Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở việt nam...

Tài liệu Quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở việt nam

.PDF
120
11
119

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT Đỗ Thị Hường QUYỀN CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT Đỗ Thị Hường QUYỀN CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước - pháp luật Mã số: 60.38.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS,TS Hoàng Thị Kim Quế Hà Nội - 2011 Contents PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 3 CHƯƠNG 1....................................................................................................... 9 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI ................................................. 9 VÀ VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO ............. 9 1.1.Cơ sở lý luận về QCN ...................................................................... 9 1.1.1. Khái niệm QCN ........................................................................ 9 1.1.2. Những điều kiện bảo đảm thực hiện QCN ............................ 12 1.1.3. Mối quan hệ giữa xây dựng Nhà nước pháp quyền và bảo đảm QCN ................................................................................................................. 24 1.2. Cơ sở lý luận của việc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo ................ 28 1.2.1. Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo ............................................ 28 TTHS là một quá trình bao gồm một loạt các hoạt động được sắp xếp theo một trình tự nhất định, có quan hệ chặt chẽ với nhau, đó là: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Có thể nói, bị can, bị cáo luôn là trung tâm trong số những người tham gia TTHS, bởi vì hầu như mọi hoạt động tố tụng đều hướng tới việc làm rõ các vấn đề liên quan đến việc phạm tội hay không phạm tội của họ. ......................................................... 28 1.2.2. QBC của bị can, bị cáo ........................................................... 31 A) Tự MÌNH BÀO CHữA ............................................................................. 34 1.2.3. Vai trò của Luật sƣ trong việc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo ................................................................................................................. 39 1 CHƯƠNG 2..................................................................................................... 41 THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO Ở VIỆT NAM ........................ 41 2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển về QBC của bị can, bị cáo ở Việt Nam ............................................................................................. 41 2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954 ................................. 41 2.1.2. Giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1985 ................................. 43 2.1.3. Giai đoạn từ 1986 đến nay ................................................... 46 2.2. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về bảo đảm QBC của bị can, bị cáo .......................................................................................... 55 Vụ án 3: Vụ PMU 18 - Công tố và luật sƣ tranh luận căng thẳng [26] 63 2.3. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế trong việc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo. .................................................................. 69 2.3.1. Hạn chế, bất cập ................................................................... 69 2.3.2. Nguyên nhân ........................................................................ 82 2.4. Ý nghĩa của việc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo .......................... 87 CHƯƠNG 3..................................................................................................... 89 MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH ........ 89 CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA ........................ 89 CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO Ở VIỆT NAM ............................................................ 89 3.1. Phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo đảm QBC của bị can, bị cáo. ................................................................................. 89 2 3.2. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo đảm QBC của bị can, bị cáo ................................................... 91 3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật TTHS về bảo đảm QBC của bị can, bị cáo .............................................................................. 91 3.2.2. Cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp. ............................................................................................ 101 3.2.3. Kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật về QBC của bị can, bị cáo. ............................................................................................................... 108 3.2.4. Tăng cường tuyền truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về QBC của người bị can, bị cáo .................................................................. 110 KẾT LUẬN .................................................................................................... 112 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 114 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con ngƣời (QCN) là một trong những vấn đề cơ bản nhất của nhận thức và thực tiễn chính trị, vì vậy, nó gắn với các thời đại lịch sử cụ thể và nó bị chế định bởi lịch sử, bởi các điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia và quốc tế. Các Học thuyết chính trị - pháp lý về QCN là hệ thống các quan điểm chính trị - triết học và pháp lý về QCN thể hiện cô đọng trong các trƣờng phái triết học, trong các văn bản pháp lý nhƣ các bản Tuyên ngôn, Hiến pháp, các đạo luật tồn tại ở các thời kỳ lịch sử khác nhau. Sự phát triển 3 của tƣ tƣởng về QCN gắn liền với tiến trình phát triển, vận động của các quan điểm chính trị - triết học và pháp lý qua từng thời đại lịch sử khác nhau. Ngay sau khi nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, dù có biết bao nhiệm vụ khó khăn cần giải quyết nhƣng chính quyền dân chủ nhân dân rất quan tâm đến nhiệm vụ bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân, trong đó có quyền bào chữa (QBC) trƣớc tòa. Ngày 10/10/1945, Nhà nƣớc ban hành sắc lệnh quy định các tổ chức đoàn thể luật sƣ và từ đó đến nay các quy định của pháp luật về bảo đảm QBC của bị can, bị cáo đƣợc bổ sung ngày càng đầy đủ hơn. Bảo đảm QBC của bị can, bị cáo luôn đƣợc coi là nguyên tắc hiến định, đƣợc thể hiện trong tất cả các bản Hiến pháp của nƣớc ta. Đồng thời đƣợc coi là nguyên tắc đặc thù của Luật Tố tụng hình sự (TTHS). Điều 12, Bộ luật TTHS năm 1988 - Bộ luật TTHS đầu tiên của nƣớc ta quy định: “Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ ngƣời khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện QBC của họ” QBC trong Luật TTHS năm 2003 đƣợc mở rộng cả đối tƣợng và phạm vi các quyền, ngƣời bị tạm giữ cũng đƣợc bảo đảm QBC. Cùng với sự phát triển của pháp luật TTHS, QBC ngày càng đƣợc tôn trọng và mở rộng hơn, đồng thời có những cơ chế bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền này. Điều đó thể hiện bản chất dân chủ của pháp luật nƣớc ta. QBC của bị can, bị cáo không chỉ là mối quan tâm của riêng bị can, bị cáo hay gia đình họ và những ngƣời làm công tác bảo vệ pháp luật mà nó còn là sự quan tâm của Đảng, Nhà nƣớc và toàn xã hội. Chính vì lẽ đó, ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết chỉ ra những quan điểm chỉ đạo nhƣ “bảo đảm tranh tụng với Luật sƣ, ngƣời bào chữa và những ngƣời tham gia tố tụng khác ...”. Tiếp đó, trong chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020, Nghị quyết 59/NQ-TW đã chỉ rõ “... xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của ngƣời tiến hành tố tụng theo hƣớng đảm bảo 4 tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lƣợng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tƣ pháp”. Điều đó cũng phù hợp với chiến lƣợc phát triển đất nƣớc mà Đại hội Đảng X, XI đã chỉ ra rằng: “... xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN (XHCN) của dân, do dân, vì dân ...” Trong thực tiễn qua cho thấy, mặc dù pháp luật TTHS đã quy định tƣơng đối đầy đủ và khá chặt chẽ, nhƣng trong các vụ án hình sự QBC của bị can, bị cáo vẫn chƣa đƣợc các cơ quan tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng thực sự tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Tình trạng vi phạm các quyền tố tụng của bị can, bị cáo vẫn còn diễn ra. Một số ngƣời tiến hành tố tụng còn chƣa nhận thức đƣợc việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và minh oan cho ngƣời vô tội cũng nhƣ xử lý nghiêm minh đối với ngƣời phạm tội. Ở giai đoạn điều tra, nhiều điều tra viên cho rằng ngƣời bị tạm giữ không cần mời luật sƣ vì chƣa cần thiết. Trong quá trình tố tụng thƣờng chú ý đến việc không bỏ lọt tội phạm hơn là việc không làm oan ngƣời vô tội và coi việc tham gia tố tụng của ngƣời bào chữa chỉ là để cho đủ thủ tục mà thôi. Điều đó đã ảnh hƣởng không nhỏ đến việc bảo vệ QBC của bị can, bị cáo, dẫn đến tình trạng oan sai trong tố tụng. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài về QBC của bị can, bị cáo ở Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế tối đa tình trạng oan sai. Với nhận thức trên, tác giả chọn đề tài Quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở Việt Nam làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề bảo đảm QBC của bị can, bị cáo trong công cuộc cải cách tƣ pháp ở Việt Nam nói chung và trong hoạt động TTHS nói riêng đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của toàn ngành tƣ pháp và cả xã hội. Đặc biệt là kể từ 5 khi có Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị ban hành xác định: bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác; cũng nhƣ nội dung trong Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị nhấn mạnh: nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp, thì nội dung về ngƣời bào chữa và QBC lại càng đƣợc quan tâm nghiên cứu. Điển hình là: Luật sƣ, PGS.TS Phạm Hồng Hải với cuốn sách: Đảm bảo QBC của người bị buộc tội; TS. Trần Quang Tiệp với cuốn sách Về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS. Các tác giả làm luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ liên quan đến ngƣời bào chữa và vấn đề bảo đảm QBC của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhƣ: tác giả Hoàng Thị Sơn với đề tài: Thực hiện QBC của bị can, bị cáo trong TTHS; tác giả Nguyễn Thu Thủy với đề tài: Vai trò của Luật sư trong việc bảo vệ QCN trong TTHS Việt Nam; tác giả Nguyễn Thị Vân Hằng với đề tài: Vai trò của Luật sư góp phần bảo đảm dân chủ trong hoạt động TTHS ở Việt Nam hiện nay; tác giả Nguyễn Phạm Duy Trang với đề tài: Sự tham gia của người bào chữa trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố vụ án hình sự; tác giả Giang Thanh Hải với đề tài: Hoạt động chứng minh của người bào chữa trong vụ án hình sự; tác giả Nguyễn Tiến Đạt với đề tài: Bảo đảm quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam; tác giả Trần Văn Bảy với đề tài: Người bào chữa trong TTHS Việt Nam; tác giả Huỳnh Thị Trúc Linh với đề tài: Chức năng bào chữa trong TTHS Việt Nam; tác giả Võ Văn Hòa với đề tài: Chức năng buộc tội và bào chữa trong TTHS Việt Nam. Ngoài ra còn rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành nhƣ Tạp chí Toà án nhân dân; Tạp chí Kiểm sát; Tạp chí dân chủ và pháp luật; Tạp chí Luật học; Tạp chí Nghề luật; Báo pháp luật... 6 Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu ở trên chủ yếu đƣợc các tác giả thực hiện khi bộ luật TTHS năm 2003 chƣa đƣợc ban hành, thực tiễn cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế và vƣớng mắc trong việc thực hiện QBC của bị can, bị cáo. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề này vẫn còn rất cần thiết để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về QBC của bị can, bị cáo góp phần đảm bảo xét xử đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Trong khuôn khổ luận văn cao học, học viên giới hạn sự nghiên cứu của mình về các vấn đề sau: - Khái niệm, các đảm bảo thực hiện QCN - Vai trò của ngƣời bào chữa trong việc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo - Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của chế định bảo đảm QBC của bị can, bị cáo trong hệ thống pháp luật từ sau 1945 đến nay. - Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về bảo đảm QBC ở Việt Nam trong những năm gần đây, đặc biệt là khi nhà nƣớc ta ban hành năm 2003. - Những hạn chế, bất cập; nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong việc bảo đảm QBC cho bị can, bị cáo. - Ý nghĩa của việc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo - Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo đảm QBC của bị can, bị cáo. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở vận dụng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta về nhà nƣớc và pháp luật, về QCN, về QBC, về mối quan hệ giữa nhà nƣớc và cá nhân...với tƣ cách là những căn cứ lý luận để giải quyết các vấn đề do đề tài đặt ra. 7 Luận văn đặc biệt coi trọng quan điểm duy vật biến chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu QCN; sử dụng phƣơng pháp phân tích, tổng hợp trên lập trƣờng duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để đánh giá thực trạng về vấn đề đảm bảo QBC của bị can, bị cáo; kết hợp phƣơng pháp hệ thống với phƣơng pháp logic lịch sử, phƣơng pháp so sánh nhằm phân tích luận chứng một cách khoa học khi xác định các giải pháp bảo đảm thực hiện QBC của bị, bị cáo ở Việt Nam. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Về mặt lý luận: đề tài nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng về bảo đảm QBC của bị can, bị cáo trong TTHS; từ đó đề xuất phƣơng hƣớng và các giải pháp để sửa đổi, bổ sung, hƣớng dẫn chi tiết các quy định của pháp luật về bảo đảm QBC, nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trên thực tế. Với kết quả nghiên cứu nhƣ vậy, đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về QBC và bảo đảm QBC của bị can, bị cáo. - Về mặt thực tiễn: Kết qủa nghiên cứu của đề tài góp phần đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật về bảo đảm QBC của bị can, bị cáo; qua đó khắc phục đƣợc những thiếu sót, bất cập trong hoạt động này. Các đề xuất, kiến nghị trong đề tài có thể đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu, hƣớng dẫn, sửa đổi, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến vấn đề này. 6. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm phần mở đầu, 03 chƣơng và kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo Chương 1: Cơ sở lý luận về QCN và việc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về bảo đảm QBC của bị can, bị cáo ở Việt Nam Chương 3: Một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo đảm QBC của bị can, bị cáo ở Việt Nam 8 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƢỜI VÀ VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO 1.1.Cơ sở lý luận về QCN 1.1.1. Khái niệm QCN Con ngƣời là vấn đề cơ bản nhất của mọi thời đại, cho nên QCN luôn trở thành nội dung thu hút đƣợc sự quan tâm cả về phƣơng diện lý luận cũng nhƣ trong hoạt động thực tiễn của mỗi quốc gia, của từng khu vực và mang tính toàn cầu. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về QCN. Tuy nhiên, QCN có thể đƣợc hiểu là đặc quyền vốn có của từng cá nhân nhằm bảo vệ nhân phẩm 9 và nâng cao giá trị của họ với tƣ cách là con ngƣời. Không có nó, các cá nhân không thực sự là con ngƣời. Đó là các giá trị cơ bản mà thông qua đó, chúng ta khẳng định rằng chúng ta là một cộng đồng nhân loại duy nhất. Đó là các nhu cầu và quyền lợi của con ngƣời đƣợc thừa nhận và bảo đảm bởi pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. QCN có những đặc điểm cơ bản là: Thứ nhất, QCN vừa phản ánh các nhu cầu tự nhiên, khách quan, vừa thể hiện các quan hệ xã hội, ý chí chủ quan của từng con ngƣời và của xã hội. Nó là những đặc quyền của con ngƣời đã đƣợc pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia ghi nhận, điều chỉnh, do chính cá nhân con ngƣời nắm giữ trong mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội, với nhà nƣớc và với những cá nhân con ngƣời khác. Thứ hai, QCN là khái niệm thể hiện xu hƣớng, yêu cầu, quan niệm đƣợc xác định với những nội dung cụ thể. Thứ ba, QCN vừa là giá trị chung, phổ biến, vừa mang tính riêng biệt, đặc thù, vừa có tính nhân loại, vừa có tính giai cấp. Tuy nhiên, quan niệm QCN trên thực tế đƣợc lý giải bởi những quan điểm khác nhau, tuỳ thuộc vào lợi ích và ý chí giai cấp. Thứ tư, QCN vừa bao hàm quyền của từng cá nhân con ngƣời, thể hiện lợi ích cá thể, tự do cá nhân, vừa thể hiện lợi ích của nhóm, của cộng đồng, của quốc gia dân tộc. Thứ năm, QCN phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, truyền thống văn hoá, đạo đức của các quốc gia. Thứ sáu, QCN và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời, Với chức năng là công cụ, phƣơng tiện pháp luật ghi nhận và bảo đảm việc thực hiện các QCN. QCN là giá trị thắng lợi chung của nhân loại, nhƣng do điều kiện kinh tế chính trị - xã hội ở các châu lục, các khu vực, các quốc gia phát triển không giống nhau nên ở các quốc gia khác nhau thì năng lực và nhu cầu của mỗi thành viên xã hội sẽ không giống nhau mà phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - 10 chính trị - xã hội nhất định mà thành viên đó sinh sống. Vì vậy, ở các quốc gia, QCN đƣợc thể hiện thành quyền công dân và đƣợc đảm bảo thực hiện bởi hệ thống pháp luật quốc gia đó. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề này, khoa học pháp lý đã chia QCN theo các lĩnh vực hoạt động của đời sống con ngƣời thành các nhóm: - Nhóm quyền tự do dân chủ về chính trị, bao gồm: quyền bầu cử, ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hôị; quyền bình đẳng nam nữ; quyền tự do ngôn luận; tự do báo chí; quyền đƣợc thông tin; quyền tự do tín nhƣỡng. - Nhóm quyền về dân sự (quyền tự do cá nhân), bao gồm: quyền tự do đi lại và cƣ trú trong nƣớc; quyền ra nƣớc ngoài và từ nƣớc ngoài về nƣớc; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền đƣợc pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền đƣợc an toàn và bí mật thƣ tín, điện thoại, điện báo, quyền khiếu nại, tố cáo…. - Nhóm các quyền về kinh tế - xã hội, bao gồm: quyền lao động; quyền tự do kinh doanh; quyền sở hữu hợp pháp và thừa kế; quyền học tập; quyền nghiên cứu, phát minh, sáng chế; quyền đƣợc bảo vệ sức khoẻ; quyền đƣợc bảo vệ hôn nhân và gia đình; quyền trẻ em; quyền ngƣời già… Thế giới hiện đại với sự thay đổi thƣờng xuyên và nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội, cho nên QCN đƣợc phát triển phong phú hơn cả về nội dung lẫn hình thức. Cho nên, trong quá trình phát triển của nhân loại một số QCN mới đƣợc xuất hiện nhƣ: - Quyền phát triển: Quyền phát triển đƣợc Uỷ ban nhân quyền Liên Hợp quốc chuẩn bị từ năm 1981, đƣợc thông qua tại kỳ họp thứ 41 của Đại Hội đồng Liên hợp quốc ngày 4/12/1986 dƣới hình thức Tuyên ngôn toàn cầu về phát triển. Đó là quyền của các quốc gia, dân tộc với chủ quyền trên lãnh thổ của mình nhƣ: quyền tự do lựa chọn các thể chế chính trị, kinh tế, quyền đƣợc trợ giúp về kỹ thuật và tài chính từ các tổ chức quốc tế và các quốc gia 11 khác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Quyền phát triển là sự hiện thực hoá QCN ở thế hệ thứ ba, khi mà nhiều quốc gia từng ghánh chịu các hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh và đang gặp phải những khó khăn trầm trọng về kinh tế nhƣ đói nghèo, dốt nát, bệnh tật… vì vậy, họ có quyền đƣợc giúp đỡ về kinh tế, tài chính từ các quốc gia tổ chức khác. - Quyền đƣợc sống hoà bình và môi trƣờng trong sạch Ngày nay, nhân loại đang đứng trƣớc nhiều hiểm hoạ mang tính toàn cầu nhƣ hiểm hoạ chiến tranh hạt nhân, nạn khủng bố mang tính quốc tế, khủng hoảng nghiêm trọng về lƣơng thực, thực phẩm, những cuộc xung đột tôn giáo, chủng tộc, căn bệnh AIDS đến nay chƣa có phƣơng cứu chữa thực sự hiệu quả…Thực trạng đó đã và đang đe doạ đến sự tồn tại và phát triển của loài ngƣời. Do đó, yêu cầu về quyền đƣợc sống trong một thế giới hoà bình, bền vững đang là vấn đề cấp bách thật sự của các quốc gia, khu vực và cộng đồng trên thế giới. Chính vì thế, pháp luật quốc tế ngày càng quan tâm đến các vấn đề liên quan đến cuộc sống trong hoà bình của con ngƣời nhƣ là vấn đề loại trừ vũ khí hạt nhân, ngăn chặn khủng bố, ngăn chặn các cuộc xung đột, thành lập toà án quốc tế để xét xử tội diệt chủng, tội phạm chiến tranh và đến ngày 1/7/2002, Liên hợp quốc đã thành lập Toà án hình sự quốc tế hoạt động một cách thƣờng xuyên, độc lập với liên hợp quốc. Bên cạnh đó, do sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, loài ngƣời đang đứng trƣớc nguy cơ suy thoái và ô nhiễm ngày càng nặng nề. 1.1.2. Những điều kiện bảo đảm thực hiện QCN Bảo đảm thực hiện QCN là kết quả tổng hợp của các nhân tố chính trị, kinh tế, văn hoá giáo dục và pháp luật. Những nhân tố này đƣợc xem xét với tƣ cách là những điều kiện, tiền đề cần thiết đảm bảo thực hiện QCN. - Về mặt chính trị, con ngƣời sống trong mỗi quốc gia, dân tộc vì thế QCN chỉ đƣợc đảm bảo thực hiện khi dân tộc đó đƣợc sống trong độc lập, tự 12 do, không bị áp bức nô dịch, có chế độ chính trị xã hội tiến bộ, dân chủ và ổn định. Một đất nƣớc, một dân tộc còn bị nô dịch, nhân dân bị áp bức bóc lột thì không thể có tự do, dân chủ, không thể nói đến việc thực hiện nhân quyền. Và ở đâu còn áp bức, bất công thì ở đó QCN còn bị chà đạp. Ngay thời điểm hiện nay, mặc dù QCN đã đƣợc long trọng tuyên bố và cụ thể hoá trong nhiều văn kiện quan trọng của Liên hợp quốc, nhƣng ở nhiều nơi trên thế giới QCN vẫn bị vi phạm nghiêm trọng. Thế giới vẫn còn các thế lực tham vọng trở thành ngƣời điều khiển “trật tự thế giới”, thực chất là duy trì chính sách áp bức, bóc lột đối với các dân tộc khác dƣới hình thức và thủ đoạn mới. Làm sao có đƣợc QCN khi hàng trăm triệu ngƣời ở Châu Phi và các nƣớc chậm phát triển lâm vào cảnh đói nghèo, bệnh tật, trong lúc tài nguyên và sức lao động của họ đang làm đầy thêm lợi nhuận cho các công ty tƣ bản độc quyền. Và cũng vì lợi nhuận còn biết bao kẻ tham lam không đếm xỉa đến môi trƣờng sống, môi trƣờng sinh thái, huỷ hoại môi trƣờng chung của loài ngƣời. Nhƣ vậy, điều kiện quan trọng nhất để bảo đảm thực hiện QCN ở mỗi quốc gia cũng nhƣ trên phạm vi toàn cầu là các quốc gia, dân tộc phải đuợc sống trong hoà bình, độc lập, tự do, giữ vững ổn định chính trị đất nƣớc; đồng thời phải đấu tranh cho các dân tộc đƣợc sống trong thế giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác, công bằng, văn minh. Đó cũng chính là xu thế tất yếu của thời đại, là đòi hỏi khách quan của nhân loại tiến bộ. Độc lập, tự do, sự ổn định và phát triển của đất nƣớc cũng nhƣ QCN có đƣợc đảm bảo hay không phụ thuộc vào chế độ chính trị - xã hội mà nhân dân mỗi nƣớc lựa chọn. Bằng nhận thức và kinh nghiệm lịch sử, nhân dân ta đã tin tƣởng rằng chỉ có chế độ XHCN mới đảm bảo chắc chắn nhất, đầy đủ nhất cho việc thực hiện QCN. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị - xã hội với các thiết chế chính trị để đảm bảo thực hiện QCN. QCN muốn đƣợc tôn trọng và bảo đảm 13 thực hiện đòi hỏi phải có nền dân chủ thực sự. Một xã hội mà mọi công dân là chủ nhân, có quyền tham gia công việc của nhà nƣớc và xã hội, thiết chế chính trị đều nhằm phục vụ tự do, hạnh phúc của con ngƣời mới thực sự là xã hội tôn trọng và đảm bảo thực hiện QCN. Muốn có xã hội nhƣ thế thì phải có hệ thống chính trị dân chủ, nghĩa là các tổ chức chính trị trong xã hội ấy phải xây dựng và thực hiện đƣờng lối chính trị phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. Chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) mới hội đủ các yêu tố cần thiết để xây dựng hệ thống chính trị - xã hội và các thiết chế dân chủ ấy. Trong hệ thống chính trị - xã hội XHCN, Đảng cộng sản là hạt nhân lãnh đạo. Nếu Đảng cộng sản thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, lấy chủ nghĩa Mác –Lênin làm nền tảng tƣ tƣởng và kim chỉ nam cho hành động, không ngừng đƣợc chỉnh đốn và đổi mới – thì đó là yếu tố quyết định trong việc xây dựng hệ thống chính trị dân chủ, đảm bảo thực hiện QCN. Bởi vì mục tiêu và ý tƣởng của một đảng Mác –xít, của những ngƣời cộng sản không có gì khác là tổ chức và lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới XHCN tất cả vì con ngƣời, cho con ngƣời. - Nhà nước cũng là yếu tố quan trọng trong hệ thống chính trị XHCN cần phải đƣợc hoàn thiện với tƣ cách là điều kiện đảm bảo thực hiện QCN. Trong các chủ thể thực hiện QCN Nhà nƣớc có vị trí đặc biệt quan trọng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền mọi đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng đƣợc cụ thể hoá và tổ chức thực hiện thông qua Nhà nƣớc; Nhà nƣớc trực tiếp tổ chức quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng pháp luật – công cụ sắc bén mà không tổ chức xã hội nào có đƣợc. Mặt khác, hoạt động của bộ máy nhà nƣớc, nhất là hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nƣớc lại diễn ra liên tục, rộng khắp, trực tiếp hàng ngày với nhân dân; hoạt động của cơ quan tƣ pháp trực tiếp đụng chạm đến quyền tự do của nhân dân. Nhƣ vậy, hoạt động của bộ máy nhà nƣớc vừa trực tiếp vừa hết sức nhạy cảm đối với việc 14 thực hiện, bảo vệ QCN. Thực tiễn cho thấy không thể có ngay một bộ máy nhà nƣớc với cơ chế hoạt động hoàn hảo. Hoàn thiện tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nƣớc là một quá trình thƣờng xuyên, liên tục, là yêu cầu khách quan trong việc thực hiện, bảo vệ QCN. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Nhà nƣớc nhằm đảm bảo cho nó có khả năng và bắt buộc nó phải tôn trọng, thực hiện và bảo vệ QCN. Loại trừ đƣợc sự tuỳ tiện, lạm quyền trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Chúng ta từng chú trọng xây dựng nhà nƣớc trở thành công cụ sắc bén bảo vệ thành quả cách mạng, nhấn mạnh bản chất dân chủ của nhà nƣớc ta, nhƣng chƣa nhận thức đầy đủ Nhà nƣớc là cơ quan công quyền, thống trị xã hội bằng pháp luật, phục vụ kịp thời nhu cầu lợi ích chính đáng của nhân dân, có trách nhiệm với nhân dân và đòi hỏi nghĩa vụ ở dân. Phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nƣớc Việt Nam thực sự của dân, do dân, vì dân, tuân thủ pháp luật và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm thực hiện và bảo vệ QCN, quyền công dân. Hệ thống chính trị xã hội ở nƣớc ta còn bao gồm các đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội. Hoàn thiện các đoàn thể, tổ chức này cũng tạo điều kiện đảm bảo thực hiện QCN ngày càng tốt hơn. Dƣới chế độ ta, nhân dân làm chủ thông qua nhà nƣớc và thông qua các tổ chức xã hội. Thông qua các tổ chức này nhân dân tham gia xây dựng nhà nƣớc, quản lý nhà nƣớc, thực hiện và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các tổ chức quần chúng ngoài việc thực hiện chức năng của một tổ chức chính trị - xã hội, còn có trách nhiệm kiến nghị với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là thành viên của mình, đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích đó khi chúng bị xâm hại. Hoạt động của các tổ chức xã hội có vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nƣớc xã hội, là cơ sở chính trị của Nhà nƣớc, là nguồn gốc sức mạnh và hiệu lực quản lý của Nhà nƣớc. Mặt khác, các tổ chức 15 quần chúng tiến hành giáo dục, quản lý, giúp đỡ các thành viên của các thành viên tạo nên sức ép và đối trọng buộc các cơ quan, tổ chức, công chức nhà nƣớc và các thành viên khác của xã hội phải tôn trọng, thực hiện QCN. Thực tiễn tổ chức, hoạt động của các tổ chức xã hội ở nƣớc ta cho thấy bên cạnh những thành tích, ƣu điểm vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém nhƣ hoạt động còn hình thức, nặng tính chất phong trào, nội dung hoạt động còn nghèo nàn, còn thiếu chủ động trong việc đấu tranh bảo vê QCN, quyền công dân. Vì vậy, xây dựng và hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các tổ chức xã hội trở thành yêu cầu khách quan, bức xúc là điều kiện quan trọng tạo nên động lực to lớn trong việc thực hiện, bảo vệ QCN ở nƣớc ta. - Về mặt kinh tế: Đảm bảo ổn định, phát triển kinh tế là cơ sở để bảo đảm và phát triển đối với mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Vì thế những điều kiện để ổn định và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của con ngƣời có tính quyết định đối với việc thực hiện hoá các vấn đề liên quan đến bảo đảm QCN, quyền công dân. Trong mối quan hệ này, Các Mác đã chỉ rõ: “QCN phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và sự phát triển văn hoá do chế độ kinh tế đó quy định”. Trong điều kiện đổi mới ở nƣớc ta hiện nay, phát triển năng lực sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân là yêu cầu cơ bản và cấp thiết để thực hiện có hiệu quả chiến lƣợc QCN, quyền công dân ở nƣớc ta hiện nay. Đáp ứng yêu cầu ấy, Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nƣớc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc; theo định hƣớng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tƣ nhân trong đó sở hữu toàn dân và tập thể làm nền tảng” Với mục đích của chính sách kinh tế là làm cho dân giàu, nƣớc mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần 16 kinh tế. Cho nên, phát triển nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta hiện nay là một đảm bảo quan trọng trong việc thực hiện QCN. Bởi vậy, chỉ trên cơ sở đảm bảo đƣợc ổn định về đời sống kinh tế, thì các đảm bảo khác về chính trị, văn hoá, xã hội mới đƣợc thực hiện. Bởi vì, sự phát triển kinh tế là cơ sở nền tảng cho sự phát triển các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, và ngƣợc lại. Để đáp ứng yêu cầu đó, Nhà nƣớc ta đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật nhằm đảm bảo các chính sách về bảo vệ quyền tự do sản xuất kinh doanh, về chính sách bảo hiểm, bảo hộ ngƣời lao động, bảo hộ ngƣời tiêu dùng và đặc biệt là bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi bị xâm hại hoặc bị tranh chấp. - Về văn hoá, giáo dục: Thực hiện QCN, quyền công dân còn phụ thuộc vào sự phát triển văn hoá, giáo dục, trình độ dân trí . Mỗi thành viên trong xã hội là chủ thể thực hiện QCN của chính mình và của ngƣời khác, vì thế họ phải có trình độ nhận thức về văn hoá, dân chủ, chính trị, pháp luật và các tri thức khác để có khả năng thực hiện và bảo vệ quyền của mình, của ngƣời khác, có khả năng nhận thức và thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với nhà nƣớc và xã hội. Nhƣ vậy, phát triển văn hoá, giáo dục, nâng cao dân trí giúp cho mỗi công dân có khả năng phát triển trí thức, tự hoàn thiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Trong chủ nghĩa xã hội nhân dân là ngƣời chủ xã hội, QCN, quyền công dân đƣợc nhà nƣớc tôn trọng, nhƣng nhân dân phải có năng lực, tri thức nhất định mới thực hiện đƣợc vai trò chủ nhân xã hội, mới có khả năng đấu tranh với các hành vi xâm phạm QCN từ phía các cơ quan, tổ chức, công chức nhà nƣớc cũng nhƣ các thành viên khác của xã hội. Trình độ dân trí càng cao sẽ trở thành áp lực, buộc các cơ quan, tổ chức, công chức nhà nƣớc phải làm việc tốt hơn, đúng pháp luật và tôn trọng con ngƣời hơn. Đảm bảo thực hiện QCN trong xã hội không chỉ là trừng trị những hành vi xâm hại QCN, điều quan trọng hơn là đảm bảo thực hiện những nội dung QCN đối với mọi thành viên trong xã hội, nếu có vi phạm 17 phải đƣợc phát hiện xử lý kịp thời, công minh, từng bƣớc hạn chế đi đến loại trừ những hành vi vi phạm QCN. Điều đó chỉ có thể đƣợc thực hiện nếu có một nền văn hoá giáo dục phát triển, nâng cao dân trí nhiều mặt, hình thành ý thức pháp luật và nếp sống văn hoá pháp lý trong xã hội. - Về pháp luật: Đảm bảo thực hiện QCN bằng pháp luật cũng là điều kiện quan trọng đảm bảo thực hiện QCN, quyền công dân, những tƣ tƣởng, quan điểm tích cực tiến bộ về QCN, những tuyên bố long trọng về nội dung QCN chỉ là không tƣởng nếu chúng không đƣợc thể chế hoá thành pháp luật, đƣợc pháp luật bảo vệ. Thứ nhất, pháp luật là phƣơng tiện chính thức hoá giá trị xã hội của QCN. Quyền – đó là điều mà pháp luật và xã hội công nhận, cho đƣợc hƣởng, đƣợc làm, đƣợc đòi hỏi. QCN là những giá trị đƣợc xã hội hoá, tức là đƣợc xã hội thừa nhận và bảo vệ, phải thông qua phƣơng tiện pháp luật, đƣợc biểu hiện dƣới hình thức pháp luật. Nếu không có sự thừa nhận của xã hội thông qua pháp luật thì những quyền tự nhiên vốn có của con ngƣời chƣa trở thành quyền pháp định, là ý chí chung của xã hội, đƣợc xã hội phục tùng, đƣợc quyền lực nhà nƣớc bảo vệ. Trong một nhà nƣớc pháp quyền khi QCN đƣợc quy định trong Hiến pháp và Luật sẽ trở thành “tối thƣợng”, có giá trị bắt buộc đối với toàn xã hội, ngay cả với các cơ quan cao nhất của Nhà nƣớc. Nhƣ vậy, phƣơng diện pháp luật là phƣơng tiện chính thức hoá giá trị QCN, có thể nói lịch sử QCN là lịch sử nhận thức, đấu tranh cho QCN và đƣợc thể hiện trong lịch sử lập hiến của mỗi quốc gia, lịch sử phát triển của các công ƣớc quốc tế về QCN. Chỉ thông qua pháp luật QCN mới trở thành ý chí và mục tiêu hành động chung của toàn xã hội, có tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội. Thứ hai, Pháp luật là công cụ sắc bén của nhà nƣớc trong việc thực hiện và bảo vệ QCN. Pháp luật là công cụ của Nhà nƣớc, có tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội, vì thế, những quy định về QCN, quyền công dân cùng với những thiết chế nhằm thực hiện, bảo vệ nó trong Hiến pháp và pháp 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan