BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
PHẠM HỒNG NAM
QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học : TS. GVC Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh
Học viên
: Phạm Hồng Nam
Lớp
: Cao học Luật, An Giang, Khóa 2
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Quyền của người bào chữa trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” là công trình nghiên
cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS.GVC Nguyễn Huỳnh Bảo
Khánh. Các số liệu ghi trong luận văn là có thật, kết quả nghiên cứu là trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày
tháng
Tác giả luận văn
Phạm Hồng Nam
năm 2022
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT
TÊN ĐẦY ĐỦ
01
CQĐT
Cơ quan điều tra
02
ĐTV
Điều tra viên
03
NBC
Người bào chữa
04
THTT
Tiến hành tố tụng
05
TTHS
Tố tụng hình sự
06
VAHS
Vụ án hình sự
STT
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA ĐƯỢC GẶP NGƯỜI BỊ
BẮT, NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN ĐANG BỊ TẠM GIAM............................ 7
1.1. Quy định pháp luật về quyền của người bào chữa được gặp người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam ................................................. 7
1.1.1. Quy định về quyền của người bào chữa được gặp người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can đang bị tạm giam trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 .............................................................................................................. 7
1.1.2. Quy định về quyền của người bào chữa được gặp người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can đang bị tạm giam theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 .......... 9
1.2. Thực tiễn áp dụng về quyền của người bào chữa được gặp người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam....................................................... 16
1.2.1. Những kết quả đạt được ........................................................................... 16
1.2.2. Những vướng mắc, hạn chế ...................................................................... 18
1.2.3. Nguyên nhân của những vướng mắc, hạn chế .......................................... 21
1.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền của người bào chữa được gặp
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam ................................ 24
1.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến việc thực hiện quyền của
người bào chữa được gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm
giam .................................................................................................................... 24
1.3.2. Nâng cao trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng .............................................................. 27
Kết luận chương 1 ................................................................................................... 29
CHƯƠNG 2. QUYỀN HỎI CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG HỎI CUNG
NGƯỜI BỊ BẮT, NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN ĐANG BỊ TẠM GIAM ..... 30
2.1. Quy định pháp luật về quyền hỏi của người bào chữa trong hỏi cung
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam ................................ 30
2.1.1. Quy định về quyền hỏi của người bào chữa trong hỏi cung người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam trước khi ban hành Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 ............................................................................................... 30
2.1.2. Quy định về quyền hỏi của người bào chữa trong hỏi cung người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam theo Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 .................................................................................................................... 31
2.2. Thực tiễn áp dụng về quyền hỏi của người bào chữa trong hỏi cung
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam ................................ 36
2.2.1. Những kết quả đạt được ........................................................................... 36
2.2.2. Những vướng mắc, hạn chế ...................................................................... 38
2.2.3. Nguyên nhân của những vướng mắc, hạn chế .......................................... 43
2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền hỏi của người bào chữa trong
hỏi cung người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam ................ 45
2.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến quyền hỏi
của người bào chữa trong hỏi cung người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang
bị tạm giam ......................................................................................................... 45
2.3.2. Nâng cao trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng .............................................................. 47
2.3.3. Nâng cao địa vị pháp lý của người bào chữa, chất lượng và đạo đức nghề
nghiệp luật sư ..................................................................................................... 48
2.3.4. Tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật đến với
người dân về quyền yêu cầu người bào chữa ..................................................... 50
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 51
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 2020 là năm đánh dấu những sự kiện đặc biệt quan trọng liên quan đến
hoạt động cải cách tư pháp, trong đó có lĩnh vực Luật sư. Đó là tổng kết 15 năm thực
hiện Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020, tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 33 – CT/TW ngày
30/3/2009 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt
động của Luật sư. Theo đó, trong những năm qua, vị trí và vai trò của Luật sư ngày
càng được nâng cao, đội ngũ Luật sư được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng về chuyên
môn, nghiệp vụ. Đặc biệt, với những quy định tiến bộ của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015, thẩm quyền của người bào chữa nói chung và Luật sư nói riêng được mở rộng,
góp phần tạo nên sự phối hợp tốt giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng với người bào chữa, tạo điều kiện để người bào chữa thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn theo quy định của pháp luật, hoạt động tranh tụng của người bào chữa có những
chuyển biến tích cực, tạo không khí dân chủ tại phiên tòa. Vị thế của luật sư cũng từ đó
được tôn vinh và ngày càng được khẳng định trong đời sống chính trị, xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn tồn tại nhiều bất
cập dẫn đến quá trình hành nghề, người bào chữa chưa thể thực hiện đúng và đủ các
quyền của mình theo quy định của pháp luật. Một số cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng vẫn còn xem nhẹ vị trí, vai trò của người bào chữa trong khi
tham gia tố tụng, đâu đó vẫn tồn tại tư duy cho rằng người bào chữa tham gia vào vụ
án là gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Mặt khác, dù Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 được ban hành với những quy định tiến bộ, mở rộng quyền
cho người bào chữa trong hoạt động tác nghiệp. Thế nhưng, các quy định này vẫn còn
mang tính hình thức, chưa đi vào thực tiễn đời sống pháp lý; một số quy định còn
chồng chéo, mâu thuẫn; các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 liên quan đến thực hiện quyền, nghĩa vụ của người bào chữa vẫn chưa được ban
hành, chất lượng tranh tụng còn thiếu dân chủ. Điều này đã và đang gây khó khăn cho
hoạt động hành nghề luật sư trong tố tụng hình sự cũng như chưa tạo được điều kiện
để người bào chữa bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được ban hành, đến nay đã có nhiều
bài viết, luận văn nói về những điểm mới tiến bộ liên quan đến vai trò của luật sư
hoặc người bào chữa ở từng giai đoạn tố tụng theo những phạm vi và mức độ
2
nghiên cứu khác nhau. Điển hình như các tác giả sách chuyên khảo, luận văn, các
bài viết có liên quan tới quyền của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam gồm:
Về sách chuyên khảo:
- ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Mai Bộ, TS. Lê Văn Thư, TS. Nguyễn
Ngọc Hà, PGS. TS. Trần Văn Luyện, LS. Phạm Thị Thu, PGS. TS. Đỗ Thị Phượng,
LS. ThS. Nguyễn Cao Hùng (2018), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự
2015, Nhà xuất bản Công an nhân dân; PGS. TS. Nguyễn Tất Viễn (2019), Các
nguyên tắc hiến định trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp; TS.
Luật sư Phan Trung Hoài (2016), Những điểm mới về chế định bào chữa trong Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Ở các tài liệu này, các tác giả đã nêu lên đầy đủ những điểm mới của Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015, trong đó có đề cập đến điểm tiến bộ về chế định bào chữa
nói chung, quyền của người bào chữa nói riêng trong các giai đoạn tố tụng, điển
hình mở rộng chủ thể người bào chữa mới là Trợ giúp pháp lý trong trường hợp
người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý và người đại diện của
người bị buộc tội; mở rộng cơ hội cho người bị buộc tội được tiếp cận với người
bào chữa; cho phép chuyển từ thủ tục xin cấp giấy chứng nhận bào chữa cho từng
giai đoạn tố tụng sang thủ tục đăng ký bào chữa một lần trong suốt quá trình tố
tụng; mở rộng các quyền của người bào chữa, trong đó có quyền được chủ động
gặp, hỏi người bị buộc tội trong các giai đoạn tố tụng. Tuy nhiên, chưa có tài liệu
nào đi vào phân tích chuyên sâu về quyền của người bào chữa trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự.
Về bài báo khoa học:
- ThS. Cao Thị Ngọc Hà, Hoàn thiện pháp luật về chức năng bào chữa trong
tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Nghề luật, Số 02/2019. Bài viết này tác giả chủ
yếu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền của người bào chữa
và người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, chứ không tập trung phân tích quyền
được gặp và quyền hỏi của người bào chữa đối với người bị bắt, người bị tạm giữ,
bị can đang bị tạm giam ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
- TS. Nguyễn Thanh Mai, Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt
động thu thập chứng cứ của người bào chữa trong tố tụng hình sự, Tạp chí Nghề
luật, Số 03/2019. Theo đó, tác giả đề cập quy định về quyền gặp, hỏi của người bào
chữa, những vướng mắc về trách nhiệm thông báo cho người bào chữa thời gian,
3
địa điểm tiến hành hoạt động tố tụng nói chung, chứ không phân tích chuyên sâu ở
giai đoạn điều tra.
Về luận văn thạc sĩ:
- Phạm Thị Ngọc Thu (2018), Chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự, Đại học Luật TPHCM. Đây là luận văn thạc sĩ được viết theo định
hướng nghiên cứu, tác giả đã tập trung phân tích về chức năng bào chữa trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự nói chung, bao gồm: chức năng bào chữa của người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can và người bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ,
bị can. Do đó, luận văn chưa tập trung nghiên cứu chuyên sâu đối với chức năng
của người bào chữa nói riêng trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
- Nguyễn Văn Út (2019), Quyền gặp, hỏi người bị buộc tội của người bào chữa
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Đại học Luật TPHCM. Đây là luận văn được
viết theo định hướng ứng dụng, tác giả đã nêu đầy đủ những quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 về quyền gặp và hỏi người bị buộc tội của người bào chữa
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Tuy nhiên, phần vướng mắc và đề xuất, giải
pháp còn mang tính chung chung, chưa đi sâu vào những thực tiễn trong quá trình hành
nghề của luật sư nói riêng và của người bào chữa nói chung; từ đó tác giả chưa nêu
được các kiến nghị, giải pháp mang tính đột phá để ứng dụng trong thực tiễn.
- Nguyễn Thành Lợi (2019), Hỏi cung bị can theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Đại học Luật TPHCM. Đây là luận văn thạc sĩ được viết theo định hướng
nghiên cứu, tác giả đã thể hiện kiến thức lý thuyết, thực tiễn áp dụng pháp luật và
giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động hỏi
cung bị can. Tuy nhiên, tác giả chủ yếu đi sâu phân tích hoạt động hỏi cung bị can
của Điều tra viên, Kiểm sát viên, đối với người bào chữa chỉ nêu chung chung,
không đi vào phân tích chuyên sâu.
Do đó, để đảm bảo tính mới trong bài luận văn của mình, tác giả sẽ nêu lên
những bất cập, vướng mắc về việc thực hiện quyền của người bào chữa trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự, cụ thể là quyền được gặp người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can đang bị tạm giam và quyền hỏi của người bào chữa đối với người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam từ thực tiễn hành nghề luật sư của chính
tác giả. Bên cạnh đó, tác giả làm phiếu khảo sát từ đồng nghiệp, kết hợp một số quy
định tiến bộ về quyền của người bào chữa ở giai đoạn điều tra ở một số nước như:
Trung Quốc, Đức, Nga nhằm phân tích, đánh giá thực trạng và đưa ra kiến nghị phù
hợp với tình hình thực tế.
4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về quyền của người bào
chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật
cũng như những vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành; Luận văn đưa ra giải
pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo cho người bào chữa
được thực hiện các quyền theo đúng quy định mà không bị cản trở, từ đó nâng cao
ý thức pháp luật của người dân về nhu cầu dịch vụ pháp lý của luật sư trong giai
đoạn điều tra khi tham gia vụ án hình sự, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, hạn chế việc xét xử oan sai, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về quyền được
gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam và quyền hỏi của người
bào chữa đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam trên cơ sở
so sánh với các quy định pháp luật cũ và nêu bật những điểm mới tiến bộ.
- Phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 về quyền được gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị
tạm giam và quyền hỏi của người bào chữa đối với người bị bắt, người bị tạm giữ,
bị can đang bị tạm giam dựa trên các Báo cáo của cơ quan có thẩm quyền, Phiếu
khảo sát do tác giả thu thập và thông tin từ các bài viết trên mạng internet.
- Nghiên cứu các hồ sơ vụ án từ tiễn hành nghề của tác giả để tổng kết, đánh
giá, kết luận về hiệu quả áp dụng pháp luật về quyền của người bào chữa trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự.
- Đề xuất các giải pháp pháp lý, kiến nghị hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp
luật về quyền được gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam và
quyền hỏi của người bào chữa đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị
tạm giam trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Là các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về quyền của người bào chữa ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự
theo Bộ luật tố tụng hình sự.
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: đề tài được giới hạn trong các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về quyền của người bào chữa ở giai đoạn điều tra theo Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015. Cụ thể là quyền của người bào chữa được gặp người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can đang bị tạm giam và quyền hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can đang bị tạm giam của người bào chữa ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015; trong đó tác giả tập trung phân tích diện chủ thể
người bào chữa chủ yếu là luật sư.
- Về không gian: trên địa bàn tỉnh An Giang và các tỉnh.
- Về thời gian: từ năm 2016 đến nay.
Tác giả giới hạn khảo sát nghiên cứu thông qua các tài liệu và thực tiễn xét
xử sơ thẩm các vụ án hình sự có thời gian từ ngày Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
có hiệu lực (ngày 01/07/2016) đến nay. Đối với những bất cập, hạn chế của đề tài,
tác giả xin giới hạn đánh giá ở những tài liệu, vụ án mà tác giả tìm hiểu được, chứ
không bao gồm tất cả các nội dung liên quan đến việc thực hiện các quyền của
người bào chữa nói chung và luật sư nói riêng trong hoạt động hành nghề. Đồng
thời, nghiên cứu những quy định pháp luật khác có liên quan đến đề tài, thực tiễn
thực hiện quyền của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
5. Phương pháp nghiên cứu
Kết cấu của luận văn được chia làm hai Chương. Từng Chương sẽ giải quyết
dứt điểm một vấn đề. Do vậy, ở mỗi Chương tác giả sẽ kết hợp nhiều phương pháp
khác nhau. Cụ thể:
Phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích các quy định của pháp
luật, phân tích điều luật, nhằm chỉ ra các vấn đề luật chưa quy định hay có quy định
nhưng chưa rõ ràng, những điểm mâu thuẫn giữa các điều luật. Đồng thời, phân tích
những tình huống đã xảy ra trong thực tiễn thực hiện quyền của người bào chữa, để
từ đó rút ra nhận xét về việc áp dụng pháp luật có phù hợp chưa, có những điểm nào
còn thiếu sót cần phải bổ sung, làm cơ sở đưa ra các kiến nghị hoàn thiện.
Phương pháp so sánh được sử dụng để chỉ ra những điểm nổi bật, khác biệt
giữa pháp luật tố tụng hình sự hiện hành với pháp luật tố tụng hình sự cũ hay giữa
pháp luật hiện hành với các văn bản pháp luật khác có liên quan làm cơ sở đưa ra
những kiến nghị sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình hình thực tế.
Phương pháp chứng minh được sử dụng để chứng minh cho từng nhận định
của tác giả.
6
Phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng nhằm thu thập thông tin từ các
luật sư, trợ giúp viên pháp lý thông qua các câu hỏi khảo sát để cung cấp số liệu cho
các nhận định của tác giả.
Phương pháp tổng hợp được tác giả sử dụng để rút lại vấn đề, đưa ra quan
điểm cá nhân về từng vấn đề, đồng thời có sử dụng phương pháp mô tả về thực
trạng áp dụng pháp luật có những khó khăn, bất cập để tìm ra hướng hoàn thiện.
6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả
nghiên cứu của đề tài
6.1. Dự kiến các kết quả nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần tạo cơ chế cho quyền được
gặp và được hỏi của người bào chữa đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can
đang bị tạm giam ở giai đoạn điều tra được áp dụng và thi hành trong thực tiễn hoạt
động tố tụng hình sự. Qua đó, góp phần nâng cao vị thế và hiệu quả hoạt động của
người bào chữa nói chung và luật sư nói riêng trong quá trình tham gia bào chữa
cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam ở giai đoạn điều tra;
đảm bảo hoạt động điều tra giải quyết vụ án hình sự được chính xác, khách quan,
đúng người, đúng tội.
6.2. Địa chỉ ứng dụng
Luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ giảng dạy
pháp luật, các nghiên cứu sinh, các học viên, sinh viên chuyên ngành luật và các cán
bộ đang công tác ở các cơ quan tiến hành tố tụng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm 2 Chương:
Chương 1. Quyền của người bào chữa được gặp người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can đang bị tạm giam;
Chương 2. Quyền hỏi của người bào chữa trong hỏi cung người bị bắt, người
bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam.
7
CHƯƠNG 1
QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA ĐƯỢC GẶP NGƯỜI BỊ BẮT, NGƯỜI BỊ
TẠM GIỮ, BỊ CAN ĐANG BỊ TẠM GIAM
1.1. Quy định pháp luật về quyền của người bào chữa được gặp người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam
1.1.1. Quy định về quyền của người bào chữa được gặp người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can đang bị tạm giam trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Về quyền gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam của NBC lần đầu
tiên được quy định trong Bộ luật TTHS năm 1988. Theo đó, khoản 1 Điều 36 Bộ
luật TTHS năm 1988 quy định về quyền của NBC, gồm: 1- NBC tham gia tố tụng
từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp cần phải giữ bí mật điều tra đối với tội đặc
biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
quyết định để NBC tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra; 2- NBC có quyền có
mặt khi hỏi cung bị can cùng ĐTV và có mặt trong những hoạt động điều tra khác.
Với quy định này, Bộ luật TTHS năm 1988 đã tạo điều kiện cho NBC được
thực hiện quyền gặp bị can đang bị tạm giam. Tuy nhiên, NBC chỉ được thực hiện
các quyền này trong khuôn khổ do cơ quan THTT cho phép và phê duyệt, cụ thể là
phải được sự đồng ý của cơ quan đang thụ lý vụ án. Bên cạnh đó, pháp luật thời kỳ
này cũng chưa quy định NBC có quyền gặp người bị tạm giữ, mặc dù Bộ luật TTHS
năm 1988 có quy định về người bị tạm giữ. Điều 38 quy định về người bị tạm giữ là
người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang và đối với họ đã có
quyết định tạm giữ, nhưng chưa bị khởi tố.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, Bộ luật TTHS năm 2003 được ban
hành với những quy định tiến bộ, quyền của NBC được mở rộng hơn. Đó là quy
định NBC được quyền tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ (khoản 1 Điều
58) trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 (Bắt người trong trường
hợp khẩn cấp) và Điều 82 (Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã); NBC
có quyền gặp người bị tạm giữ (điểm e khoản 2 Điều 58). Đến năm 2011, Bộ Công
an ban hành Thông tư số 70/2011/TT-BCA ngày 10/10/2011 về quy định chi tiết thi
hành các quy định của Bộ luật TTHS liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa
trong giai đoạn điều tra VAHS. Qua các quy định của Thông tư này đã thể hiện
cách nhìn nhận mới của Cơ quan tiến hành tố tụng đối với vai trò của NBC trong
giai đoạn điều tra VAHS, tạo điều kiện cho người bị tạm giữ, bị can được tiếp cận
với NBC. Theo đó, Thông tư đã có những quy định mang tính nguyên tắc về tôn
8
trọng và bảo vệ quyền của NBC (Điều 3); người bị tạm giữ, bị can được ĐTV giải
thích quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa và thực hiện thủ tục nhờ
NBC (Điều 4); quy định cụ thể về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận NBC đối
với luật sư và bào chữa viên nhân dân, về thủ tục NBC gặp người bị tạm giữ, bị can
đang bị tạm giam.
Mặc dù, Bộ luật TTHS năm 2003 và Thông tư số 70/2011/TT-BCA có những
quy định tiến bộ so với Bộ luật TTHS năm 1988. Thế nhưng, các quy định này vẫn
còn mang tính hình thức, chưa đi vào thực tiễn, gây khó khăn cho NBC nói chung
và luật sư nói riêng trong quá trình tham gia tố tụng, đặc biệt là việc thực hiện
quyền được gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam. Cụ thể như sau:
Về quyền của NBC được gặp người bị bắt, Bộ luật TTHS năm 2003 chưa
quy định.
Về quyền của NBC được gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam, Bộ
luật TTHS năm 2003 chỉ quy định chung chung tại điểm e khoản 2 Điều 58: “Gặp
người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam”. Thế nhưng, tại Điều 10
Thông tư 70/2011/TT-BCA quy định: “Khi NBC có văn bản đề nghị CQĐT cho
gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam thì CQĐT làm các thủ tục theo quy
định của pháp luật để NBC được gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam;
nếu từ chối cho gặp thì phải thông báo cho NBC biết bằng văn bản và nêu rõ lý do
từ chối”. Với quy định này đã gây khó khăn cho NBC trong việc thực hiện quyền
gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam. Bởi NBC muốn thực hiện quyền của
mình phải được sự chấp thuận của CQĐT và ý chí chủ quan của ĐTV, trong khi
pháp luật cũng không quy định những trường hợp cụ thể nào thì CQĐT được quyền
từ chối không cho NBC được gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam. Do
vậy, chính các quy định này đã tạo thành một rào cản pháp lý khiến cho NBC không
thể thực hiện quyền này trên thực tế khi tham gia tố tụng.
Vấn đề gặp gỡ người bị tạm giữ/bị can đang bị tạm giam trong giai đoạn điều
tra, có 44,5% Luật sư được khảo sát cho rằng, cho dù Thông tư số 70/2011/TT-BCA
và Quy chế phối hợp được ban hành, họ vẫn thường xuyên chưa thật sự thấy thuận lợi
trong việc được gặp gỡ người bị tạm giữ/bị can; 53,2% Luật sư cho rằng, họ thường
xuyên gặp khó khăn trong việc gặp gỡ thân chủ của mình. Lưu ý, có hơn 1/3 số Luật
sư cho biết, họ hoàn toàn không được gặp thân chủ trong giai đoạn điều tra1.
Phan Trung Hoài (2016), Những điểm mới về chế định bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 86.
1
9
Nhiều ý kiến đánh giá Thông tư số 70/2011/TT-BCA và Quy chế phối hợp chưa
thật sự có tác động nhiều tới việc hỗ trợ Luật sư được gặp người bị tạm giữ/bị can đang
bị tạm giam. Kết quả khảo sát cho thấy, đa số các Luật sư cho biết, họ chưa được chủ
động trong việc tiếp xúc và trao đổi với khách hàng. Phần lớn Luật sư vẫn thường
xuyên chỉ được trao đổi với khách hàng khi ĐTV cho phép trong cả giai đoạn điều tra
và giai đoạn truy tố. Trong giai đoạn điều tra, 37,1% Luật sư cho rằng, họ hiếm khi
được chủ động trao đổi với khách hàng mà không bị hạn chế. Ngoài ra, Thông tư số
70/2011/TT-BCA yêu cầu NBC phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy chế của Nhà
tạm giữ, Trại tạm giam nhưng lại chưa có sự thống nhất quy định chung trên toàn quốc
dẫn đến khó khăn cho NBC thực hiện việc gặp người bị tạm giữ, bị can2.
1.1.2. Quy định về quyền của người bào chữa được gặp người bị bắt, người
bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
1.1.2.1. Những quy định chung
Quyền được gặp người bị bắt, bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam của NBC ở
giai đoạn điều tra VAHS là rất quan trọng. Bởi đó là cơ sở để NBC triển khai và
định hướng các hoạt động bào chữa trong TTHS. Bộ luật TTHS năm 2015 ra đời
trên cơ sở cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về NBC, Hiến pháp
năm 2013 một lần nữa khẳng định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa, mở rộng
phạm vi người được bào chữa là người bị bắt. Cụ thể hóa Hiến pháp, Bộ luật TTHS
năm 2015 đã xây dựng một chương mới (Chương V) về bào chữa, thể hiện bước
chuyển căn bản trong nhận thức toàn diện và sâu sắc tinh thần Hiến pháp năm 2013
về bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Điều 72 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: “NBC là người được người bị
buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và
được cơ quan, người có thẩm quyền THTT tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”.
NBC có thể là:
Luật sư: Là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của
Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau
đây gọi chung là khách hàng)3. Tiêu chuẩn luật sư, điều kiện hành nghề của luật sư
là: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật,
có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã
qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề Luật sư thì
2
3
Phan Trung Hoài (2016), tlđd (1), tr. 87.
Điều 2 Luật luật sư năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012.
10
có thể trở thành luật sư; người có đủ tiêu chuẩn nói trên muốn được hành nghề luật
sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn Luật sư4.
Người đại diện của người bị buộc tội: Đây là người đại diện theo pháp luật
của cá nhân. Thông thường, người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội là những
người ruột thịt, thân thích của người bị buộc tội như: bố, mẹ, anh, chị, em ruột, vợ,
chồng,… của người bị buộc tội5.
Bào chữa viên nhân dân: Là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung
thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo
đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là
thành viên của tổ chức mình6.
Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng
được trợ giúp pháp lý: Người được trợ giúp pháp lý gồm: Người có công với cách
mạng; Người thuộc hộ nghèo; trẻ em; Người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều
kiện kinh tế -xã hội đặc biệt khó khăn; Người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi; Người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; Người thuộc một trong các trường hợp
sau đây có khó khăn về tài chính: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người
có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; Người nhiễm chất độc da cam; Người cao
tuổi; Người khuyết tật; Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong VAHS;
Nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; Nạn nhân của hành vi mua bán người theo
quy định của Luật Phòng chống mua bán người; Người nhiễm HIV7.
So sánh với Điều 56 Bộ luật TTHS năm 2003, Điều 72 Bộ luật TTHS năm
2015 có phạm vi NBC được mở rộng hơn. Ngoài các đối tượng được quy định tại
khoản 1 Điều 56 Bộ luật TTHS năm 2003 là luật sư; người đại diện hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì khoản 2 Điều 72 Bộ luật TTHS năm 2015 còn
quy định thêm các đối tượng là người đại diện của người bị bắt (khái niệm người bị
buộc tội bao gồm cả người bị bắt) và trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người
bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.
Về quyền của NBC được gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị
tạm giam. Trước đây, Bộ luật TTHS năm 2003 chưa quy định quyền của NBC được
Điều 10, Điều 11 Luật luật sư năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012.
Phạm Thanh Bình, Nguyễn Mai Bộ, Lê Văn Thư, Nguyễn Ngọc Hà, Trần Văn Luyện, Phạm Thị Thu, Đỗ
Thị Phượng, Nguyễn Cao Hùng (2018), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nhà xuất bản Công
an nhân dân, tr. 159.
6
Khoản 3 Điều 72 Bộ luật TTHS 2015.
7
Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý 2017.
4
5
11
gặp người bị bắt mà chỉ quy định được gặp người bị tạm giữ, bị can theo một trình
tự gặp duy nhất là NBC có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ và khi hỏi cung
bị can (điểm a khoản 2 Điều 58). Nay Bộ luật TTHS năm 2015 cho phép NBC được
gặp mặt người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can theo hai trình tự sau đây:
Một là, NBC được chủ động gặp mặt người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can theo
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 73 Bộ luật TTHS năm 2015: “NBC có quyền gặp,
hỏi người bị buộc tội”. Đây là cuộc gặp do NBC hoàn toàn chủ động tiến hành trong
bất cứ giai đoạn tố tụng nào và không hạn chế số lần, thời gian gặp. Để cụ thể hóa quy
định này, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể như:
Thông tư số 46/2019/TT-BCA ngày 10/10/2019 của Bộ Công an về quy định trách
nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật
TTHS năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định
truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương
sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLTBCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23/01/2018 về quan hệ phối hợp giữa cơ sở
giam giữ với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và Viện kiểm sát có thẩm quyền
kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam. Tuy nhiên, hiện nay đang có sự mâu
thuẫn giữa các quy định của Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT-BCA-BQPTANDTC-VKSNDTC với Thông tư số 46/2019/TT-BCA, Bộ luật TTHS năm 2015,
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015. Cụ thể là theo quy định của Thông tư số
46/2019/TT-BCA thì việc gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam của NBC được
thực hiện trong giờ làm việc của cơ sở giam giữ. CQĐT, cơ sở giam giữ không được
hạn chế số lần và thời gian trên một lần gặp của NBC với người bị tạm giữ, bị can đang
bị tạm giam8. Bộ luật TTHS năm 2015 và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015
cũng quy định để gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, NBC chỉ xuất
trình văn bản thông báo NBC, giấy tờ tùy thân như Thẻ luật sư hoặc Thẻ trợ giúp viên
pháp lý hoặc Chứng minh nhân dân hoặc Thẻ căn cước công dân. Thế nhưng, tại
Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC lại quy định
thêm trường hợp cần phải giám sát cuộc gặp thì Thủ trưởng, người có thẩm quyền của
cơ quan đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát (khoản 3 Điều
10). Đây là quy định “vượt rào”, tạo kẽ hở cho ĐTV và cán bộ có thẩm quyền của cơ
sở giam giữ gây khó, cản trở NBC được chủ động gặp người bị tạm giữ, tạm giam. Bởi
8
Khoản 3 Điều 12 Thông tư số 46/2019/TT-BCA.
12
khi NBC chủ động đến liên hệ xin gặp người bị tạm giữ, tạm giam sẽ bị giám thị trại
giam từ chối do thuộc trường hợp cần có ý kiến của CQĐT và cuộc gặp phải được
giám sát của người có thẩm quyền. Trong khi đó, Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLTBCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC không có quy định giải thích trường hợp nào cần
phải giám sát.
Hai là, NBC được gặp mặt người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can trong hoạt
động lấy lời khai, hỏi cung, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động
điều tra khác theo quy định tại điểm b, c khoản 1 Điều 73 Bộ luật TTHS năm 2015.
NBC thực hiện quyền gặp thứ hai này phải theo kế hoạch điều tra đã được cơ quan
và người có thẩm quyền THTT chuẩn bị trước nhằm lấy lời khai, hỏi cung đối với
người bị bắt, bị tạm giữ, bị can với sự có mặt của NBC.
1.1.2.2. Về thời điểm và trình tự, thủ tục để người bào chữa được gặp người
bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam
Về thời điểm để người bào chữa được gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can đang bị tạm giam
Nhiệm vụ và mục đích NBC tham gia tố tụng là nhằm làm sáng tỏ các tình
tiết của vụ án, nhằm chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Và khi NBC thực hiện được quyền gặp mặt
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam không những để đảm bảo
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ mà còn giúp cho người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can được củng cố về mặt tinh thần, được an tâm về mặt pháp lý.
Hiện nay, Bộ luật TTHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa
quy định thời điểm cụ thể để NBC được gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can
đang bị tạm giam. Thế nên dựa vào các quy định hiện hành, có thể thấy NBC chỉ
được gặp sau khi đã hoàn thành các thủ tục đăng ký bào chữa và tuân theo quy định
về thời điểm NBC tham gia tố tụng tại Điều 74 Bộ luật TTHS năm 2015. Theo đó,
có thể chia thành các trường hợp như sau:
Trường hợp thông thường: NBC tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi
tố bị can. Khi đó, NBC sẽ được gặp, tiếp xúc bị can đang bị tạm giam sau khi có
quyết định khởi tố bị can.
Trường hợp bắt, tạm giữ người: NBC tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có
mặt tại trụ sở của CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Khi đó, NBC được gặp, tiếp xúc với
người bị bắt, người bị tạm giữ trước khi có quyết định khởi tố bị can.
13
Trường hợp đặc biệt: Khi cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm
an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để NBC
tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Khi đó, NBC được gặp, tiếp xúc với bị can
khi đã kết thúc điều tra.
Tuy nhiên, hiện nay quy định này vẫn mang tính hình thức, chưa được áp
dụng vào thực tiễn hoạt động tố tụng của NBC. Bởi lẽ, trên thực tế NBC chủ yếu
được gặp bị can đang bị tạm giam tại cơ sở giam giữ sau khi đã có quyết định khởi
tố bị can, NBC không thể gặp mặt người bị bắt, bị tạm giữ khi họ có mặt tại trụ sở
CQĐT hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.
Về trình tự, thủ tục để người bào chữa được gặp người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can đang bị tạm giam
Để gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam, NBC phải
xuất trình văn bản thông báo NBC, Thẻ luật sư hoặc Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc
Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân9. Đây là một trong các quyền
của NBC mới được quy định trong Bộ luật TTHS năm 2015. Và để cụ thể hóa quy
định mới này, các cơ quan chức năng đã ban hành văn bản hướng dẫn như sau:
Một là, trường hợp NBC gặp người bị bắt: Khi NBC đề nghị gặp người bị bắt
và đã xuất trình văn bản thông báo NBC và Thẻ luật sư, Chứng minh nhân dân hoặc
thẻ Căn cước công dân thì cơ quan đang thụ lý vụ án phải bố trí để NBC gặp người
bị bắt tại trụ sở của mình, phổ biến cho NBC biết quy định của trụ sở CQĐT và yêu
cầu NBC chấp hành nghiêm chỉnh10.
Hai là, trường hợp NBC gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam: Khi nhận
được văn bản thông báo NBC cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam của cơ quan
đang thụ lý vụ án thì cơ sở giam giữ tổ chức cho NBC được gặp người bị tạm giữ,
người bị tạm giam theo quy định của pháp luật.
Trường hợp cần phải giám sát cuộc gặp thì Thủ trưởng, người có thẩm quyền
của cơ quan đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát. Nếu
người bị tạm giữ, người bị tạm giam, NBC có hành vi vi phạm nội quy cơ sở giam
giữ hoặc cản trở việc giải quyết vụ án thì người có thẩm quyền giám sát phải dừng
ngay cuộc gặp và lập biên bản, báo cáo với Thủ trưởng cơ sở giam giữ và thông báo
bằng văn bản cho cơ quan đang thụ lý vụ án biết để xử lý11.
Khoản 1 Điều 80 Bộ luật TTHS 2015.
Khoản 1 Điều 12 Thông tư số 46/2019/TT-BCA.
11
Điều 10 Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC.
9
10
14
Tuy nhiên, để NBC được gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị
tạm giam thì trước hết NBC phải được người bị buộc tội, người đại diện hoặc người
thân thích của họ mời bào chữa hoặc theo chỉ định NBC của cơ quan có thẩm quyền
THTT. Sau đó, NBC phải thực hiện thủ tục đăng ký bào chữa để được tham gia tố
tụng trong VAHS.
So với Bộ luật TTHS năm 2003, NBC khi tham gia tố tụng không cần phải
xin cấp giấy chứng nhận NBC, mà chỉ đăng ký bào chữa theo quy định tại Điều 78
Bộ luật TTHS năm 2015. Hồ sơ đăng ký bào chữa như sau:
Đối với NBC là Luật sư: Thẻ luật sư; bản sao Thẻ luật sư có chứng thực và
giấy yêu cầu luật sư của người bị buộc tội hoặc của người đại diện, người thân thích
của người bị buộc tội; Đối với các trường hợp chỉ định NBC là luật sư thì phải bổ
sung: Văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư hành nghề hoặc
văn bản phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề là cá nhân.
Đối với NBC là Bào chữa viên nhân dân: Chứng minh nhân dân hoặc thẻ
Căn cước công dân; bản sao Chứng minh nhân dân hoặc bản sao thẻ Căn cước công
dân có chứng thực và văn bản cử bào chữa viên nhân dân của Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Đối với NBC là trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý: văn
bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý; Thẻ
trợ giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư và bản sao Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc
Thẻ luật sư có chứng thực.
Về thời hạn để cơ quan THTT xem xét đăng ký bào chữa: Nếu như khoản 4
Điều 56 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định thời hạn để cơ quan THTT xem xét, cấp
giấy chứng nhận NBC là 03 ngày thì nay Điều luật quy định rõ thời hạn để cơ quan
có thẩm quyền tố tụng xem xét đăng ký NBC chỉ còn 01 ngày (24 giờ).
Ngoài ra, Bộ Luật TTHS năm 2015 cũng xóa bỏ việc NBC phải thực hiện thủ
tục xin cấp giấy chứng nhận NBC riêng cho từng giai đoạn tố tụng gây nên sự tốn
kém về thời gian, công sức cho cả NBC và cơ quan THTT và thay thế bằng quy định:
“Văn bản thông báo NBC có giá trị trong suốt quá trình tham gia tố tụng”. Như vậy,
NBC chỉ cần thực hiện thủ tục đăng ký một lần trong suốt quá trình tham gia tố tụng
(điều tra, truy tố và xét xử), trừ trường hợp bị người bị buộc tội hoặc người đại diện
hoặc người thân thích của người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi NBC; bị cơ
quan có thẩm quyền THTT hủy bỏ việc đăng ký bào chữa khi phát hiện NBC vi phạm
pháp luật khi tiến hành bào chữa hoặc thuộc đối tượng không được bào chữa.
- Xem thêm -