Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền được sống trong môi trường trong lành theo quy định của hiến pháp và pháp ...

Tài liệu Quyền được sống trong môi trường trong lành theo quy định của hiến pháp và pháp luật việt nam

.PDF
88
1
145

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH -----------***------------ TRẦN VIỄN KHUYÊN MSSV: 1853801013088 QUYỀN ĐƯỢC SỐNG TRONG MÔI TRƯỜNG TRONG LÀNH THEO QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật Niên khóa: 2018 – 2022 Người hướng dẫn: Th.S Huỳnh Thị Hồng Nhiên TP.HCM – Năm 2022 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH -----------***------------ TRẦN VIỄN KHUYÊN MSSV: 1853801013088 QUYỀN ĐƯỢC SỐNG TRONG MÔI TRƯỜNG TRONG LÀNH THEO QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật Niên khóa: 2018 – 2022 Người hướng dẫn: Th.S Huỳnh Thị Hồng Nhiên TP.HCM – Năm 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Khóa luận “Quyền được sống trong môi trường trong lành theo quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Th.S Huỳnh Thị Hồng Nhiên. Trong quá trình nghiên cứu Khóa luận có sự kế thừa quan điểm, ý kiến khoa học của những nhà nghiên cứu đã từng thực hiện những công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến đề tài. Những quan điểm, ý kiến này, cũng như những thông tin mà Khóa luận có tham khảo, khi sử dụng đều được tác giả thể hiện một cách trung thực và có trích dẫn nguồn đầy đủ, đảm bảo độ tin cậy và chính xác cao. Bên cạnh đó, tác giả chưa có nhiều kinh nghiệm tiếp cận trực tiếp vấn đề trên thực tế, cũng như vốn kiến thức còn hạn hẹp, nên sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Chính vì vậy, tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ Quý Thầy, Cô, và bạn đọc để có thể rút kinh nghiệm hoàn thiện tốt hơn. Sinh viên TRẦN VIỄN KHUYÊN DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ 1 BVMT Bảo vệ môi trường 2 BĐKH Biến đổi khí hậu 3 BLHS Bộ Luật Hình sự 4 Bộ TN&MT Bộ Tài nguyên và Môi trường 5 ĐTM Đánh giá tác động môi trường 6 ĐMC Đánh giá môi trường chiến lược 7 PTBV Phát triển bền vững 8 POP Các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy 9 UBND Uỷ ban nhân dân 10 KT – XH Kinh tế xã hội MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 CHƯƠNG 1..............................................................................................................10 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƯỢC SỐNG TRONG MÔI TRƯỜNG TRONG LÀNH .....................................................................................10 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quyền được sống trong môi trường trong lành ...........................................................................................................................10 1.1.1. Khái niệm quyền được sống trong môi trường trong lành.......................10 1.1.2. Đặc điểm của quyền được sống trong môi trường trong lành .................12 1.1.3. Vai trò của quyền được sống trong môi trường trong lành .....................18 1.2. Một số quy định của pháp luật quốc tế về quyền được sống trong môi trường trong lành ....................................................................................................20 1.2.1. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 (The Universal Declaration of Human Rights) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966 (International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights) ..................................................................................................20 1.2.2. Tuyên bố Stockholm năm 1972.................................................................21 1.2.3. Tuyên bố Rio năm 1992 ............................................................................24 1.2.4. Chương trình nghị sự 21 ..........................................................................27 1.2.5. Quy định của hiến pháp về quyền được sống trong môi trường trong lành ở một số quốc gia ...............................................................................................28 1.3. Nội dung cơ bản của quyền được sống trong môi trường trong lành .........31 1.3.1. Quyền được sống trong môi trường không bị ô nhiễm với chất lượng phù hợp ......................................................................................................................31 1.3.2. Quyền được tiếp cận nước sạch ...............................................................33 1.3.3. Quyền tiếp cận đất đai .............................................................................36 1.3.4. Quyền được tiếp cận thông tin về môi trường ..........................................37 1.3.5. Quyền được tham gia giải quyết các vấn đề về môi trường .....................38 1.3.6. Quyền được tiếp cận tư pháp về môi trường ............................................40 CHƯƠNG 2..............................................................................................................43 THỰC TRẠNG VỀ QUYỀN ĐƯỢC SỐNG TRONG MÔI TRƯỜNG TRONG LÀNH THEO HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN .............................................................................................43 2.1. Thực trạng quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam về quyền được sống trong môi trường trong lành .........................................................................43 2.1.1. Thực trạng quy định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 ............................................................................................43 2.1.2. Thực trạng quy định trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 ...............48 2.1.3. Thực trạng quy định trong một số văn bản khác......................................54 2.1.4. Một số bất cập trong quy định của Hiến pháp và pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành ......................................................................56 2.2. Thực trạng thực hiện quyền được sống trong môi trường trong lành........57 2.2.1. Thực trạng ô nhiễm môi trường ...............................................................57 2.2.2. Đánh giá chung về việc thực hiện quyền được sống trong môi trường trong lành theo quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam .......................63 2.3. Một số kiến nghị về quy định và thực hiện quyền được sống trong môi trường trong lành theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam .................................67 2.3.1. Một số kiến nghị về quy định quyền được sống trong môi trường trong lành theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam ......................................................67 2.3.2. Một số kiến nghị về thực hiện quyền được sống trong môi trường trong lành theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam .....................................................71 Kết luận chương 2 ...................................................................................................75 KẾT LUẬN ..............................................................................................................76 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Môi trường luôn là một vấn đề cấp bách được cộng đồng quốc tế và các quốc gia quan tâm bất kể ở giai đoạn nào trong tiến trình phát triển của nhân loại. Bởi lẽ môi trường có vai trò quan trọng đối với con người, bao gồm tất cả những gì tồn tại xung quanh chúng ta; môi trường là nơi cung cấp toàn bộ điều kiện thiết yếu để con người tồn tại, là nguồn lực để con người tạo nên những giá trị cho cuộc sống. Ngược lại trong quá trình tồn tại và phát triển của mình thì hành vi (có thể dưới dạng hành động hoặc không hành động) của con người đều có những tác động đến môi trường. Thực tế đã chứng minh ngoài những yếu tố tự phát của môi trường thì chính những hành vi tiêu cực của con người đã, đang và sẽ tiếp tục đe dọa đến sự tồn tại của loài người. Biểu hiện là tình trạng môi trường đang ngày một xấu đi, ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng, tài nguyên thiên nhiên đang cạn kiệt, biến đổi khí hậu, hiện tượng hiệu ứng nhà kính, các sự cố môi trường gia tăng nhanh cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng1. Để ứng phó với vấn đề trên, các quốc gia và cả cộng đồng quốc tế đã không ngừng nỗ lực ngăn chặn, khắc phục và bảo vệ môi trường thông qua các chính sách, các bản thỏa thuận quốc tế cam kết bảo vệ môi trường. Việt Nam với tư cách là một quốc gia đang phát triển, trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu nhất định như xóa đói giảm nghèo2, trình độ dân trí được nâng cao, cơ sở hạ tầng ngày càng phát triển, pháp luật vẫn đang được chú trọng hoàn thiện những điểm bất cập. Đặc biệt là quá trình hội nhập sâu rộng vào thị trường quốc tế, thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã tạo nên một nền kinh tế năng động giàu tiềm lực phát triển. Trong giai đoạn trước kia vì quá ưu tiên cho phát triển kinh tế mà môi trường thường là yếu tố bị xem nhẹ hơn nên mới dẫn đến tình trạng này. Làm sao để có thể phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội nhưng vẫn đảm bảo được cân bằng môi trường sinh thái, bảo vệ môi trường và sự phát triển đó được bền vững là một vấn đề trăn trở được Nhà nước quan tâm. Khi môi trường bị xâm phạm thì cũng đồng nghĩa với việc mọi người sẽ phải sống trong một môi trường ô nhiễm và quyền được sống trong môi trường trong lành cũng bị xâm phạm. Trên cơ sở kế Nguyễn Việt Hải (2016), Bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành theo Hiến pháp 2013, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, tr.1 2 Đinh Phượng Quỳnh (2011), Pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 1,2. 1 2 thừa và phát triển các quan điểm đã đề ra, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp mang tính chiến lược bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu cho từng giai đoạn phát triển cũng như tầm nhìn, định hướng phát triển đến năm 2045. Cụ thể, giai đoạn 2021-2030, Đảng ta đề ra các nhiệm vụ: Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường 3. Bên cạnh đó, với việc tiếp tục thực hiện ba đột phá chiến lược do Đại hội XI và Đại hội XII của Đảng đã đề ra trước đó, trong điều kiện và yêu cầu mới, trong năm năm tiếp theo, Đảng ta đề ra nhiệm vụ: tập trung vào ba đột phá cụ thể, trong đó có “thích ứng với biến đổi khí hậu”. Vấn đề thể chế hóa quy định của pháp luật để nhằm bảo vệ môi trường đã được thực hiện trong rất nhiều thời kỳ của Việt Nam thông qua các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường như: Luật bảo vệ môi trường năm 1993, Luật bảo vệ môi trường sửa đổi bổ sung 2005, Luật bảo vệ môi trường năm 2014, Luật bảo vệ môi trường năm 2020, Luật tài nguyên nước năm 2012, Luật đất đai năm 2013, Luật đa dạng sinh học năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2018... cũng như trong những văn kiện Đại hội Đảng các nhiệm kỳ đều đề cập đến vấn đề bảo vệ môi trường như một trong những mục tiêu hành động và hàng loạt các văn bản dưới luật khác. Thế nhưng quyền được sống trong môi trường trong lành lại lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như một nguyên tắc Hiến định mà các bản Hiến pháp trước đó chưa từng có. Điều 43 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Điều này cho thấy sự thay đổi không chỉ về mặt ngôn từ trong Hiến pháp năm 2013 mà còn là sự thay đổi về mặt nhận thức của cơ quan lập pháp Việt Nam khi đưa quyền được sống trong môi trường trong lành là một nội dung cơ bản của quyền con người và quy định cụ thể trong Hiến pháp – đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất bên cạnh các quyền khác đã có từ lâu như quyền được sống, quyền chính trị, quyền dân sự... Quyền này không chỉ liên quan mật thiết đến các quyền khác mà còn là cơ sở nền tảng cho các quyền cơ Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc giaSự thật, 2021, tr.219-220. 3 3 bản như quyền sống, quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe...4 Hiến pháp năm 2013 không chỉ quy định quyền của mọi người “được sống trong môi trường trong lành” mà đồng thời còn quy định mọi người “có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” tại Điều 43. Để góp phần bảo đảm cho môi trường sống được trong lành thì việc quy định mọi người có nghĩa vụ bảo vệ môi trường là cần thiết vì phần lớn môi trường sống bị hủy hoại là do hoạt động của con người như khai thác tài nguyên thiên nhiên để sản xuất công nghiệp, đô thị hóa, chất thải công nghiệp, chất thải y tế, chất thải sinh hoạt5. Đặc biệt, Điều 63 Hiến pháp năm 2013 cũng khẳng định được tầm quan trọng của bảo vệ môi trường, việc bảo vệ môi trường cũng được đặt các mục tiêu cụ thể, rõ ràng là: quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Thực tế quy định này chính là những đảm bảo của Nhà nước đối với mục tiêu bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học. Thậm chí, trường hợp nếu có những đề án, dự án có nguy cơ làm mất sự đa dạng sinh học thì cơ quan có thẩm quyền hay người dân đều có thể có ý kiến về việc đảm bảo sự đa dạng sinh học theo quy định của Hiến pháp6. Tất cả những quy định này cho thấy Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến việc đảm bảo cho con người thực sự được sống trong môi trường trong lành với chất lượng cuộc sống không ngừng được nâng cao. Mặc dù Hiến pháp năm 2013 có sự quy định về quyền được sống trong môi trường trong lành nhưng đây vẫn còn là một quyền khá mới mẻ trong Chương II: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” nên việc cụ thể hóa quyền được sống trong môi trường trong lành vào các văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn nhiều thiếu sót, những giải pháp để đảm bảo cho con người được sống trong môi trường trong lành vẫn còn chưa phát huy được hiệu quả, sự nhận thức của người dân về quyền này vẫn chưa được nâng cao, ý thức bảo vệ môi trường chỉ dừng lại ở khẩu hiệu mà chưa được thực thi một cách triệt để. Xuất phát từ tầm quan trọng của môi trường đối với cuộc sống của con người cũng như những vấn đề về quyền được sống trong môi trường trong lành đang còn nhiều vướng mắc, tác giả quyết định sẽ tiến hành phân tích, so sánh những quy định trong Hiến pháp và pháp luật hiện hành, cũng như có sự tham khảo pháp luật quốc Vũ Văn Nhiêm (Chủ biên), Bình luận khoa học các điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb. Hồng Đức, tr.151. 5 Huỳnh Thị Hồng Nhiên (2019), Pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành, Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp – Hành chính, Trường Đại học Luật TP. HCM, tr.14. 6 Trần Minh Trọng (2015), “Pháp luật bảo vệ môi trường qua một số quy định trong các bản Hiến pháp Việt Nam”, https://www.bqllang.gov.vn/hien-phap-2013/3927-phap-luat-bao-ve-moitruong-qua-mot-so-quy-dinhtrong-cac-ban-hien-phap-viet-nam.html, (truy cập ngày 19/03/2022). 4 4 tế về quyền được sống trong môi trường trong lành. Đề tài sẽ đem đến cái nhìn khách quan cho người đọc về tổng thể những quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật Quốc tế, cũng như thực trạng thực thi quyền. Từ đó đưa ra những giải pháp tối ưu nhằm bảo vệ môi trường, đảm bảo cho quyền được sống trong môi trường trong lành của con người được đi vào thực tế cuộc sống. Hơn nữa việc bảo vệ môi trường để bảo đảm quyền này cũng là mục tiêu phát triển bền vững mà Việt Nam hướng tới trong sự phát triển và hội nhập nền kinh tế toàn cầu mà không để lại những hệ lụy về môi trường. Đề tài cũng sẽ cung cấp những cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ cho việc hoàn thiện pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành, làm tư liệu tham khảo nghiên cứu cho những độc giả quan tâm đến vấn đề môi trường, cũng như quyền con người liên quan đến lĩnh vực môi trường7. Chính từ những lý do trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài:“Quyền được sống trong môi trường trong lành theo quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu khóa luận của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong khoa học pháp lý Việt Nam vấn đề quyền được sống trong môi trường trong lành là đề tài được khá nhiều các chuyên gia, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở nhiều phương diện, cấp độ khác nhau cụ thể: - Ở cấp độ Luận văn, Luận án: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp – Hành chính năm 2019 “Pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành” của tác giả Huỳnh Thị Hồng Nhiên. Tác giả tập trung phân tích những nội dung về quyền được sống trong môi trường trong lành được quy định trong các điều ước quốc tế; thực trạng môi trường sống ở Việt Nam (tập trung đánh giá tình hình môi trường không khí, nước và đất); phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền được sống trong môi trường trong lành cũng như bảo đảm thực hiện tại Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2016 “Bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành theo Hiến pháp 2013” của tác giả Nguyễn Việt Hải. Tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của Hiến pháp, pháp luật, các cam kết quốc tế liên quan đến bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực môi trường, các quan điểm chính trị, cơ chế, luật pháp quốc gia, các chương trình mục tiêu quốc gia liên quan đến Đặng Công Cường (2020), “Pháp luật bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam”, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/phap-luat-bao-dam-quyen-duoc-song-trong-moi-truong-trong-lanh-oviet-nam-71531.htm, (truy cập ngày 25/03/2022) 7 5 bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực môi trường và điều kiện thực thi ở Việt Nam; đánh giá thực trạng thực hiện quyền và đề ra phương hướng cũng như giải pháp nhằm đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành. Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2016 “Quyền về môi trường trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng. Tác giả tập trung làm rõ các vấn đề lý luận quyền về môi trường được quy định trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam; chỉ ra những tiến bộ và hạn chế qua đó đưa ra phương hướng nhằm giúp pháp luật quyền về môi trường được thực thi hiệu quả hơn. Tuy nhiên đề tài lại không tập trung làm rõ những nội dung cơ bản của quyền được sống trong môi trường trong lành theo quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2013 “Quyền con người về môi trường và việc bảo đảm thực hiện ở Việt Nam” của tác giả Dương Thị Thanh Hà. Tác giả phân tích những nội dung thực tiễn về quyền con người về môi trường được quy định trong các điều ước quốc tế, là những quyền con người về môi trường được khoa học pháp lý quốc tế công nhận; phân tích thực trạng môi trường sống và đánh giá tình hình môi trường đất, nước, không khí ở Việt Nam đồng thời đưa ra một số kiến nghị đề xuất trong việc ban hành chính sách, văn bản pháp luật ở nước ta trong thời gian tới và các biện pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm thực hiện quyền con người về môi trường ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên chưa có sự phân tích một cách tổng thể quy định của Hiến pháp năm 2013 và pháp luật Việt Nam về quyền được sống trong môi trường trong lành. Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2015 “Giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đỗ Thị Vương Quỳnh. Tác giả chủ yếu phân tích những nội dung cơ bản của việc giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường hiện nay; đánh giá thực trạng thực hiện cũng như đưa ra những ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của việc giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường. Đề tài này chưa có sự đề cập trực tiếp về quyền được sống trong môi trường trong lành theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và pháp luật Việt Nam. Luận án Tiến sĩ Luật học “Quyền con người được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Tính. Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền được sống trong môi trường trong lành theo các Điều ước quốc tế, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; phân tích đưa ra quan điểm về những ưu điểm, hạn chế của thực trạng thực hiện quyền và trình bày ý kiến đề xuất 6 hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành Ngoài ra còn có nhiều bài viết, bài báo, bài nghiên cứu của các tác giả trên những tạp chí khoa học uy tín liên quan đến vấn đề này như: Bài viết “Môi trường với quyền con người và quyền con người trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 172 ngày 10 tháng 6 năm 2010; Bài viết “ Về quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam hiện nay” , Th.S Bùi Đức Hiển, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, số 11/2011, tr. 22 – 28; Bài viết “Tiếp cận quyền trong bảo vệ môi trường”, TS. Nguyễn Đức Thùy chủ biên, Tài liệu tập huấn của IUCN Việt Nam; Bài viết “Tiếp cận bảo vệ môi trường ở Việt Nam từ góc độ quyền được hưởng môi trường trong lành”, Phạm Thị Tính (2014), Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 3, tr.38-51; Bài viết “Quyền được sống trong môi trường trong lành theo Hiến pháp và tác động của nó tới quá trình hoàn thiện, thực thi pháp luật môi trường”, Nguyễn Đức Long (2014), Tạp chí Luật học, số 2; Bài viết “Mấy góp ý về quyền được sống trong môi trường trong lành trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”, Bùi Đức Hiển (2013), Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, số 6, tr.12 – 18; Bài viết “Quyền được bảo đảm an sinh xã hội, quyền được sống trong môi trường trong lành trong Hiến pháp năm 2013 - Khả năng thực hiện và kiến nghị”, TS. Lương Minh Tuấn (2015), Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 11(291); Bài viết “Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin môi trường ở Việt Nam”, TS. Thái Thị Tuyết Dung (2017), Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, số 09(112), tr.60-70. Hầu hết trong nội dung của những bài viết trên, các tác giả chỉ tập trung phân tích ở một hoặc một số khía cạnh như kinh nghiệm quốc tế về tiếp cận quyền con người trong bảo vệ môi trường, khái quát về quyền được sống trong môi trường trong lành và sự ghi nhận của Hiến pháp về vấn đề này, mối quan hệ giữa môi trường với quyền con người và đề cập đến nội dung nguyên tắc và các quyền con người về môi trường… Nhìn chung các công trình nghiên cứu và các bài viết trên cũng đã cho thấy được tầm quan trọng của môi trường và quyền được sống trong môi trường trong lành cũng như một số quy định của pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành. Tuy nhiên, các tác giả tiếp cận vấn đề ở nhiều khía cạnh khác nhau với những những mục đích khác nhau, chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách toàn diện về quy định của Hiến pháp năm 2013 và pháp luật Việt Nam về vấn đề quyền được sống trong môi trường trong lành, cũng như thực trạng 7 và các giải pháp hiệu quả để thực thi quyền này ở cấp độ Khóa luận tốt nghiệp. Chính vì vậy mà đây sẽ là một đề tài có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích nghiên cứu Tác giả chọn đề tài “Quyền được sống trong môi trường trong lành theo quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam” nhằm mục đích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận của quyền này theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và pháp luật Việt Nam. Đánh giá khách quan thực trạng quy định và thực tiễn thực hiện quyền, từ đó phát hiện những hạn chế trong việc ghi nhận và đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành, đồng thời đưa ra những góp ý hoàn thiện quy định của Hiến pháp và pháp luật để đảm bảo thực thi quyền này ở Việt Nam. Qua đó đem lại một cái nhìn tổng thể khách quan và nâng cao nhận thức về quyền con người được sống trong môi trường trong lành. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận chung về quyền được sống trong môi trường trong lành; tập trung phân tích, đánh giá các quy định của Hiến pháp năm 2013 và pháp luật Việt Nam; các báo cáo đánh giá tác động môi trường, các công trình nghiên cứu, tạp chí, các bài viết, tham luận, tài liệu khoa học pháp lý và pháp luật quốc tế liên quan đến quyền được sống trong môi trường trong lành. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của khóa luận chủ yếu tập trung phân tích và đánh giá những nội dung cơ bản và quan trọng về quyền được sống trong môi trường trong lành được quy định trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, đảm bảo thực hiện đúng với tinh thần của Hiến pháp năm 2013, phân tích sơ lược pháp luật quốc tế liên quan đến quyền. Trên cơ sở đánh giá thực trạng quy định và thực tiễn thực hiện quyền, khóa luận sẽ đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật trong thời gian tới và các biện pháp cụ thể để quyền được sống trong môi trường trong lành được nhận thức và sử dụng nhiều hơn trên thực tiễn. 5. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay về chính sách bảo vệ môi trường, quy định của Hiến pháp (chủ yếu là Hiến pháp năm 2013) 8 và các văn bản pháp luật liên quan đến quyền được sống trong môi trường trong lành, gắn với thực trạng môi trường, tình hình KT – XH của Việt Nam hiện nay. Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp thu thập thông tin, phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích... để nghiên cứu cho đề tài. Việc sử dụng các phương pháp này kết hợp đan xen trong các nội dung sẽ giúp cho tác giả xem xét được nhiều khía cạnh của vấn đề và tổng hợp lại để có cái nhìn trung thực, khách quan, toàn diện về quyền được sống trong môi trường trong lành theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Chẳng hạn, áp dụng phương pháp phân tích để tìm hiểu rõ các khái niệm về môi trường, quyền được sống trong môi trường trong lành; phương pháp so sánh để đối chiếu những quy định về quyền được sống trong môi trường trong lành trong các bản Hiến pháp và các văn bản pháp luật; sử dụng phương pháp thống kê để thu thập số liệu liên quan đến môi trường từ đó nhờ vào phương pháp tổng hợp để tập hợp thông tin và đưa ra đánh giá khách quan về quy định của Hiến pháp và pháp luật, cũng như thực tiễn thực hiện quyền được sống trong môi trường trong lành trên thực tế. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của khóa luận Môi trường luôn là một trong những vấn đề được các nhà nghiên cứu ở nước ta lựa chọn để phân tích và đánh giá. Tuy nhiên, phần lớn các bài nghiên cứu tập trung phân tích các yếu tố môi trường gắn liền với yếu tố kinh tế. Đến năm 2013, quyền được sống trong môi trường trong lành là một quyền con người mới được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp, vì vậy đây vẫn là một quyền khá mới mẻ so với các quyền còn lại trong Chương II của Hiến pháp năm 2013. Chính vì vậy việc nghiên cứu đề tài “Quyền được sống trong môi trường trong lành theo quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam” sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện quyền con người được sống trong môi trường trong lành. Một số kiến nghị của khóa luận có giá trị tham khảo cho các nhà lập pháp trong việc xem xét hoàn thiện pháp luật. Cụ thể, những đề xuất mà tác giả đưa ra có thể được xem xét là cơ sở khoa học để các nhà lập pháp có hướng xem xét, nghiên cứu để có những sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật hiện hành nhằm bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể được dùng là tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, học tập của những độc giả, những nhà nghiên cứu quan tâm đến lĩnh vực quyền được sống trong môi trường trong lành, làm tăng thêm số 9 lượng và chất lượng công trình nghiên cứu liên quan đến quyền con người được sống trong môi trường trong lành. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục các từ viết tắt, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận được trình bày trong 2 chương: CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƯỢC SỐNG TRONG MÔI TRƯỜNG TRONG LÀNH 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quyền được sống trong môi trường trong lành 1.2. Một số quy định của pháp luật quốc tế về quyền được sống trong môi trường trong lành 1.3. Nội dung cơ bản của quyền được sống trong môi trường trong lành Kết luận Chương 1 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ QUYỀN ĐƯỢC SỐNG TRONG MÔI TRƯỜNG TRONG LÀNH THEO HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN 2.1. Thực trạng quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam về quyền được sống trong môi trường trong lành 2.2. Thực trạng thực hiện quyền được sống trong môi trường trong lành 2.3. Một số kiến nghị về quy định và thực hiện quyền được sống trong môi trường trong lành theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam Kết luận chương 2 KẾT LUẬN 10 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƯỢC SỐNG TRONG MÔI TRƯỜNG TRONG LÀNH 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quyền được sống trong môi trường trong lành 1.1.1. Khái niệm quyền được sống trong môi trường trong lành Môi trường là thuật ngữ với nội hàm rộng hay hẹp, được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau tùy vào đối tượng và phạm vi mà người nghiên cứu muốn hướng đến. Môi trường theo cách hiểu thông thường: bao gồm tổng thể các yếu tố tự nhiên: đất, nước, không khí, ánh sáng, hệ sinh thái động thực vật… và các yếu tố nhân tạo như làng mạc, hệ thống đê điều,... Tất cả những yếu tố này có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới đời sống sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. Theo Từ điển bách khoa Larouse thì: Môi trường là tất cả những gì bao quanh chúng ta hoặc sinh vật. Nói cụ thể hơn, đó là các yếu tố tự nhiên và nhân tạo diễn ra trong không gian cụ thể, nơi đó có thể có sự sống hoặc không có sự sống. Các yếu tố đều chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của những định luật vật lý, mang tính tổng quát hoặc chi tiết như luật hấp dẫn vũ trụ, năng lượng phát xạ, bảo tồn vật chất. Trong đó, hiện tượng hóa học và tính học là những đặc thù của môi trường bao gồm tất cả những nhân tố tác động qua lại trực tiếp hoặc gián tiếp với sinh vật và quần xã sinh vật. Theo từ điển Tiếng Việt “Môi trường là toàn bộ những điều kiện tự nhiên, xã hội, trong đó con người hay một sinh vật tồn tại phát triển, trong quan hệ với con người, sinh vật ấy”8. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì môi trường được định nghĩa “Môi trường bao gồm các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế, xã hội, sự tồn tại, phát triển của con người, sinh vật và tự nhiên”9. Từ những cách định nghĩa trên ta có thể hiểu môi trường dù được định nghĩa theo cách nào thì cũng có sự tác động, 8 9 Từ điển Tiếng Việt (1997), Nxb. Đà Nẵng, tr.618. Khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2020. 11 ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của mỗi con người nói riêng, cả cộng đồng nói chung. Thế nhưng môi trường ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng: “Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi tính chất vật lý, hóa học, sinh học của thành phần môi trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, sinh vật và tự nhiên”10. Từ những khái niệm trên ta có thể đúc kết môi trường trong lành là một môi trường sạch đẹp không bị ô nhiễm với những tiêu chuẩn môi trường phù hợp, đảm bảo đủ điều kiện để cho con người và sinh vật có thể tồn tại và phát triển, hài hòa với thiên nhiên. Hiện nay cùng với sự phát triển nhanh chóng trên nhiều phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội kéo theo đó cũng là sự ô nhiễm môi trường, đe dọa sự sống và sự phát triển lâu dài của con người. Vì vậy mà quyền được sống trong môi trường trong lành được đặt ra như một quyền cấp thiết phải được thực hiện để bảo vệ con người. Quyền được sống trong môi trường trong lành được ghi nhận tại Tuyên bố của Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường con người (Stockholm - năm 1972), tại Nguyên tắc 1: “Con người có quyền cơ bản được tự do, bình đẳng và được hưởng đầy đủ các điều kiện sống, trong một môi trường chất lượng cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi mà con người có trách nhiệm trong bảo vệ và cải thiện cho các thế hệ hôm nay và mai sau”11 . Theo giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người của nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2009 thì “Quyền về môi trường là quyền được sống trong môi trường trong lành hay khi nói quyền về môi trường là muốn đề cập đến quyền của mọi người trong thế hệ hiện tại và tương lai được sống trong môi trường trong lành, có lợi cho sức khỏe”. Với cách lý giải và ghi nhận về quyền được sống trong môi trường trong lành theo quan điểm của Tiến sĩ Bùi Đức Hiển đó “là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được sống trong môi trường sạch đẹp, thuần khiết, chất lượng với hệ sinh thái cân bằng, không có ô nhiễm, suy thoái hay sự cố môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng và hoạt động bình thường của con người được pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế ghi nhận và bảo vệ”12. Đây là cách tiếp cận khái niệm quyền được sống trong môi trường trong lành tương Khoản 12 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2020. Nhiều tác giả (1995), Các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường (Việt – Anh), Nxb. Chính trị quốc gia, tr.11. 12 Bùi Đức Hiển (2013), Một số vấn đề pháp lý về quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam hiện nay, Báo cáo khoa học, Viện Nhà nước và Pháp luật – Viện Khoa học xã hội Việt Nam, tr. 2. 10 11 12 đối toàn diện và đầy đủ được nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận khi đề cập đến quyền được sống trong môi trường trong lành. Tác giả hoàn toàn đồng tình với cách tiếp cận trên và quan điểm cá nhân của tác giả cho rằng: Quyền được sống trong môi trường trong lành là quyền được sống trong một môi trường trong sạch, lành mạnh với chất lượng phù hợp, đảm bảo điều kiện tốt nhất có thể để con người có thể tồn tại và phát triển, hài hòa với thiên nhiên. Nhưng cũng lưu ý rằng sự đảm bảo“trong lành” ở phạm vi quyền này chỉ ở mức chất lượng đảm bảo trong khả năng cho phép theo quy định của pháp luật hiện hành để bảo vệ con người trước sự ô nhiễm chứ không phải là ở mức tối đa và hoàn toàn không có bất kỳ sự ô nhiễm nào tồn tại. Sở dĩ lưu ý như vậy vì tùy theo trình độ phát triển của mỗi vùng, mỗi quốc gia và nhận thức của cá nhân có sự khác nhau trong việc đánh giá sự “trong lành” của môi trường là quyền cơ bản mà con người được thụ hưởng. Vì vậy môi trường trong lành theo quy định của pháp luật sẽ là thước đo pháp lý để đánh giá cũng như đảm bảo cho quyền con người về môi trường được bảo vệ cơ bản nhất. 1.1.2. Đặc điểm của quyền được sống trong môi trường trong lành Một là, quyền được sống trong môi trường trong lành là quyền con người: Quyền con người là một nội dung quan trọng, xuất phát từ bản chất “Quyền con người là phẩm giá, năng lực, nhu cầu và lợi ích hợp pháp của con người được thể chế, bảo vệ bởi pháp luật quốc gia và luật quốc tế”13. Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người: Quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người. Quyền con người là quyền tự nhiên, cơ bản, vốn có, do tạo hóa ban tặng cho con người từ khi sinh ra. Đây là nhóm quyền thiết yếu gắn liền với quá trình tồn tại của con người. Vì vậy mà quyền con người luôn trở thành một vấn đề được hầu hết các quốc gia trên thế giới chú tâm. Các quốc gia ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của quyền con người và ngày càng mở rộng phạm vi quyền con người. Bên cạnh những quyền có truyền thống lâu đời từ khi xuất hiện vấn đề nhân quyền như nhóm quyền chính trị, quyền dân sự, thì quyền được sống trong môi trường trong lành ra đời muộn hơn nhưng lại tác động mạnh mẽ đến đời sống của con người. Vì lẽ đó mà Điều 43 Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam quy định quyền được sống trong môi trường trong lành là một quyền con người “Mọi người có 13 Đại Học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.135. 13 quyền được sống trong môi trường trong lành...”. “Mọi người” là chỉ con người nói chung bất kể thành phần dân tộc, địa vị, tôn giáo ... không phân biệt bởi một yếu tố đặc trưng riêng nào. Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm thường gây nhầm lẫn. Quyền công dân có phạm vi hẹp hơn quyền con người, quyền công dân chỉ áp dụng cho công dân của quốc gia mà cá nhân mang quốc tịch. Hiến pháp năm 2013 quy định quyền được sống trong môi trường trong lành là quyền dành cho tất cả mọi người (kể cả người có quốc tịch nước ngoài hoặc người không mang quốc tịch) không phải là quyền công dân. Đây là một nhận thức tiến bộ về quyền được sống trong môi trường trong lành trong mối quan hệ với quyền con người của nhà lập pháp Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế tại Tuyên bố Stockholm 197214 Nguyên tắc số 1 nêu rõ: “Con người có các quyền cơ bản về tự do, bình đẳng và điều kiện sống tối thiểu trong môi trường trong lành, cho phép con người có cuộc sống có nhân phẩm và hạnh phúc”. Như vậy ta thấy trong quy định của văn bản pháp luật quốc tế cũng ghi nhận đây là một quyền con người. Hai là, quyền được sống trong môi trường trong lành là quyền thụ động: Chẳng hạn khi nói đến quyền tự do đi lại, tự do cư trú, quyền được học tập…thì chủ thể của các quyền này là con người, là công dân chủ động thực hiện hành vi học tập, hành vi đi lại hoặc cư trú. Nhưng đối với quyền được sống trong môi trường trong lành nó thụ động bởi vì đối tượng chúng ta muốn đề cập nhiều là môi trường, là thiên nhiên, mà những yếu tố này thì không tự mình hành động được, hay nói cách khác môi trường luôn chịu sự tác động từ con người dù tích cực hay tiêu cực. Vì vậy để có được có quyền được sống trong môi trường trên thực tiễn thì con người phải có những hành động cụ thể để BVMT. Để có chính sách tốt về bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành, thì theo một số chuyên gia về quyền môi trường có thể đảm bảo thực hiện thông qua một số quyền như: quyền tiếp cận thông tin, quyền tham gia của dân chúng trong việc ban hành các quyết định về môi trường và tiếp cận tư pháp liên quan tới môi trường. Thực tiễn cho thấy, các quyền này có tác động rất lớn đến việc hiện thực hóa các quyền về môi trường. Các quyền này nhằm giúp cho công dân đóng vai trò tích cực, chủ động hơn đối với các quyết định, chính sách của Nhà nước có liên quan tới môi trường; thực hiện dân chủ hóa đối với các quyết định, chính sách về môi trường, thông qua việc đưa cá nhân, các nhóm tư nhân và những người thường xuyên hứng chịu sự tác động và ảnh hưởng bởi sự ô nhiễm môi trường tham gia vào “Tuyên bố của Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường con người Stockholm 1972”, Các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, Nxb. Chính trị Quốc gia. 14 14 hoạch định chính sách có liên quan tới môi trường. Chính sự tham gia này, sẽ hạn chế quyền lực “quan liêu” của những người ban hành chính sách, bảo đảm sự cân bằng giữa lợi ích bảo vệ môi trường - phát triển bền vững với nhu cầu tăng trưởng kinh tế. Và vì vậy, việc thực hiện các quyền có tính chất thủ tục này là rất quan trọng để có được chính sách tốt về quyền được sống trong môi trường trong lành và qua đó sẽ tạo ra một môi trường bảo đảm cho sức khỏe, bảo vệ lợi ích số đông, lợi ích cộng đồng15. Ba là, quyền được sống trong môi trường trong lành được bảo đảm thực hiện bởi tất cả các chủ thể trong xã hội, đặc biệt là Nhà nước: Xuất phát từ bản chất quyền được sống trong môi trường trong lành là một quyền con người quan trọng, tác động trực tiếp đến chất lượng cuộc sống, sức khỏe và ảnh hưởng nhiều phương diện của đời sống xã hội, nên vấn đề đặt ra là ai có trách nhiệm đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành? Điều 43 Hiến pháp năm 2013 ngoài việc quy định cho mọi người được thụ hưởng quyền được sống trong môi trường trong lành thì còn quy định trách nhiệm bảo vệ quyền:“Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Mà BVMT cũng là đang bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành cho chính cá nhân và toàn xã hội. Như vậy nghĩa vụ bảo vệ môi trường thuộc về “mọi người” là tất cả các chủ thể bao gồm tổ chức, cá nhân, Nhà nước, không có bất kỳ sự phân biệt nào vì là quyền con người như đã phân tích trước đó. Điều này cũng dễ hiểu vì chính những chủ thể được hưởng quyền phải có nghĩa vụ bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành thì lúc đó quyền của chính họ mới được đảm bảo cũng như không xâm phạm vào quyền của những cá nhân, tổ chức khác. Quyền và nghĩa vụ luôn là hai vấn đề không thể tách rời trong mọi mối quan hệ pháp luật, đã có quyền thì phải đi kèm với nghĩa vụ để quyền đó được duy trì và phát triển. Đặc biệt là khi quyền được sống trong môi trường trong lành là quyền cơ bản, tác động lên toàn xã hội thì việc quy định gắn liền giữa quyền và nghĩa vụ như vậy lại là điều rất phù hợp với thực tiễn. Trách nhiệm bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành thuộc về mọi người, tuy nhiên với vai trò của mình thì Nhà nước là chủ thể trước hết phải đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nhà nước ra đời là nhằm để duy trì chế độ kinh tế và quản lý xã hội theo một trật tự, ổn định xã hội. Đặc trưng của nhà nước bao gồm tính giai cấp Huỳnh Thị Hồng Nhiên (2019), Pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành, Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp – Hành chính, Trường Đại học Luật TPHCM, tr.19-20. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan