Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền chọn luật của các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có...

Tài liệu Quyền chọn luật của các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo pháp luật một số nước kinh nghiệm cho pháp luật việt nam

.PDF
72
1
55

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM KHOA LUẬT QUỐC TẾ ------------***------------ PHẠM VŨ THÙY VI MSSV: 1853801090094 QUYỀN CHỌN LUẬT CỦA CÁC BÊN TRONG QUAN HỆ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC - KINH NGHIỆM CHO PHÁP LUẬT VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Niên khóa: 2018 - 2022 Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Lê Hoài ThS. Trịnh Thị Kim Loan TP.Hồ Chí Minh - Năm 2022 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM KHOA LUẬT QUỐC TẾ ------------***------------ PHẠM VŨ THÙY VI MSSV: 1853801090094 QUYỀN CHỌN LUẬT CỦA CÁC BÊN TRONG QUAN HỆ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC - KINH NGHIỆM CHO PHÁP LUẬT VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Niên khóa: 2018 - 2022 Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Lê Hoài ThS. Trịnh Thị Kim Loan TP.Hồ Chí Minh - Năm 2022 LỜI CAM ĐOAN Tác giả xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tác giả, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của ThS. Nguyễn Lê Hoài và ThS. Trịnh Thị Kim Loan, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tác giả xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả Phạm Vũ Thùy Vi DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Giải thích 1 BLDS Bộ luật Dân sự 2 BLHH Bộ luật Hàng hải 3 BTTH Bồi thường thiệt hại 4 BTTHNHĐ Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 5 ĐƯQT Điều ước quốc tế 6 GQTC Giải quyết tranh chấp 7 HĐ Hợp đồng 8 HKDD Hàng không dân dụng 9 Luật Xung đột năm Luật Áp dụng đối với các quan hệ dân sự có yếu tố 10 2010 nước ngoài năm 2010 của nước CHND Trung Hoa Quy chế Rome II Regulation (EC) No 864/2007 of the European Parliament and of the Council of 11 July 2007 on the law applicable to non-contractual obligations 11 TPQT Tư pháp quốc tế 12 Tuyên bố số 1 US First Restatement of Conflict of Laws (First Restatement) of 1934 13 Tuyên bố số 2 US Second Restatement of Conflict of Laws (Second Restatement) of 1971 14 XĐPL Xung đột pháp luật 15 YTNN Yếu tố nước ngoài MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRONG QUAN HỆ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG ...........................7 1.1. Khái quát về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài ..7 1.2. Khái quát về xung đột pháp luật trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ...............................................................................................................10 1.2.1. Khái niệm và nguyên nhân phát sinh xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng .............................................................................................10 1.2.2. Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng .............................................................................................12 1.3. Nguồn luật áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng...............................................................................................25 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................28 CHƯƠNG 2: QUYỀN CHỌN LUẬT CỦA CÁC BÊN TRONG QUAN HỆ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM ..........................................................29 2.1. Kinh nghiệm từ pháp luật một số nước về quyền chọn luật của các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài .....29 2.1.1. Pháp luật Liên minh Châu Âu ..................................................................29 2.1.2. Pháp luật Hoa Kỳ .....................................................................................37 2.1.3. Pháp luật Trung Quốc...............................................................................41 2.2. Pháp luật Việt Nam về quyền thoả thuận chọn luật của các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài và một số kiến nghị ........................................................................................................................46 2.2.1. Pháp luật Việt Nam về quyền thoả thuận chọn luật của các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài ...........................46 2.2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền chọn luật của các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài ............................................................................................................................48 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................59 KẾT LUẬN ..............................................................................................................60 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, nhu cầu giao lưu hợp tác quốc tế cũng trở nên cấp thiết làm cho số lượng các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung trong đó có quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (BTTHNHĐ) có yếu tố nước ngoài (YTNN) nói riêng cũng gia tăng. Khi quan hệ BTTHNHĐ có YTNN phát sinh, với sự tồn tại của nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng có thể được áp dụng thì hiện tượng xung đột pháp luật xảy ra là tất yếu. Từ đó đặt ra yêu cầu cho cơ quan có thẩm quyền khi giải quyết một tranh chấp BTTHNHĐ có YTNN là phải lựa chọn được hệ thống pháp luật thích hợp áp dụng để giải quyết hiện tượng xung đột pháp luật (XĐPL). Ở Việt Nam hiện nay, các vụ việc liên quan tới tranh chấp phát sinh ngoài hợp đồng (HĐ) có yếu tố nước ngoài không còn là vấn đề quá mới mẻ và đã có các quy định pháp luật điều chỉnh. Tư pháp quốc tế (TPQT) Việt Nam đã ban hành hệ thống các quy phạm xung đột để xác định pháp luật áp dụng điều chỉnh quan hệ BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam còn ban hành các quy phạm điều chỉnh một số quan hệ BTTHNHĐ đặc thù có yếu tố nước ngoài như BTTHNHĐ liên quan đến tàu bay, tàu biển, BTTHNHĐ trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ... Điểm đáng chú ý là pháp luật Việt Nam đã ghi nhận quyền chọn luật để giải quyết tranh chấp (GQTC) của các bên trong quan hệ BTTHNHĐ có YTNN tại Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015, đây là thay đổi lớn nhất về mặt quy định pháp luật so với BLDS 2005. Tuy nhiên, vì là lần đầu tiên ghi nhận vấn đề này, những quy định của BLDS 2015 về quyền chọn luật khi GQTC BTTHNHĐ vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, chưa cụ thể, thiếu các quy định về hình thức, thời điểm chọn luật của các bên; không quy định phạm vi áp dụng của nguồn luật được lựa chọn;... Do vậy, các quy định của pháp luật Việt Nam vẫn chưa thể đáp ứng được các yêu cầu đề ra, cũng như chưa đảm bảo được khả năng thực hiện quyền chọn luật của các bên trong quan hệ BTTHNHĐ trên thực tế. 2 Từ những lý do trên, tác giả thực hiện đề tài này nhằm mục đích làm sáng tỏ những quy định của pháp luật Việt Nam về quyền thỏa thuận chọn luật của các bên trong quan hệ BTTHNHĐ có YTNN trên cơ sở so sánh với pháp luật một số quốc gia, cũng như tìm hiểu về thực tiễn áp dụng các quy định này trong việc điều chỉnh các quan hệ BTTHNHĐ có YTNN. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị cho việc hoàn thiện những quy định điều chỉnh quan hệ BTTHNHĐ có YTNN tại Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến đề tài này, có một số công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này được chia thành hai nhóm sau đây: Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về quyền thoả thuận chọn luật trong tư pháp quốc tế: Vũ Thị Hương - Lê Hồng Sơn (2015), “Hình thức và thời điểm thỏa thuận lựa chọn pháp luật của các bên trong tư pháp quốc tế Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 19 (299)/Kỳ 1, tháng 10/2015, tr. 32 - 35. Đỗ Văn Đại (2013), “Quyền lựa chọn pháp luật trong tư pháp quốc tế Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 2 + 3 (234 + 235) Kỳ 2 tháng 1 năm 2013, tr. 46 - 55. Nguyễn Đức Việt (2019), “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong tư pháp quốc tế dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, Tạp chí Luật học, số 3/2019, tr. 84 - 100. Ngô Quốc Chiến (2014), “So sánh một số quy định chung của tư pháp quốc tế Bỉ và Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 15(271), tháng 8/2014, tr. 55 64. 3 Nguyễn Đức Vinh (2017), “Bàn về vấn đề tự do chọn luật áp dụng điều chỉnh quan hệ trách nhiệm ngoài hợp đồng trong pháp luật Liên minh Châu Âu”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, số 01(104)/2017, tr. 41 - 46. Võ Hưng Đạt (2013), “Quyền lựa chọn luật áp dụng theo pháp luật Liên minh Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tọa đàm Quyền công dân trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong pháp luật của Liên minh Châu Âu, TP. Hồ Chí Minh, tr. 59 - 70. Nhóm các công trình này đã phân tích về quyền tự do thỏa thuận chọn luật của các bên trong quan hệ BTTHNHĐ có YTNN, về các điều kiện để thỏa thuận chọn luật của các bên có hiệu lực pháp luật. Các công trình này cũng so sánh quy định của pháp luật Việt Nam với Quy chế số 864/2007 của Liên minh Châu Âu về luật áp dụng đối với nghĩa vụ ngoài hợp đồng (Quy chế Rome II) và pháp luật của một số quốc gia châu Âu khác như Bỉ, Đức, Áo,... để tìm ra những điểm bất cập trong pháp luật Việt Nam, từ đó đưa ra định hướng hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề chọn luật của các bên trong quan hệ BTTHNHĐ có YTNN. Tuy nhiên, nhóm công trình trên hầu hết nghiên cứu so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật một số quốc gia châu Âu, chưa thật sự nghiên cứu đến pháp luật của một số quốc gia khác như Hoa Kỳ hay các quốc gia trong khu vực châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản. Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu về nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung: Lê Thị Nam Giang - Nguyễn Lê Hoài - Phan Hoài Nam (2022), Tư pháp quốc tế (Tái bản lần thứ 5, có sửa đổi và bổ sung), NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Đỗ Thị Mai Hạnh, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam. 4 Ngô Kim Hoàng Nguyên - Lê Trần Thu Nga (2013), “Nguyên tắc chung trong việc giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy tắc Rome II và Bộ luật Dân sự Việt Nam (2005)”, Tọa đàm Quyền công dân trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong pháp luật của Liên minh Châu Âu, TP. Hồ Chí Minh, tr. 93 - 101. Trường Đại học Luật Hà Nội (2022), Giáo trình Tư pháp quốc tế (Tái bản lần thứ 3, có sửa đổi, bổ sung), Trần Minh Ngọc - Vũ Thị Phương Lan, NXB Tư pháp. Đỗ Phương Lan (2016), Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Nhóm các công trình này đã phân tích những quy định trong pháp luật Việt Nam về xác định pháp luật áp dụng để điều chỉnh quan hệ BTTHNHĐ có YTNN một cách rất bao quát, tổng hợp đầy đủ các nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng trong cả trường hợp các bên có thỏa thuận chọn luật lẫn trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật. Tuy nhiên, các công trình trên vẫn chưa đi sâu vào phân tích thực trạng của pháp luật Việt Nam đã đạt được những thành công hay còn tồn tại những hạn chế gì, đồng thời cũng mới chỉ có sự liệt kê, đánh giá các điều khoản quy định về cùng lĩnh vực BTTHNHĐ trong văn bản pháp luật của các quốc gia khác, chưa có sự nghiên cứu so sánh một cách cụ thể về các quy định giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật của các quốc gia đó. Với tình hình nghiên cứu trên, tác giả chọn thực hiện đề tài “Quyền chọn luật của các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo pháp luật một số nước - Kinh nghiệm cho pháp luật Việt Nam” với định hướng nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ BTTHNHĐ khi các bên có thỏa thuận chọn luật. Từ đó, nghiên cứu so sánh quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật của một số nước điển hình như Liên minh Châu Âu (EU), Hoa Kỳ và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra định hướng nhằm hoàn thiện các quy định của Tư pháp quốc tế Việt Nam về quyền chọn luật của các bên trong quan hệ BTTHNHĐ. 5 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài Đề tài được thực hiện với những mục đích: (i) Làm rõ những vấn đề lý luận về giải quyết xung đột pháp luật về BTTHNHĐ có YTNN; (ii) Phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền thỏa thuận chọn luật của các bên trong quan hệ BTTHNHĐ có YTNN; (iii) Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Liên minh Châu Âu, pháp luật Hoa Kỳ, pháp luật Trung Quốc về quyền thỏa thuận chọn luật của các bên trong quan hệ BTTHNHĐ có YTNN; (iv) Tìm ra điểm tương đồng và khác biệt giữa quy định của pháp luật Việt Nam với quy định của pháp luật các nước; (v) Đóng góp giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về quyền chọn luật của các bên trong quan hệ BTTHNHĐ có YTNN. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và đối tượng nghiên cứu 4.1. Phạm vi nghiên cứu Tác giả nghiên cứu đề tài với những phạm vi nghiên cứu cụ thể sau: Dưới góc độ lý luận: Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận trong giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài như: lý luận về xung đột pháp luật, các nguyên tắc và nguồn luật áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Dưới góc độ quy định của pháp luật: Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền thỏa thuận chọn luật của các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài. So sánh những quy định về vấn đề này của pháp luật Việt Nam với pháp luật các nước, cụ thể là: Pháp luật Liên Minh Châu Âu, pháp luật Hoa Kỳ và pháp luật Trung Quốc. Từ đó đánh giá những thành công và hạn chế về mặt quy định pháp luật, đồng thời đưa ra đóng góp hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về quyền chọn luật của các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài. 6 Dưới góc độ thực tiễn: Đề tài nghiên cứu một số vụ việc thực tiễn tại liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ và Trung Quốc để minh chứng và làm sáng tỏ các quy định của pháp luật. 4.2. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về các quy định pháp luật đối với quan hệ BTTHNHĐ có YTNN theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ, Trung Quốc. Cụ thể là các quy định về quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng để GQTC của các bên trong quan hệ BTTHNHĐ và một số quy định hạn chế quyền thỏa thuận chọn luật của các bên trong BTTHNHĐ đối với những lĩnh vực đặc thù. 5. Ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn của đề tài Từ kết quả nghiên cứu, đề tài góp phần xây dựng cơ sở lý luận về xung đột pháp luật và giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ BTTHNHĐ có YTNN. Đề tài cũng làm rõ thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về quyền chọn luật của các bên khi GQTC trong lĩnh vực BTTHNHĐ. Đồng thời, trên cơ sở so sánh với pháp luật các nước, đề tài đóng góp định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam. 6. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của khóa luận bao gồm hai chương: Chương 1: Lý luận chung về xung đột pháp luật trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Chương 2: Quyền chọn luật của các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật một số quốc gia và pháp luật Việt Nam. 7 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRONG QUAN HỆ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG 1.1. Khái quát về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (BTTHNHĐ) là một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác1. Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm BTTHNHĐ là một chế định của pháp luật dân sự có tính cưỡng chế đối với người gây thiệt hại có đủ năng lực hành vi dân sự, được áp dụng trong trường hợp các thiệt hại phát sinh không dựa trên cơ sở hợp đồng đã được thỏa thuận giữa các bên hoặc tuy có tồn tại hợp đồng nhưng hành vi của người gây thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ thi hành hợp đồng đã ký kết2. Trong bối cảnh phát triển và hội nhập mạnh mẽ về kinh tế nói riêng và về nhiều khía cạnh của đời sống xã hội nói chung, nhu cầu giao lưu hợp tác quốc tế là một nhu cầu cấp thiết. Điều này làm cho số lượng các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (YTNN) trong đó có quan hệ BTTHNHĐ có YTNN cũng gia tăng. Chẳng hạn việc phát sinh những trường hợp người gây thiệt hại và người bị thiệt hại mang quốc tịch của những quốc gia khác nhau, hoặc cũng có thể người gây thiệt hại, người bị thiệt hại cùng mang quốc tịch của một quốc gia nhưng hành vi gây thiệt hại lại xảy ra trên lãnh thổ của một quốc gia khác,... Lúc này, những quan hệ BTTHNHĐ kể trên không còn chịu sự điều chỉnh của duy nhất một hệ thống pháp luật nữa, mà có thể chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau. Vì về mặt lý luận, xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia và từ đó kéo theo là sự bình đẳng giữa các hệ thống pháp luật của các quốc gia có liên quan 1 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Tư pháp quốc tế (Tái bản lần thứ 1), Đỗ Thị Mai Hạnh, NXB. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 537. 2 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Tái bản lần thứ 1, có sửa đổi và bổ sung), Đỗ Văn Đại, NXB. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 435 - 436. 8 trong việc điều chỉnh quan hệ dân sự có YTNN, thì khi một quan hệ BTTHNHĐ có YTNN phát sinh liên quan đến bao nhiêu quốc gia thì đồng thời xuất hiện bấy nhiêu hệ thống pháp luật cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh. Những quan hệ BTTHNHĐ có YTNN đó sẽ do ngành luật TPQT điều chỉnh. Pháp luật Việt Nam hiện hành không có quy định riêng về quan hệ BTTHNHĐ có YTNN. Vì vậy, trên cơ sở quy định về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tại khoản 2 Điều 663 BLDS 2015, thì một quan hệ BTTHNHĐ có YTNN phát sinh khi có một trong những yếu tố dưới đây: (i) Thứ nhất, có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài. Yếu tố nước ngoài được xác định trong trường hợp này dựa trên cơ sở quốc tịch của các chủ thể tham gia quan hệ BTTHNHĐ. Trong một quan hệ pháp luật bao giờ cũng có hai bên hoặc có thể nhiều bên, theo quy định tại điểm a khoản 2 là chỉ cần một trong các bên tham gia quan hệ là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài, không nhất thiết phải cả hai bên hoặc nhiều bên, là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài. Quan hệ BTTHNHĐ đó sẽ được coi là quan hệ BTTHNHĐ có YTNN3. (ii) Thứ hai, các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ xảy ra ở nước ngoài. Căn cứ này không dựa vào dấu hiệu quốc tịch của chủ thể để xem xét yếu tố nước ngoài mà căn cứ vào sự kiện pháp lý. Trong quan hệ BTTHNHĐ thì sự kiện pháp lý ở đây được hiểu là sự kiện gây thiệt hại xảy ra ở nước ngoài... 3 Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB. Công an Nhân dân, tr. 1035. 9 Hành vi làm phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ phải là hành vi trái pháp luật4. Hành vi trái pháp luật được thực hiện tại nước ngoài gây ra thiệt hại làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Trong trường hợp này thì không bắt buộc các chủ thể phải không cùng quốc tịch, nơi cư trú hay trụ sở. Chỉ cần hành vi trái pháp luật được thực hiện tại nước ngoài gây ra thiệt hại hoặc hành vi trái pháp luật được thực hiện ở trong nước nhưng hậu quả thực tế của hành vi này lại phát sinh tại nước ngoài thì quan hệ bồi thường thiệt hại (BTTH) đó cũng được coi là BTTHNHĐ có YTNN. (iii) Thứ ba, các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự ở nước ngoài. Ở đây yếu tố nước ngoài được xác định dựa vào đối tượng của quan hệ dân sự chứ không dựa vào quốc tịch của chủ thể hay nơi tồn tại quan hệ dân sự BTTHNHĐ như hai trường hợp kể trên. Đối tượng trong trường hợp này được hiểu là hành vi trái pháp luật được thực hiện và hệ quả là thiệt hại xảy ra, trong đó, thiệt hại có thể bao gồm thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác theo Điều 584 BLDS 20155. Trong trường hợp hành vi trái pháp luật được thực hiện trong nước nhưng thiệt hại thì không chỉ dừng lại tại quốc gia đó mà lại xảy ra tại nước ngoài thì lúc này quan hệ dân sự này đã trở thành quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Khi đó không phải chỉ có pháp luật của quốc gia nơi hành vi trái pháp luật được thực hiện mà có thể pháp luật của quốc gia nơi có thiệt hại xảy ra cũng có thể được áp dụng để điều chỉnh bởi quyền lợi hay lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân của quốc gia này đã bị ảnh hưởng. Như vậy, căn cứ theo Điều 663 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài là nghĩa vụ dân sự của một chủ thể không căn cứ theo một thỏa thuận dân sự hoặc một hợp đồng dân sự có liên quan, phát sinh 4 Lê Thu Hường (2011), Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 18. 5 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (1), tr. 540. 10 khi có hành vi trái pháp luật, mà theo đó gây ra các thiệt hại về mặt vật chất hoặc tinh thần cho các chủ thể khác đồng thời thỏa mãn một trong các điều kiện sau đây: (i) Quan hệ có sự tham gia của ít nhất một chủ thể là: cá nhân, pháp nhân nước ngoài; (ii) Sự kiện pháp lý xảy ra ở nước ngoài; (iii) Thiệt hại xảy ra ở nước ngoài6. 1.2. Khái quát về xung đột pháp luật trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 1.2.1. Khái niệm và nguyên nhân phát sinh xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Thuật ngữ “xung đột” bắt nguồn từ chữ Latinh là Collistio, đó là hiện tượng xảy ra khi phát sinh cùng một vấn đề nhưng các quy phạm pháp luật khác nhau lại quy định khác nhau hoặc các hệ thống pháp luật khác nhau quy định theo cách khác nhau. Theo từ điển pháp luật, “xung đột pháp luật” là sự khác biệt về pháp luật giữa các bang hoặc các quốc gia khác nhau khi có một vụ việc, một giao dịch xảy ra liên quan đến hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau7. Các quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do TPQT điều chỉnh sẽ luôn là các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, có thể các chủ thể trong quan hệ có quốc tịch khác nhau, hoặc các bên trong quan hệ cùng là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng hành vi trái pháp luật gây thiệt hại được thực hiện ở nước ngoài hay hậu quả của hành vi trái pháp luật ở nước ngoài. Chính yếu tố nước ngoài của quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong TPQT quốc tế đã dẫn đến các quan hệ này luôn mang tính phức tạp cao, bởi trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia, quan hệ BTTHNHĐ có YTNN liên quan đến bao nhiêu quốc gia thì đồng thời có bấy nhiêu hệ thống pháp luật cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh. 6 Đỗ Phương Lan (2016), Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 18 - 21. 7 Nguyễn Lê Hoài (2015), Hoàn thiện các quy định của Tư pháp quốc tế Việt Nam về hợp đồng - kinh nghiệm từ pháp luật của một số nước, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 12. 11 Tuy nhiên, xuất phát từ những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, những quan điểm pháp lý khác nhau mà pháp luật giữa các quốc gia có thể quy định khác nhau, thậm chí trái ngược nhau khi cùng điều chỉnh một quan hệ pháp luật cụ thể. Đây là hai nguyên nhân chủ yếu đã làm xung đột pháp luật về BTTHNHĐ nảy sinh. Khi xung đột pháp luật xuất hiện thì mỗi quốc gia phải có cách thức giải quyết xung đột phù hợp vừa đảm bảo lợi ích của các bên, vừa phù hợp với lợi ích của quốc gia mình cũng như thông lệ chung của các nước8. Như vậy, xung đột pháp luật về BTTHNHĐ là hiện tượng có hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau, có những quy định khác nhau, cùng có thể điều chỉnh một quan hệ BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài9. Xung đột pháp luật nói chung và xung đột pháp luật về BTTHNHĐ nói riêng là một vấn đề pháp lý lớn, một hiện tượng pháp luật mang tính quốc gia và quốc tế, một trong những vấn đề cơ bản và quan trọng của TPQT hiện đại. Một quan hệ BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài phát sinh, việc áp dụng hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau sẽ có thể dẫn đến những cách thức giải quyết không giống nhau, thậm chí có những trường hợp có thể trái ngược hoàn toàn. Những quy phạm pháp luật trong pháp luật các nước có thể quy định khác nhau như: điều kiện bồi thường, nguyên tắc bồi thường, các loại thiệt hại phải bồi thường, cách xác định thiệt hại, mức bồi thường, thời hiệu được bồi thường, các trường hợp được miễn trách nhiệm... Chẳng hạn, để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần dựa vào những yếu tố cấu thành trách nhiệm. Hiện nay, quan điểm về các yếu tố này giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước trên thế giới tương đối giống nhau nhưng cũng có một số điểm khác biệt. Theo pháp luật của các nước theo hệ thống án lệ như Anh, Hoa Kỳ thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi có đủ bốn yếu tố: (1) có sự tồn tại một nghĩa vụ (duty); (2) có sự vi phạm nghĩa vụ (breach of duty); (3) có mối quan hệ nhân quả (causation) giữa thiệt hại và hành vi vi phạm; 8 Lê Thu Hường, tlđd (4), tr. 24 - 26. 9 Lê Thu Hường, tlđd (4), tr. 25. 12 (4) có thiệt hại thực tế xảy ra (injury). Tương tự, pháp luật của Cộng hoà Liên bang Đức, theo khoản 1 Điều 823 Bộ luật dân sự cũng quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi có đủ bốn yếu tố. Trong khi đó, Bộ luật dân sự của Cộng hoà Pháp quy định ba yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: yếu tố lỗi, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả và kể từ năm 1880 Bộ luật quy định về trách nhiệm dân sự mà không cần có yếu tố lỗi10. Hoặc sự khác biệt về năng lực chịu trách nhiệm BTTH, Điều 20 BLDS 2015 quy định người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên, và người thành niên mới được xem là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, tuy nhiên, đoạn 1 Điều 18 Bộ Luật dân sự Trung Quốc 2020 quy định: “Công dân từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thu nhập từ lao động là nguồn chính để nuôi sống bản thân được coi là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”11. Như vậy, theo luật Trung Quốc người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ không chỉ là công dân từ đủ 18 tuổi trở lên. Do có những khác biệt như vậy, nên vấn đề đặt ra là phải lựa chọn luật của quốc gia nào để điều chỉnh nhằm đảm bảo lợi ích của các bên, cũng như đảm bảo các nguyên tắc chung của TPQT. Giải quyết được vấn đề này có nghĩa là đã giải quyết được xung đột pháp luật về BTTHNHĐ, thực hiện được một nhiệm vụ quan trọng của TPQT. 1.2.2. Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định quan trọng trong pháp luật dân sự của mỗi quốc gia trên thế giới, tuy nhiên khi xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh, mỗi quốc gia khác nhau sẽ áp dụng nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật khác nhau. Để giải quyết xung đột pháp luật về BTTHNHĐ, cần phải lựa chọn hệ thống pháp luật thích hợp trong các hệ thống pháp luật có liên quan để điều chỉnh quan hệ đó. Quan hệ BTTHNHĐ được 10 Trường Đại học Luật Hà Nội (2022), Giáo trình Tư pháp quốc tế (Tái bản lần thứ 3, có sửa đổi, bổ sung), Trần Minh Ngọc - Vũ Thị Phương Lan, NXB Tư pháp, tr. 438 - 439. 11 Điều 18 BLDS Trung Quốc 2020. 13 điều chỉnh bởi cả hai nguồn luật là Điều ước quốc tế (ĐƯQT) và pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, khác với các lĩnh vực như hợp đồng hay quyền sở hữu trí tuệ... Trong quan hệ BTTHNHĐ, các quy phạm thực chất thống nhất rất ít, ở lĩnh vực này chủ yếu được điều chỉnh bởi các quy phạm xung đột. Các Điều ước quốc tế mang tính toàn cầu điều chỉnh vấn đề này, cũng chủ yếu được xây dựng trong lĩnh vực hàng không quốc tế và hàng hải quốc tế; thêm vào một số điều ước quốc tế khu vực và song phương12. Nhìn chung, vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh quan hệ BTTHNHĐ có YTNN thuộc về các quy phạm xung đột trong pháp luật quốc gia. Do đó, phương pháp xung đột là phương pháp được áp dụng phổ biến trong lĩnh vực này, thể hiện qua một số nguyên tắc sau đây: (i) Pháp luật của quốc gia nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại (Lex loci delicti). Nguyên tắc lex loci delicti được hiểu là hành vi gây thiệt hại xảy ra ở quốc gia nào thì pháp luật của quốc gia đó sẽ được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về BTTHNHĐ. Đây là hệ thống pháp luật có mối liên hệ mật thiết với quan hệ BTTHNHĐ có YTNN, vì việc có hành vi gây thiệt hại là một trong các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ, vậy nên pháp luật nơi xảy ra hành vi làm căn cứ phát sinh trách nhiệm hoàn toàn có thể được áp dụng để giải quyết quan hệ đó. Là một nguyên tắc được áp dụng rộng rãi, có thể tìm được quy định về lex loci delicti trong các văn bản như: khoản 2 Điều 133 Luật TPQT Thụy Sỹ 1987 quy định “nếu bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại không có nơi cư trú thường xuyên trong cùng một tiểu bang, thì những khiếu nại về BTTHNHĐ được điều chỉnh bởi luật của tiểu bang mà hành vi gây thiệt hại được thực hiện”, khoản 1 Điều 34 Bộ luật TPQT Thổ Nhĩ Kỳ 2007 cũng quy định: “Các nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại sẽ được điều chỉnh bởi luật pháp của quốc gia nơi hành vi đó được thực hiện”, Điều 44 Luật Áp dụng đối với các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (gọi 12 Lê Thị Nam Giang - Nguyễn Lê Hoài - Phan Hoài Nam (2022), Tư pháp quốc tế (Tái bản lần thứ 5, có sửa đổi và bổ sung), NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 269 - 270. 14 tắt là Luật Xung đột năm 2010) cũng quy định “Luật tại nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại sẽ áp dụng điều chỉnh trách nhiệm pháp lý đối với hành vi đó”... Nguyên tắc “Lex loci” - một thuật ngữ latinh có nghĩa là “luật của một địa điểm”13 nói chung có nguồn gốc từ thuyết địa tính, nguyên tắc lễ nhượng quốc tế và học thuyết “quyền được trao”14. Các nguyên tắc và học thuyết truyền thống này đưa ra quan điểm rằng một quốc gia có quyền quy định luật lệ cho các giao dịch hoặc sự kiện diễn ra trên lãnh thổ của mình. Các quy phạm này có hiệu lực tuyệt đối trên phạm vi lãnh thổ quốc gia, đồng thời có hiệu lực đối với các chủ thể cư trú trên phạm vi lãnh thổ đó mà không phụ thuộc vào quốc tịch của họ. Khi hành vi vi phạm làm phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ xảy ra trên lãnh thổ một quốc gia, thì chỉ áp dụng luật của quốc gia đó để giải quyết. Các bên trong vụ việc là người mang quốc tịch khác có thể có những quyền nhân thân chủ quan được quốc gia công nhận, nhưng việc công nhận các “quyền được trao” cũng không phải là nghĩa vụ của họ15. Vì vậy, khi sự kiện pháp lý làm phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ đã xảy ra trên lãnh thổ quốc gia nào, thì phải áp dụng pháp luật quốc gia đó để giải quyết, dù các bên trong quan hệ BTTHNHĐ đó mang quốc tịch nước ngoài và địa vị giữa các quốc gia là bình đẳng. Trong vụ kiện Griffith v. United Airlines, Inc (1965)16, Tòa án tại bang pennsylvania cũng đã áp dụng nguyên tắc lex loci delicti. Cụ thể, vào ngày 11 tháng 7 năm 1961, George Hambrecht, một cư dân của Pennsylvania, lên một chuyến bay của United Airlines tại Philadelphia để đến Arizona. Máy bay gặp nạn ở Colorado, và Hambrecht - người thân của nguyên đơn, đã thiệt mạng. 13 Nguyên tắc luật nơi phát sinh các quyền cụ thể là luật điều chỉnh quyền của các bên tham gia tố tụng, xem tại https://www.law.cornell.edu/wex/lex_loci, truy cập ngày 10/06/2022. 14 “vested rights doctrine” - Xem án lệ Myers v. Hayes International Corp., 701 F. Supp. 618 (M.D. Tenn. 1988). 15 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (1), tr. 85 - 89. 16 Lex Loci Delicti Rejected In Torts Conflicts Of Law - Griffith v. United Airlines, Inc., 25 Md. L. Rev. 238, 1965, Xem tại: http://digitalcommons.law.umaryland.edu/mlr/vol25/iss3/5, truy cập ngày 12/06/2022.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan