Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền của người lập di chúc theo pháp luật việt nam hiện hành...

Tài liệu Quyền của người lập di chúc theo pháp luật việt nam hiện hành

.PDF
125
188
99

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ TRÀ MY QUYỀN CỦA NGƢỜI LẬP DI CHÚC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ TRÀ MY QUYỀN CỦA NGƢỜI LẬP DI CHÚC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH Chuyên ngành : Luật Dân sự và tố tụng dân sự Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Lê Đình Nghị Hà Nội - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn nêu trong Luận văn là hoàn toàn trung thực. Kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa từng được người khác công bố trong bất kỳ công trình nào. Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2015 Tác giả Luận văn Nguyễn Thị Trà My LỜI CẢM ƠN Luận văn là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu ở nhà trường, kết hợp với kinh nghiệm trong quá trình thực tiễn công tác, với sự cố gắng nỗ lực của bản thân. Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới TS. Lê Đình Nghị là người trực tiếp hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn cho tôi cả chuyên môn và phương pháp nghiên cứu và chỉ bảo cho tôi nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài. Tôi xin chân thành cám ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như trong quá trình hoàn thành luận văn này. Sau cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình đã luôn tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học cũng như thực hiện luận văn. Mặc dù với sự nỗ lực cố gắng của bản thân, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của các Thầy Cô, đồng nghiệp và bạn bè để luận văn được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2015 Tác giả Luận văn Nguyễn Thị Trà My MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1 - KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI LẬP DI CHÚC ........................................................................................................... 8 1.1. Khái niệm di chúc .................................................................................... 8 1.2. Người lập di chúc .................................................................................. 13 1.2.1. Yêu cầu về độ tuổi của người lập di chúc ......................................... 15 1.2.2. Yêu cầu về nhận thức của người lập di chúc .................................... 18 1.3. Quyền của người lập di chúc ................................................................. 22 1.4. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về quyền của người lập di chúc ở Việt Nam ....................................................................... 27 1.4.1. Giai đoạn trước năm 1945................................................................. 27 1.4.2. Giai đoạn từ 1945 đến trước ngày 1/7/1996 ..................................... 30 1.4.3. Giai đoạn từ ngày 1/7/ 1996 đến nay ................................................ 39 Chƣơng 2 - QUYỀN CỦA NGƢỜI LẬP DI CHÚC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH ............................................................................ 44 2.1. Phạm vi quyền của người lập di chúc .................................................... 44 2.1.1. Chỉ định người thừa kế; Truất quyền hưởng di sản của người thừa kế ......................................................................................................... 44 2.1.2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế ................................. 51 2.1.3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.......... 52 2.1.4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế ...................................................... 59 2.1.5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản ......................................................................................................... 62 2.1.6. Quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc ............................ 66 2.2. Giới hạn quyền của người lập di chúc ................................................... 