Intelligence and Copyright Law”, Florida Law Review, Vol. 71, Issue 1, No.1
5
(01/2019): Bài viết đưa ra các minh chứng cho thấy pháp luật sở hữu trí tuệ của Hoa
Kỳ thất bại trong việc bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm do trí tuệ nhân tạo
tạo ra. Các nguyên nhân được phân tích gồm Nghị viện và Tòa án Hoa Kỳ chưa có
động thái chấp nhận bảo hộ tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra, Luật Bản quyền Hoa
Kỳ không có quy định cho phép giải quyết tác phẩm được tạo ra bằng máy móc. Cuối
cùng, tác giả bài viết đề xuất bản quyền các tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra nên
thuộc về công chúng.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có ba mục đích nghiên cứu chính:
Thứ nhất, tổng hợp, nghiên cứu và phân tích cơ sở lý thuyết, ý kiến khoa học,
khung pháp lý giải quyết vấn đề quyền tác giả và trình bày cơ sở lý luận khái quát về
trí tuệ nhân tạo tại các quốc gia trên thế giới và Việt Nam. Từ đó cung cấp cơ sở lý
giải tác động của trí tuệ nhân tạo đến quyền tác giả.
Thứ hai, tổng hợp, so sánh và bình luận về quan điểm, kinh nghiệm và hướng giải
quyết các thách thức, rủi ro mà trí tuệ nhân tạo có thể ảnh hưởng đến quyền tác giả
tại các quốc gia trên thế giới. Cụ thể trong hai vấn đề chính là bảo hộ quyền tác giả
đối với tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra và trí tuệ nhân tạo xâm phạm quyền tác
giả.
Thứ ba, trên cơ sở kết quả nghiên cứu có được từ góc độ lý luận và thực tiễn nước
ngoài, tác giả đưa ra các ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện khung pháp luật sở hữu trí
tuệ Việt Nam liên quan đến quyền tác giả trước tác động của trí tuệ nhân tạo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn này có đối tượng nghiên cứu chính là quyền tác giả và sự tác động của
trí tuệ nhân tạo đến quyền tác giả trong cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0. Trong
phạm vi đó, tác giả đặc biệt đi vào phân tích các vấn đề về chấp nhận bảo hộ và xác
định chủ thể quyền tác giả đối với các tác phẩm được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo; vấn
6
đề phát sinh liên quan đến trường hợp trí tuệ nhân tạo xâm phạm quyền tác giả. Liên
hệ, so sánh với pháp luật các quốc gia, từ đó rút ra kinh nghiệm và kiến nghị nhằm
góp phần hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, xuất phát từ cơ sở lý luận về quyền tác giả và trí tuệ nhân tạo, tác giả
tập trung phân tích các quy định pháp luật, quan điểm và kinh nghiệm về bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra và vấn đề trí tuệ nhân tạo
xâm phạm quyền tác giả theo pháp luật của một số quốc gia và Việt Nam.
Về không gian, nghiên cứu pháp luật và quan điểm, kinh nghiệm trên thế giới, có
những đối chiếu với pháp luật và thực tiễn tại Việt Nam. Pháp luật nước ngoài được
lựa chọn dựa trên tiêu chí về quan điểm công nhận hoặc từ chối bảo hộ quyền tác giả
đối với các tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra, giải pháp cho trường hợp trí tuệ nhân
tạo xâm phạm quyền tác giả. Điển hình là khung pháp lý của Anh, Hoa Kỳ và Nhật
Bản.
Về thời gian, tiếp cận đề tài nghiên cứu, phạm vi thời gian nghiên cứu tập trung ở
giai đoạn cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện luận văn này, tác giả lựa chọn các phương pháp nghiên cứu bao gồm:
(i) phương pháp bình luận, (ii) phương pháp so sánh và (iii) phương pháp phân tích tổng hợp. Cụ thể hơn:
Trong Chương I: Lý luận chung về quyền tác giả và trí tuệ nhân tạo trong cuộc
Cách mạng Công nghiệp 4.0: Tác giả lựa chọn phương pháp bình luận, phương pháp
phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh để tiến hành tổng hợp các cơ sở lý luận,
lý thuyết chung cũng như quy định của pháp luật các quốc gia về quyền tác giả và trí
tuệ nhân tạo.
Trong Chương II: Quan điểm và kinh nghiệm của các quốc gia về bảo hộ quyền
tác giả đối với tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra và trí tuệ nhân tạo xâm phạm
quyền tác giả: Tác giả sử dụng phương pháp bình luận, phương pháp phân tích - tổng
7
hợp và phương pháp so sánh để tổng hợp và đánh giá các quan điểm pháp lý, ý kiến
khoa học, khung pháp lý của các quốc gia điều chỉnh vấn đề về bảo hộ quyền tác giả
trước tác động của trí tuệ nhân tạo.
Trong Chương III: Kinh nghiệm và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
bảo hộ tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra và trí tuệ nhân tạo xâm phạm quyền tác
giả: tác giả sử dụng phương pháp bình luận, phương pháp phân tích - tổng hợp để nêu
ra thực trạng pháp luật Việt Nam và các kinh nghiệm có thể học hỏi được từ nước
ngoài. Qua đó đúc kết ra được những giải pháp phù hợp có khả năng ứng dụng với
tình hình phát triển cũng như hoàn thiện pháp luật tại Việt Nam.
6. Bố cục khóa luận
Ngoài Phần mở đầu, Phần nội dung chính của luận văn có kết cấu 3 chương, gồm:
Chương I: Lý luận chung về quyền tác giả và trí tuệ nhân tạo trong cuộc Cách
mạng Công nghiệp 4.0.
Chương II: Quan điểm và kinh nghiệm của các quốc gia về bảo hộ quyền tác giả
đối với tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra và trí tuệ nhân tạo xâm phạm quyền tác
giả.
Chương III: Kinh nghiệm và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ
tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra và trí tuệ nhân tạo xâm phạm quyền tác giả.
8
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ TRÍ TUỆ NHÂN
TẠO TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
1.1 Tổng quan về quyền tác giả
1.1.1
Khái niệm quyền tác giả
Khái niệm quyền tác giả đã ra đời cách đây từ vài trăm năm ở phương Tây. Bộ
luật đầu tiên về quyền tác giả (The Statute of Anne) được thông qua vào năm 1710
tại Anh. Sau đó, khái niệm quyền tác giả được phát triển ở nhiều quốc gia Châu Âu
khác.5 Ngày nay, quyền tác giả là một đối tượng quan trọng trong pháp luật sở hữu
trí tuệ của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Hiểu theo cách thông thường, quyền tác giả là quyền hợp pháp để kiểm soát tất cả
việc sử dụng tác phẩm gốc, chẳng hạn như sách, vở kịch, phim hoặc bản nhạc… trong
một khoảng thời gian cụ thể.6 Ở phạm vi quốc tế, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
(WIPO) giải thích: Bản quyền hay quyền của tác giả (copyright / author’s right) là
một thuật ngữ pháp lý dùng để mô tả các quyền mà người sáng tạo có đối với các tác
phẩm văn học và nghệ thuật của họ.7
Tại Việt Nam, LSHTT là đạo luật chuyên ngành điều chỉnh các vấn đề pháp lý về
quyền tác giả. Theo LSHTT: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với
tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.”8 Cụ thể theo quy định này, cá nhân sáng
tạo ra tác phẩm; cá nhân sở hữu tác phẩm; hoặc tổ chức sở hữu tác phẩm đều có thể
nắm giữ quyền tác giả trên các tác phẩm đó.
Xuất phát từ các khái niệm này, nhìn ở góc độ pháp lý, trước hết quyền tác giả là
phương tiện biến các sản phẩm trí tuệ vô hình thành một loại tài sản đặc biệt được sở
Lê Thiên Hương, “Khi quyền tác giả là một phần của văn hóa!”, Tạp chí Kinh tế Sài Gòn Online, 09/05/2022.
Xem
tại:
https://thesaigontimes.vn/khi-quyen-tac-gia-la-mot-phan-cua-vanhoa/?fbclid=IwAR1Mq9_HYVk71338B-r6rlQ_5CYGlLn7fW_Vq7qB73Cot4Hd8lVjhE_xgDo (truy cập
ngày 22/04/2022).
6
Giải thích theo Cambridge Dictionary.
7
WIPO, “Copyrigh - What is Copyright?”. Xem tại: https://www.wipo.int/copyright/en/ (truy cập ngày
22/04/2022).
8
Khoản 2 Điều 4 LSHTT.
5
9
hữu độc quyền bởi cá nhân hoặc tổ chức. Pháp luật bảo vệ tài sản trí tuệ bằng cách
trao cho các chủ thể quyền tác giả. Nhờ đó, chủ thể quyền có thể sử dụng, bảo vệ và
định đoạt sản phẩm trí tuệ trong quyền hạn của mình. Mặt khác, quyền tác giả còn là
một công cụ để đánh giá mức độ tôn trọng tác phẩm của một xã hội thông qua cơ chế
pháp lý. Tức là nếu luật quyền tác giả càng được tuân thủ thì đồng nghĩa với tác phẩm
sẽ càng được tôn trọng và không bị xâm phạm.
Ở góc độ kinh tế, quyền tác giả là phương thức làm cho tác phẩm trở thành sản
phẩm được mua bán trên thị trường. Bởi lẽ, trong tình trạng tác phẩm có bản quyền,
người tiêu dùng phải trả tiền cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả để sử dụng
tác phẩm. Bằng cách này, quyền tác giả còn giúp làm tăng nguồn cung tác phẩm trên
thị trường vì đem lại lợi ích kinh tế, như một động lực sáng tạo cho các tác giả.9
Phân biệt sự khác nhau giữa “quyền tác giả” và “bản quyền”. Khi quy định về
quyền sở hữu trí tuệ đối với các tác phẩm, các quốc gia theo hệ thống Thông luật
(Common law) sử dụng cụm từ “bản quyền” (copyright), chẳng hạn như Vương quốc
Anh. Bản quyền chủ yếu được xem như một công cụ kinh tế nhằm khuyến khích và
khen thưởng sự sáng tạo10, dựa trên học thuyết có lao động sẽ cần được trả công. Nói
cách khác là tập trung vào tính thương mại và kinh tế của tác phẩm đối với tác giả và
chủ sở hữu. Bên cạnh đó, các quốc gia thuộc hệ thống Dân luật (Civil law) lại có xu
hướng sử dụng cụm từ “quyền tác giả” (author’s right), xem bản quyền là quyền tự
nhiên của người sáng tạo. Bảo vệ tác phẩm của tác giả như là bảo vệ sự thể hiện cá
tính của họ, chú trọng yếu tố nhân thân của tác giả, tiêu biểu như luật quyền tác giả
của Pháp. Việt Nam cũng tương tự như các quốc gia thuộc hệ thống Dân luật, các văn
bản pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ sử dụng cụm từ “quyền tác giả”.
1.1.2
Đặc điểm quyền tác giả
(i) Bảo hộ không phân biệt nội dung, chất lượng của tác phẩm
山本隆司,「 AI 時代の著作権」, 2018, tr.8.
“Artificial Intelligence call for views: Copyright and Related rights.” Xem
https://www.gov.uk/government/consultations/artificial-intelligence-and-intellectual-property-call-forviews/artificial-intelligence-call-for-views-copyright-and-related-rights (truy cập ngày 22/04/2022).
9
10
tại:
10
Bảo hộ không phân biệt nội dung, chất lượng của tác phẩm là một trong những
đặc điểm dễ thấy trong LSHTT.11 Đặc điểm này xuất phát từ lý do tác phẩm chứa
đựng nỗ lực lao động trí tuệ và sự sáng tạo của tác giả, trong khi đó sự sáng tạo là
không có giới hạn. Hơn nữa, con người có cách cảm thụ, trình độ và sở thích… khác
nhau nên khi đánh giá nội dung của một tác phẩm là xuất sắc hay tầm thường thì việc
đánh giá này luôn chứa đựng tính chủ quan. Khó có những tiêu chuẩn chung để nhận
xét độ chất lượng trong sản phẩm sáng tạo của một ai đó. Một tác phẩm văn học có
nội dung nhàm chán, hoặc một tác phẩm tranh vẽ nguệch ngoạc thì nó vẫn chứa đựng
sự lao động trí tuệ, dấu ấn riêng, sự đầu tư công sức, vật chất của tác giả. Tác phẩm
dở không có nghĩa là người khác được quyền “đánh cắp” và xâm phạm. Thật khó
thuyết phục khi cho rằng vì tác phẩm đó tôi thấy không hay, tầm thường nên tác phẩm
đó không được bảo hộ. Pháp luật cũng không thể xây dựng được khung tiêu chuẩn
chung để đánh giá nội dung, chất lượng tác phẩm và coi đó là điều kiện cần thiết để
tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Vậy nên, bảo hộ không phân biệt nội dung của
tác phẩm là đặc điểm được pháp luật sở hữu trí tuệ của nhiều quốc gia ghi nhận. Ngoài
Việt Nam, Hoa Kỳ cũng ghi nhận đặc điểm này. Trong vụ việc Alfred Bell & Co. v.
Catalda Fine Arts, Tòa án Hoa Kỳ kết luận rằng “sự bổ sung của tác giả dù yếu kém
về mặt nghệ thuật nhưng chỉ cần là của chính ông ta là đủ”.
Mặc dù vậy, LSHTT cũng có quy định ngoại lệ về đặc điểm bảo hộ này. Khoản 1
Điều 8 LSHTT quy định: “Không bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ trái với đạo
đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho quốc phòng, an ninh.” Điều này có nghĩa là
nội dung của tác phẩm cũng là yếu tố cần được cân nhắc, xem xét khi bảo hộ quyền
tác giả. LSHTT không thật sự bảo hộ tất cả các tác phẩm mà không phân biệt nội
dung.
(ii) Bảo hộ hình thức sáng tạo, không bảo hộ ý tưởng sáng tạo
Khoản 1 Điều 6 LSHTT quy định: “Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể
hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện,
ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.”
11
11
Ý tưởng sáng tạo chịu sự tác động bởi yếu tố hoàn cảnh, môi trường, thông tin…
mà con người tiếp xúc, tiếp nhận. Khả năng trùng lắp ý tưởng của con người là hoàn
toàn có thể xảy ra. Ý tưởng sáng tạo nằm trong đầu tác giả chỉ là yếu tố vô hình. Ý
tưởng không có hình dạng hoặc hình thức thể hiện thì không đủ cơ sở để người có ý
tưởng chứng minh rằng đó là “tác phẩm” của mình và yêu cầu pháp luật bảo hộ quyền
tác giả. Tác giả có thể trùng ý tưởng với người khác, nhưng khi họ thể hiện ý tưởng
của mình ra thành các hình thức sáng tạo khác nhau, mang đặc trưng cá nhân của họ
thì hình thức sáng tạo đó mới được bảo hộ quyền tác giả. LSHTT quy định: “Quyền
tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được định hình dưới dạng vật
chất nhất định […]”.12 Công ước Berne cũng đặt ra yêu cầu về sự định hình các tác
phẩm dưới dạng vật chất.13 Trên cơ sở không bảo hộ ý tưởng sáng tạo, trong trường
hợp một người nắm được ý tưởng của người khác và dựa vào ý tưởng đó tạo ra tác
phẩm của riêng mình thì cũng không bị xem là xâm phạm quyền tác giả đối với người
có ý tưởng ban đầu, tác phẩm được tạo ra đó vẫn được bảo hộ quyền tác giả.
(iii) Quyền tác giả bảo hộ tự động mà không bắt buộc phải có thủ tục đăng ký với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Bảo hộ quyền tác giả tự động (principle of “automatic” protection) là một trong
các nguyên tắc chủ đạo của Công ước Berne.14 Trên cơ sở quy định của Công ước
Berne, LSHTT quy định quyền tác giả phát sinh theo cơ chế tự động. Tức là ngay tại
thời điểm tác giả định hình tác phẩm dưới dạng vật chất nhất định thì quyền tác giả
sẽ phát sinh, không bắt buộc phải thực hiện thủ tục đăng ký quyền tác giả với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền.15
Nguyên tắc tự động bảo hộ khuyến khích, thúc đẩy hoạt động sáng tạo của các
chủ thể, không tạo ra rào cản bảo hộ thành quả lao động trí tuệ của tác giả. Tuy nhiên,
để thực hiện tốt nhất việc bảo hộ quyền tác giả, các chủ thể quyền được khuyến khích
Khoản 1 Điều 6 LSHTT.
Khoản 2 Điều 2 Công ước Berne.
14
WIPO, “Summary of the Berne Convention for the Protection of Literary and Artistic Works (1886)”. Xem
tại: https://www.wipo.int/treaties/en/ip/berne/summary_berne.html#_ftnref2 (truy cập ngày 26/4/2022).
15
Khoản 1 Điều 6 LSHTT.
12
13
12
nên tiến hành đăng ký bảo hộ tại các cơ quan có thẩm quyền. Thủ tục đăng ký và
chứng nhận đăng ký bảo hộ là căn cứ quan trọng, tạo thuận lợi cho việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp
liên quan đến quyền tác giả.
1.1.3
Điều kiện bảo hộ quyền tác giả
Công ước Berne là Công ước lâu đời nhất quy định về bảo hộ quyền tác giả, Việt
Nam trở thành thành viên của Công ước Berne vào năm 2004. Công ước liệt kê một
danh mục mở các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học có tính sáng tạo, được
định hình dưới hình thái vật chất nhất định được bảo hộ quyền tác giả tại Điều 2. Trên
cơ sở xây dựng pháp luật quốc gia tương thích với Công ước, pháp luật sở hữu trí tuệ
của các quốc gia thành viên, bao gồm cả Việt Nam, nhìn chung đều đặt ra những điều
kiện cơ bản bao gồm:
(i) Tác phẩm được bảo hộ phải thuộc danh mục đối tượng được quy định trong
pháp luật sở hữu trí tuệ
Không giống với các lĩnh vực pháp luật khác, đối tượng được bảo hộ quyền tác
giả là tài sản trí tuệ, bao gồm các sản phẩm sáng tạo tinh thần, khác với tài sản vật
chất hữu hình. Vậy nên, pháp luật sở hữu trí tuệ đòi hỏi cần phải xác định chính xác
đâu là đối tượng được luật bảo hộ quyền tác giả để tránh thiếu sót và nhầm lẫn với
các đối tượng tài sản khác. Thông thường, luật bản quyền của các quốc gia sẽ liệt kê
danh mục các thể loại tác phẩm được bảo hộ. Điều 14 LSHTT quy định các tác phẩm
văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm: “a) Tác phẩm văn học, khoa
học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết
hoặc ký tự khác; b) Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác; c) Tác phẩm báo chí;
d) Tác phẩm âm nhạc; đ) Tác phẩm sân khấu; e) Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm
được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);…”.
Tương tự, Điều 10 Luật Quyền tác giả Nhật Bản cũng quy định: “Các tác phẩm được
bảo hộ trong luật này bao gồm: 1. Tiểu thuyết, kịch bản, luận văn, bài giảng và các
tác phẩm văn học khác; 2. Tác phẩm âm nhạc; 3. Điệu múa hoặc kịch câm; 4. Tranh,
13
bản in, tác phẩm điêu khắc và các tác phẩm mỹ thuật khác; 5. Tác phẩm kiến trúc;...”.
Danh mục được quy định trong pháp luật các quốc gia thành viên phần lớn có sự
tương đồng đáng kể so với các tác phẩm thuộc đối tượng được bảo hộ quyền tác giả
mà Công ước Berne quy định.
Ngoài ra, Khoản 8 Điều 4 LSHTT còn liệt kê các loại hình tác phẩm phái sinh
như: tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải
biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn. Các loại tác phẩm này có đặc điểm
là được tạo ra dựa trên tác phẩm gốc đã có. Tác phẩm phái sinh cũng được bảo hộ
quyền tác giả nếu đáp ứng điều kiện không gây phương hại đến quyền tác giả của tác
phẩm gốc. Quy định này của pháp luật Việt Nam cũng tương thích với quy định của
Công ước Berne.16
Ngoài danh mục các tác phẩm được bảo hộ, LSHTT còn quy định danh mục các
đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả tại Điều 15, bao gồm: “1. Tin
tức thời sự thuần tuý đưa tin; 2. Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính,
văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó; 3. Quy
trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu.” Các đối tượng
này cũng được pháp luật nước ngoài quy định, chẳng hạn như Nhật Bản.17 Đây là các
nội dung mang tính chất đưa tin thông thường, hoặc là các quy tắc pháp luật mang
tính chất bắt buộc, áp dụng chung trong phạm vi toàn xã hội, các phương pháp,
nguyên lý mang tính tổng quát, đúng sự thật. Các nội dung này cần được tạo điều
kiện cho xã hội tiếp cận, mang lại tác động tích cực cho xã hội nên không đặt ra vấn
đề bảo hộ quyền tác giả để loại bỏ phần nào các cản trở tiếp cận thông tin ở phạm vi
rộng.
(ii) Tác phẩm được bảo hộ phải có tính nguyên gốc
Khoản 3 Điều 2 Công ước Berne quy định: “3. Các tác phẩm dịch, mô phỏng, chuyển thể nhạc và các chuyển
thể khác từ một tác phẩm văn học nghệ thuật đều được bảo hộ như các tác phẩm gốc mà không phương hại
đến quyền tác giả của tác phẩm gốc.”
17
Điều 13 Luật Quyền tác giả Nhật Bản quy định danh mục Tác phẩm không là đối tượng bảo hộ quyền, gồm:
Hiến pháp, quy định pháp luật, bản án…
16
14
Tính nguyên gốc chính là “dấu ấn cá nhân” của tác giả trong tác phẩm.18 Để được
xem là có tính nguyên gốc thì điều cần và đủ là tác phẩm đó phản ánh được cá tính
của tác giả, như một biểu hiện của những lựa chọn tự do và sáng tạo của anh ta.19 Nói
cách khác, một tác phẩm mang tính nguyên gốc là tác phẩm được tác giả sử dụng lao
động trí óc để tạo ra, trình bày theo cách thức riêng đủ để phân biệt được với các tác
phẩm của người khác và không sao chép từ tác phẩm của người khác. Công ước Berne
cũng đặt ra yêu cầu về tính sáng tạo đối với các tác phẩm được liệt kê trong danh sách
bảo hộ.
Dựa trên cơ sở quy định của Công ước Berne, các quốc gia thành viên Công ước
xây dựng điều kiện bảo hộ quyền tác giả về “tính nguyên gốc”. Điều 2.1 Luật Quyền
tác giả Nhật Bản quy định tác phẩm phải mang tính sáng tạo, thể hiện cảm xúc, ý
tưởng của tác giả. LSHTT cũng quy định tác phẩm được bảo hộ phải do tác giả trực
tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người
khác.20
Có thể nói, điều kiện về tính nguyên gốc là cơ sở quan trọng giúp pháp luật bảo
hộ quyền tác giả thực hiện hiệu quả mục đích của nó. Bởi lẽ, một trong những mục
đích bảo hộ quyền tác giả là để khuyến khích sự lao động sáng tạo, đổi mới và thể
hiện nghệ thuật, khoa học. Trong khi đó điều kiện về tính nguyên gốc luôn đòi hỏi sự
lao động sáng tạo của tác giả, dù là một tỷ lệ rất nhỏ để có thể tạo ra được một tác
phẩm mới.
(iii) Tác phẩm được bảo hộ phải được thể hiện dưới dạng hình thức vật chất nhất
định
Tác phẩm được bảo hộ phải được định hình dưới dạng vật chất nhất định là một
trong các điều kiện được Công ước Berne quy định tại Khoản 4 Điều 2: “Luật pháp
Quốc gia thành viên của Liên hiệp có thẩm quyền quyết định không bảo hộ các tác
Trường Đại học Luật TP.HCM, “Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ”, Nxb. Hồng Đức, TP.HCM, 2020, tr. 67.
P.Bernt Hugenholtz, Joao Pedro Quintais, “Copyright and Artificial Creation: Does EU Copyright Law
Protect AI-Assisted Output?”, International Review of Intellectual Property and Competition Law, Vol. 52,
2021, tr.1195.
20
Khoản 3 Điều 14 LSHTT.
18
19
- Xem thêm -