77 2.2.1. Giới hạn trong việc giao nghĩa vụ cho người thừa kế. .................... 78 2.2.2. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. ............. 80 2.2.3. Giới hạn trong việc để lại di sản dùng vào việc thờ cúng. ................ 83 2.2.4. Giới hạn trong việc để lại di sản di tặng ........................................... 85 2.2.5. Giới hạn trong việc phân chia di sản thừa kế .................................... 87 Chƣơng 3 - THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN CỦA NGƢỜI LẬP DI CHÚC VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI LẬP DI CHÚC .............. 91 3.1. Thực tiễn thực hiện quyền của người lập di chúc .................................. 92 3.1.1. Về truất quyền hưởng di sản thừa kế ................................................ 92 3.1.2. Về người lập di chúc đã định đoạt cả tài sản của người khác ........... 97 3.1.3. Về phạm vi phần di sản dành cho di tặng. ...................................... 100 3.1.4. Về quyền hủy bỏ di chúc................................................................ 102 3.2. Phương hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật về quyền của người lập di chúc ......................................................................................... 104 3.2.1. Về phạm vi quyền của người lập di chúc........................................ 104 3.2.2. Về người lập di chúc ....................................................................... 105 3.2.3. Về truất quyền hưởng di sản của người thừa kế ............................ 108 3.2.4. Về Di tặng, thờ cúng ...................................................................... 109 3.2.5. Về sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc ............................... 111 KẾT LUẬN .................................................................................................. 114 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Ký hiệu 1 BLDS 2 BLDS 1995 Bộ luật dân sự năm 1995 3 BLDS 2005 Bộ luật dân sự năm 2005 4 Nguyên nghĩa Bộ luật dân sự CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 5 PLTK Pháp lệnh thừa kế 6 XHCN Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thừa kế là một hiện tượng xã hội xuất hiện và tồn tại trong mọi chế độ xã hội. Nơi nào có sở hữu thì nơi đó có thừa kế, bởi lẽ “bất cứ nền sản xuất nào cũng là việc con người chiếm hữu những đối tượng của tự nhiên trong một phạm vi, một hình thái xã hội nhất định, nơi nào không có một hình thái sở hữu nào cả thì nơi đó cũng không thể có sản xuất và do đó không thể có một xã hội nào cả” [10, tr.860]. Như vậy, “thừa kế và sở hữu luôn tồn tại song song và gắn bó chặt chẽ với nhau trong mọi hình thái kinh tế xã hội. Trong đó, nếu sở hữu là cơ sở làm xuất hiện vấn đề thừa kế thì đến lượt mình, thừa kế lại là phương tiện để duy trì và củng cố vấn đề sở hữu” [28, tr.8]. Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng trong các chế định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ các quyền của công dân. Chính vì vậy, thừa kế đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được đối với đời sống của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng xã hội. Mỗi nhà nước dù có các xu thế chính trị khác nhau, nhưng đều coi thừa kế là một quyền cơ bản của công dân và được ghi nhận trong Hiến pháp, trong pháp luật dân sự… Về mặt tâm lý, cá nhân không chỉ muốn mình có quyền năng đối với khối tài sản của mình khi còn sống, mà còn muốn chi phối nó ngay cả khi đã chết. Vì vậy, Nhà nước đã công nhận quyền thừa kế của cá nhân đối với tài sản trong đó có quyền của người lập di chúc. Pháp luật quy định cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, để lại tài sản của mình cho những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc, khi họ chết tài sản của họ sẽ được để lại cho những ai, tỷ lệ bao nhiêu… đó là quyền tự do định đoạt của người để lại di sản thừa kế. Bởi thế, các quyền của người lập di chúc luôn được pháp luật tôn trọng, bảo vệ. 1 Ở Việt Nam, trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước, các quy định về quyền của người lập di chúc đã được quy định trong các bộ hình luật của các nhà nước phong kiến. Trải qua thời kỳ Pháp thuộc, các quy định về quyền của người lập di chúc tiếp tục được quy định trong các luật hộ khác nhau được áp dụng tại ba miền Bắc, Trung, Nam. Sau năm 1945, các quy định về quyền của người lập di chúc luôn luôn được đề cập trong các thông tư, văn bản tổng kết công tác xét xử của Tòa án nhân dân tối cao. Bước vào thời kỳ đổi mới, các quy định về quyền của người lập di chúc được pháp điển hóa và quy định trong các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn như Pháp lệnh Thừa kế năm 1990, BLDS 1995. Ngày nay, quyền của người lập di chúc được quy định trong BLDS 2005. Thực tiễn áp dụng cho thấy, các quy định về quyền của người lập di chúc trong BLDS 2005 đã bộc lộ những bất cập, vướng mắc cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước và thực tế đòi hỏi của xã hội. Không phải bất cứ người lập di chúc nào cũng thực hiện đúng các quyền được ghi trên, hoặc sử dụng một phần hoặc sử dụng quá cả phần quyền được pháp luật quy định. Có những di chúc định đoạt cả phần tài sản của người khác, hoặc định đoạt toàn bộ tài sản của mình vượt quá phạm vi pháp luật cho phép, trong trường hợp này di chúc có thể vô hiệu hoặc chỉ có hiệu lực một phần tương ứng với di sản của người lập di chúc… Bên cạnh đó, hiệu quả áp dụng pháp luật về quyền của người lập di chúc trong thực tiễn lập di chúc, thực tiễn giải quyết các tranh chấp về thừa kế có liên quan đến quyền của người lập di chúc cho thấy, một bộ phận không nhỏ người dân không nắm được các quy định của pháp luật về quyền của người lập di chúc. Cùng với đó, một số Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân… cũng chưa thực sự hiểu các quy định của pháp luật về quyền của người lập di chúc. 2 Do đó, việc nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về quyền của người lập di chúc có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn. Với việc nghiên cứu đề tài này, tác giả muốn hoàn thiện hơn nữa những quy định về quyền của người lập di chúc nhằm mục đích nâng cao hơn nữa hiệu quả điều chỉnh của những quy định này trong Bộ luật Dân sự. Làm rõ vấn đề quyền của người lập di chúc giúp chúng ta hiểu và áp dụng pháp luật cho phù hợp với những tình huống cụ thể trong thực tế, là cơ sở đảm bảo quyền tự do dân chủ, công bằng xã hội đảm bảo quyền dân sự của con người được thực hiện đầy đủ từ đó giúp ổn định trật tự xã hội, xây dựng niềm tin cũng như sự tôn trọng của nhân dân vào pháp luật. Vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài: “Quyền của ngƣời lập di chúc theo pháp luật Việt Nam hiện hành” nghiên cứu làm luận văn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thừa kế là vấn đề được quan tâm rất lớn trong lĩnh vực khoa học pháp lý. Tính đến thời điểm hiện nay, đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực thừa kế. Trong đó có một số công trình của một số tác giả tiêu biểu như: PGS. TS. Đỗ Văn Đại với “Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án”, TS. Nguyễn Mạnh Bách với “Chế độ hôn sản và thừa kế trong Việt Nam”, TS. Phùng Trung Tập với “Thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật dân sự Việt Nam”; “Luật thừa kế Việt Nam”, TS. Nguyễn Minh Tuấn với “Pháp luật thừa kế của Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”; “Những quy định chung về quyền thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam”, TS. Trần Thị Huệ với “Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam”, TS. Phạm Văn Tuyết với “Thừa kế - Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng”, TS. Nguyễn Ngọc Điện với “Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật Dân sự Việt Nam”… 3 Thừa kế bao gồm thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Về thừa kế theo di chúc nói chung và quyền của người lập di chúc nói riêng, ở những khía cạnh khác nhau, cho đến nay có một số công trình nghiên cứu liên quan như: Công trình nghiên cứu “Thừa kế theo di chúc trong luật dân sự Việt Nam” của Giáo sư Vũ Văn Mẫu; “Thừa kế theo di chúc trong quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam” của TS. Phạm Văn Tuyết; “Những qui định của Bộ luật dân sự (Dự thảo) về sự sửa đổi, bổ sung, thay thế di chúc và hiệu lực của di chúc” của tác giả Phùng Trung Tập đăng trên Tạp chí Luật học số 2/1995, tr.46 - 51; “Những khó khăn, vướng mắc trong việc lập di chúc và chứng nhận di chúc” số 13/2010, tr.32 - 34, 39; “Bàn về nghĩa vụ mà người lập di chúc giao cho người thừa kế” số 4/2004, tr.14 - 15 của tác giả Thái Công Khanh đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân; Khóa luận tốt nghiệp “Người lập di chúc và quyền của người lập di chúc” của tác giả Đào Thị Nhuận bảo vệ năm 2011 tại trường Đại học luật Hà Nội…Tuy vậy, các công trình trên mới chỉ đề cập đến các quy định về thừa kế theo di chúc nói chung hoặc chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một cách khái quát về thừa kế theo di chúc, tiếp cận dưới một vài góc độ, chưa nghiên cứu chuyên sâu và có tính hệ thống về các quyền của người lập di chúc. Với tình hình trên, đề tài “Quyền của người lập di chúc theo pháp luật Việt Nam hiện hành” lần đầu tiên được nghiên cứu ở Khoa luật cấp thạc sĩ luật học một cách chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ và đảm bảo được tính logic, hệ thống, không trùng lặp với các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm rõ những quy định của pháp luật hiện hành về quyền của người lập di chúc; đánh giá việc áp dụng các quy định này trên thực tiễn, phân tích một số vướng mắc, bất cập trên 4 thực tiễn khi áp dụng các quy định pháp luật về quyền của người lập di chúc từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền của người lập di chúc và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các quy định này trên thực tiễn. Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề sau: - Nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận liên quan tới quyền của người lập di chúc; - Phân tích và nêu bật được nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về quyền của người lập di chúc; - Đưa ra thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về quyền của người lập di chúc, đồng thời chỉ ra những vướng mắc và bất cập của những quy định đó; - Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm áp dụng có hiệu quả các quy định pháp luật về quyền của người lập di chúc. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền của người lập di chúc, các quy định của pháp luật hiện hành về quyền của người lập di chúc. Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. - Phạm vi nghiên cứu Tuy có nghiên cứu về lược sử quy định quyền của người lập di chúc trong pháp luật dân sự Việt Nam song phạm vi đề tài chỉ tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật dân sự hiện hành về quyền của người lập di chúc và thực tiễn áp dụng các quy định trên phạm vi cả nước trong những năm gần đây. 5 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Đối với hoạt động nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp lịch sử: Nghiên cứu các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam giai đoạn trước 1945 đến nay; - Phương pháp so sánh: Sử dụng trong Chương 1 khi so sánh các quy định trong pháp luật dân sự Việt Nam qua các thời kì. Phương pháp so sánh cũng được sử dụng trong Chương 1 khi đề cập tới quan điểm của các tác giả về vấn đề có liên quan tới đối tượng nghiên cứu của đề tài. Phương pháp này cũng được sử dụng trong Chương 2 khi so sánh giữa quyền của người lập di chúc theo quy định của BLDS 2005 với quy định tương ứng về quyền của người lập di chúc trong BLDS 1995, so với pháp luật của Cộng hòa Pháp, Nhật Bản..; - Phương pháp phân tích, quy nạp, diễn giải được sử dụng xuyên suốt trong toàn bộ luận văn để làm rõ những vấn đề được đưa ra; - Ngoài ra đề tài có sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp giả định, tình huống… 6. Kết quả đạt đƣợc và những điểm mới của luận văn - Luận văn phân tích có hệ thống những quy định pháp luật về các quyền của người lập di chúc. Qua nghiên cứu, luận văn chỉ ra những quy định phù hợp với quan hệ thừa kế theo di chúc và những điểm còn bất cập trong quy định về các quyền của người lập di chúc, những điểm cần hướng dẫn thực hiện theo BLDS 2005. - Kết quả nghiên cứu đề tài, tác giả đã có những điểm mới sau đây: + Đây là đề tài khoa học được nghiên cứu lần đầu tiên ở nước ta ở cấp thạc sĩ luật học; 6 + Luận văn hệ thống hóa được những quy định pháp luật về quyền của người lập di chúc ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, làm cơ sở để nghiên cứu toàn diện và hệ thống những quy định của pháp luật về quyền của người lập di chúc; + Luận văn chỉ ra những hạn chế, những vấn đề còn thiếu của những quy định pháp luật về quyền của người lập di chúc trong BLDS 2005; phân tích những quy định về quyền của người lập di chúc, qua đó có những kiến nghị khoa học nhằm hoàn thiện những quy định pháp luật về quyền của người lập di chúc trong BLDS 2005; + Luận văn chỉ ra được những bất cập trong việc hiểu không đúng các quy định pháp luật về quyền của người lập di chúc, trong việc áp dụng pháp luật, đồng thời có những kiến nghị để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành những văn bản hướng dẫn cần thiết. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành ba chương: Chương 1: Khái quát chung về quyền của người lập di chúc; Chương 2: Quyền của người lập di chúc theo pháp luật Việt Nam hiện hành; Chương 3: Thực tiễn thực hiện quyền của người lập di chúc và phương hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật về quyền của người lập di chúc. 7 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI LẬP DI CHÚC 1.1. Khái niệm di chúc Khi một người còn sống có quyền định đoạt toàn bộ hoặc một phần tài sản của mình cho người khác sau khi chết, theo ý chí tự nguyện và thể hiện dưới một hình thức pháp lý xác định gọi là di chúc. Thuật ngữ di chúc được đề cập và sử dụng nhiều trong đời sống nên từ lâu đã trở thành một vấn đề hết sức quen thuộc đối với đời sống nhân dân. Di chúc thường được hiểu một cách đơn giản, truyền thống: “Di chúc là sự dặn lại của một người trước lúc chết với những người khác về những việc cần làm, nên làm” [38, tr.254] hay “là văn bản chính thức ghi những ý muốn của một người, đặc biệt là xử lý những tài sản của mình sau khi chết” [38, tr.182]. Như vậy, về mặt ngữ nghĩa có thể hiểu, di chúc là ý nguyện của cá nhân muốn người khác thực hiện ý nguyện của mình sau khi mình chết, đó có thể là lời dặn con cháu yêu thương lẫn nhau hoặc dặn con cháu làm một công việc gì đó. Dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm di chúc cũng đã được hình thành từ rất sớm. Theo Uipian - một luật gia La Mã nổi tiếng thì: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của chúng ta và ý chí đó được thực hiện sau khi chúng ta chết” [37]. Như vậy, dưới thời La Mã, di chúc đã được hiểu là phương tiện để thể hiện ý chí của người lập ra nó và di chúc có hiệu lực khi người lập ra nó chết đi. Theo pháp luật Anh - Mỹ, thì di chúc được hiểu “là một phương tiện mà một người sử dụng để định đoạt tài sản của mình và chỉ có hiệu lực sau khi người đó chết, với bản chất là có thể được thay đổi hoặc hủy bỏ trong suốt thời gian mà người lập di chúc còn sống” [9, tr.210]. Theo BLDS của Cộng hòa Pháp thì: “Di chúc là một chứng thư, theo đó người để lại di chúc định đoạt sau khi chết một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình, người đó có 8 thể hủy bỏ di chúc” [7, Điều 895]. Tương tự như vậy, mặc dù trong Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan không trực tiếp nêu ra khái niệm di chúc nhưng đã gián tiếp định nghĩa di chúc thông qua quy định về quyền của người để lại thừa kế trong việc “giải quyết” tài sản của mình sau khi chết, cụ thể Điều 1646 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan quy định: “Bất kỳ người nào có thể, trước khi chết, làm một tuyên bố ý định bằng di chúc về giải quyết tài sản của mình, hoặc những vấn đề khác mà sẽ có hiệu lực theo quy định của pháp luật sau khi người đó chết”. Ở nước ta, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật các nhà xây dựng pháp luật luôn chú ý đến chuẩn hóa các thuật ngữ pháp lý. Theo tác giả Đoàn Bá Lộc thì di chúc hay chúc thư “là một văn tự lập theo các thể thức pháp định để chứng chắc sự thật và do đó một người để lại cho người thừa kế biết ý định mai hậu của mình” [18, tr.133]. Theo các tác giả của cuốn Bình luận khoa học BLDS 2005 (Tập III) thì: “Di chúc là sự bày tỏ ý chí của một người khi còn sống định đoạt tài sản của mình, để chuyển toàn bộ hoặc một phần tài sản của người đó cho một hay nhiều người thừa kế sau khi chết” [39, tr.45]. Trong pháp luật thực định của Việt Nam, di chúc là một giao dịch dân sự dưới dạng hành vi pháp lý đơn phương, theo đó, Điều 646 BLDS 2005 đã định nghĩa: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Như vậy, về phương diện khoa học pháp lý di chúc là phương diện phản ánh trung thực ý nguyện cuối cùng của cá nhân trong việc chuyển dịch tài sản của họ cho người khác sau khi họ chết. Từ khái niệm trên có thể thấy, di chúc có một số đặc trưng sau: Thứ nhất, Di chúc là sự thể hiện ý chí đơn phương, tự nguyện của cá nhân mà không phải là của bất kỳ chủ thể nào khác: Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự bao gồm cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và trong một 9 số trường hợp bao gồm cả Nhà nước. Tuy nhiên, do bản chất của di chúc là nhằm định đoạt tài sản riêng của cá nhân sau khi chết nên di chúc chỉ có thể được lập bởi cá nhân [36, tr.211], ngoài cá nhân pháp luật không thừa nhận quyền lập di chúc của bất cứ một chủ thể nào khác. Sự thể hiện ý chí đơn phương của người lập di chúc được thể hiện ở chỗ, việc lập di chúc, nội dung của di chúc phải do chính người lập di chúc quyết định và định đoạt, bởi vì “việc lập di chúc cũng như việc kết hôn không thể thực hiện bằng lối ủy quyền. Không ai có thể ủy quyền cho người khác để thay mình lập chúc thư mà pháp luật cũng không có quyền chỉ định một thụ ủy luật định để lập chúc thư thay thế một người khác” [8, tr.61]. Nếu như hợp đồng dân sự “là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” [27, Điều 388], tức là có sự thống nhất ý chí của các bên chủ thể tham gia giao dịch dân sự thì di chúc là một giao dịch dân sự thể hiện dưới dạng hành vi pháp lý đơn phương - giao dịch được xác lập theo ý chí cá nhân của người để lại di chúc. Điều này được thể hiện ở chỗ người lập di chúc toàn quyền định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác sau khi chết. Người lập di chúc có toàn quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình cho bất kỳ ai và có quyền cho ai bao nhiêu phần trăm số tài sản thuộc quyền sở hữu của mình mà không phụ thuộc vào việc người được hưởng thừa kế theo di chúc có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hay thân thích với người lập di chúc. Người lập di chúc có thể cho người này nhiều, người kia ít, hoặc không cho người nào đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Như vậy, việc có để lại di chúc hay không, nội dung di chúc chỉ định những ai được hưởng di sản, hưởng bao nhiêu, truất quyền thừa kế của ai…hoàn toàn là do người để lại di chúc quyết định mà không cần bàn bạc, trao đổi, thống nhất với những người thừa kế được chỉ định trong di chúc. Đồng thời, không có ai có quyền can thiệp vào 10 việc lập di chúc, nội dung di chúc, bất cứ sự can thiệp nào ảnh hưởng đến sự tự nguyện của người lập di chúc trong việc lập di chúc đều có thể làm cho di chúc vô hiệu. Người lập di chúc không có nghĩa vụ phải trao đổi với những người thừa kế về nội dung di chúc. Như vậy, nếu như trong tất cả các loại hợp đồng dân sự đều phải thể hiện ý chí của các bên tham gia hợp đồng và các bên đều phải tự nguyện thỏa thuận, bàn bạc, trao đổi..., thì di chúc chỉ thể hiện ý chí của bên lập di chúc. Hợp đồng dân sự chỉ phát sinh hiệu lực khi các bên tham gia hợp đồng thống nhất được những điều khoản ghi nhận trong hợp đồng và cùng nhau ký kết hợp đồng, còn trong di chúc thì không có sự thống nhất giữa người lập di chúc và người được thừa kế theo di chúc. Thực tế đã có nhiều trường hợp người được hưởng thừa kế theo di chúc không thể biết mình có quyền được hưởng di sản theo di chúc vì di chúc chưa được công bố và được cất giữ bí mật. Thứ hai, mục đích của di chúc phải nhằm dịch chuyển tài sản của người lập di chúc cho người khác sau khi chết. Nếu như các loại hợp đồng dân sự đều thể hiện ý chí thỏa thuận của các chủ thể nhằm chuyển dịch tài sản từ người này sang người khác thì di chúc lại nhằm chuyển dịch tài sản của người đã chết sang cho người còn sống. Người thừa kế theo di chúc phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Nội dung của di chúc có thể gồm nhiều nội dung khác nhau, đó có thể là những lời dặn dò con cháu sống hòa thuận hoặc thực hiện một số công việc cụ thể nào đó…nhưng nhất định phải có nội dung thể hiện mục đích nhằm chuyển dịch tài sản của người để lại di chúc cho con cháu hay những người khác. Do đó, những di chúc mà nội dung không nhằm định đoạt tài sản của người để lại di chúc cho người khác thì không được xem là di chúc thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự. 11 Di chúc phải có nội dung là định đoạt tài sản của người để lại di chúc cho người khác nhưng việc định đoạt tài sản ở đây phải là định đoạt tài sản sau khi chết, bởi lẽ, di chúc chỉ có hiệu lực và được thực thi khi người để lại di chúc chết đi. Đây là đặc trưng quan trọng thể hiện bản chất của di chúc và phân biệt giữa di chúc và hợp đồng tặng cho tài sản. Trong thực tế, có trường hợp di chúc được công bố sớm và một số tài sản được giao ngay cho những người được chỉ định hưởng thừa kế quản lý. Trong quá trình quản lý, một số người được chỉ định hưởng thừa kế trong di chúc đã đi đăng ký sở hữu đối với tài sản được tạm giao, có trường hợp, chủ sở hữu (người lập di chúc) không biết nhưng cũng có trường hợp chủ sở hữu biết rõ người quản lý (người được chỉ định trong di chúc) đã đi đăng ký sang tên sở hữu nhưng không phản đối. Trong những trường hợp này, không thể xem là quyền sở hữu tài sản đã được xác lập đối với những người được chỉ định trong di chúc và đã được tạm giao quản lý tài sản [13, tr.278-279]. Thứ ba, di chúc có hiệu lực khi người để lại di sản thừa kế chết. Khoản 1 Điều 667 BLDS 2005 quy định: "Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế". Về thời điểm mở thừa kế Khoản 1 Điều 633 BLDS 2005 quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết, thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này”. Đây là một đặc điểm thể hiện rõ nét sự khác biệt giữa di chúc với các loại giao dịch dân sự khác, ví dụ như hợp đồng dân sự có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác, còn thời điểm có hiệu lực của di chúc lại phụ thuộc vào thời điểm mà người lập di chúc chết hoặc thời điểm mà quyết định của Tòa án tuyên bố người lập di chúc chết có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, việc xác định đúng thời điểm mở thừa kế (thời điểm người lập di chúc chết) có ý nghĩa trong việc xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc. 12 Cũng là giao dịch dân sự nhưng việc chuyển dịch tài sản cho người được chỉ định trong di chúc khác với việc chuyển dịch tài sản cho người được tặng cho trong hợp đồng tặng cho tài sản. Điều này được thể hiện ở chỗ, việc chuyển dịch tài sản cho người được tặng cho trong hợp đồng tặng cho tài sản có hiệu lực khi người có tài sản còn sống, cụ thể, đối với hợp đồng tặng cho động sản hoặc bất động sản mà quyền sở hữu không phải đăng ký có hiệu lực kể từ khi bên được tặng cho nhận tài sản; đối với động sản và bất động sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký, còn việc chuyển dịch tài sản cho người thừa kế trong di chúc chỉ có hiệu lực pháp luật khi người để lại di sản chết đi. Chính vì vậy, người để lại di sản có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, di chúc vào bất cứ lúc nào như tác giả Nguyễn Ngọc Điện đã viết: “Cho đến khi người lập di chúc chết, người thụ hưởng di sản theo di chúc không có bất kỳ một quyền nào trên bất cứ một tài sản nào của người lập di chúc và cho rằng họ cũng không chắc được hưởng di sản về sau này. Di chúc chỉ ghi nhận cho họ một quyền nào đó trong di sản của người lập di chúc, tức là một quyền đối với tài sản mà người này sau này sẽ để lại, nếu có để lại. Người thừa kế theo di chúc và người được di tặng không thể đòi hỏi sự đảm bảo quyền lợi gắn liền với tư cách đó, và thậm chí, cả sự đảm bảo cho việc duy trì tư cách đó vì di chúc có thể bị sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ theo ý chí của người lập ra nó” [15, tr.158]. 1.2. Ngƣời lập di chúc Cá nhân là một trong những chủ thể quan trọng của quan hệ pháp luật dân sự. Tuy quyền dân sự của mọi cá nhân đều bình đẳng nhưng tùy thuộc vào năng lực chủ thể của họ mà pháp luật quy định cho họ được tham gia vào những quan hệ pháp luật dân sự với mức độ khác nhau. Chủ thể có quyền lập di chúc chỉ có thể là cá nhân. Vấn đề cốt lõi của di chúc là định đoạt tài sản 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan